Trước hết có thể nói, chuyển đổi số là xu thế, là phương thức phát triển mới của mỗi cá nhân, tổ chức; nói rộng hơn là của các quốc gia trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Hiện nay, có rất nhiều quan điểm giải thích về chuyển đổi số, do vậy rất khó định nghĩa một cách rõ ràng
chuyển đổi số là gì, bởi quá trình này có thể sẽ có sự khác biệt ở từng lĩnh vực. Giải thích một cách ngắn gọn và dễ hiểu nhất thì chuyển đổi số là quá trình thay đổi tổng thể và toàn diện của cá nhân, tổ chức về cách sống, cách làm việc và phương thức sản xuất dựa trên các công nghệ số. Chuyển đổi số, ngày càng được phát triển và phổ biến rộng rãi, nó được ứng dụng vào rất nhiều lĩnh vực khác nhau. Tại Việt Nam, có 02 lĩnh vực được sử dụng nhiều nhất đó là: Chuyển đổi số trong doanh nghiệp và chuyển đổi số cơ quan Nhà nước.
Như chúng ta đã biết, cốt lõi của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 chính là chuyển đổi số với sự tích hợp của số hóa, kết nối, siêu kết nối và xử lý dữ liệu thông minh. Đây là quá trình phát triển tất yếu trên toàn cầu và Việt Nam cũng không thể nằm ngoài lộ trình ấy. Để thích ứng với tình hình mới, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27-9-2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trong đó nhấn mạnh yêu cầu cấp bách để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số. Trên cơ sở đó, Chính phủ đã ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 52-NQ/TW, đồng thời Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 01/CT-TTg ngày 14-1-2020 về “Thúc đẩy phát triển công nghệ số Việt Nam”, Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 3-6-2020 phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, trong đó đặt ra mục tiêu nước ta trở thành quốc gia số, ổn định và thịnh vượng, tiên phong thử nghiệm các công nghệ và mô hình mới. Đồng thời, đổi mới toàn diện hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phương thức sống, làm việc của người dân, phát triển môi trường số an toàn, nhân văn, rộng khắp. Chương trình Chuyển đổi số quốc gia nhằm mục tiêu kép là vừa phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, vừa hình thành các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam có năng lực đi ra toàn cầu. Trong đó, một số chỉ số cơ bản liên quan đến phát triển chính phủ số như sau:
Đến năm 2025: Cung cấp 80% dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 trên nhiều phương tiện truy cập khác nhau, bao gồm cả thiết bị di động; xử lý trên môi trường mạng 90% hồ sơ công việc tại cấp bộ, tỉnh; 80% hồ sơ công việc tại cấp huyện và 60% hồ sơ công việc tại cấp xã; 100% chế độ báo cáo, chỉ tiêu tổng hợp báo cáo định kỳ và báo cáo thống kê về kinh tế - xã hội phục vụ sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ được kết nối, tích hợp, chia sẻ dữ liệu số trên Hệ thống thông tin báo cáo Chính phủ; 100% cơ sở dữ liệu quốc gia tạo nền tảng phát triển Chính phủ điện tử bao gồm các cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đất đai, tài chính, đăng ký doanh nghiệp, bảo hiểm được hoàn thành và kết nối, chia sẻ trên toàn quốc...
Đến năm 2030: Cung cấp 100% dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 trên nhiều phương tiện truy cập khác nhau, bao gồm cả thiết bị di động; xử lý trên môi trường mạng 100% hồ sơ công việc tại cấp bộ, tỉnh; 90% hồ sơ công việc tại cấp huyện và 70% hồ sơ công việc tại cấp xã ....
Với quyết tâm thực hiện chuyển đổi số, ngày 3/6/2020, Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quyết định số
749/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
Tại Quyết định số
749, Việt Nam xác định
tầm nhìn chuyển đổi số đến năm 2030 đó là: “
Việt Nam trở thành quốc gia số, ổn định và thịnh vượng, tiên phong thử nghiệm các công nghệ và mô hình mới; đổi mới căn bản, toàn diện hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phương thức sống, làm việc của người dân, phát triển môi trường số an toàn, nhân văn, rộng khắp”.
Từ tầm nhìn trên cho thấy, chuyển đổi số Việt Nam có tính tổng thể, toàn diện và dựa trên cả
03 trụ cột phát triển đó là:
Chính phủ số; Kinh tế số; Xã hội số. Trong đó, Chính phủ số phải tạo điều kiện, là nền tảng cho kinh tế số, xã hội số phát triển.
Chương trình chuyển đổi số quốc gia cũng đã xác định các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm cần thực hiện.
I. TẠO NỀN MÓNG CHUYỂN ĐỔI SỐ
1. Chuyển đổi nhận thức
Chuyển đổi nhận thức về sứ mệnh, sự cần thiết, tính cấp bách của chuyển đổi số trong xã hội; lan truyền từ một nhóm tổ chức, cá nhân tiên phong tới cộng đồng, bằng những câu chuyện thành công điển hình, có tính thuyết phục cao.
2. Kiến tạo thể chế
Kiến tạo thể chế theo hướng khuyến khích, sẵn sàng chấp nhận sản phẩm, giải pháp, dịch vụ, mô hình kinh doanh số, thúc đẩy phương thức quản lý mới đối với những mối quan hệ mới phát sinh, bao gồm:
a) Chấp nhận thử nghiệm sản phẩm, giải pháp, dịch vụ, mô hình kinh doanh số trong khi quy định pháp lý chưa đầy đủ, rõ ràng, song song với việc hoàn thiện hành lang pháp lý (Xây dựng khung pháp lý thử nghiệm có kiểm soát cho hoạt động phát triển, thử nghiệm và áp dụng các sản phẩm, giải pháp, dịch vụ, mô hình kinh doanh số ở Việt Nam, quy định rõ phạm vi không gian và thời gian thử nghiệm, để khuyến khích đổi mới, sáng tạo);
b) Rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực để đáp ứng yêu cầu điều chỉnh các mối quan hệ mới phát sinh trong tiến trình chuyển đổi số, khuyến khích đổi mới, sáng tạo;…
3. Phát triển hạ tầng số
Phát triển hạ tầng mạng băng rộng, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu bùng nổ về kết nối và xử lý dữ liệu; các chức năng về giám sát mạng lưới đến từng nút mạng và bảo đảm an toàn, an ninh mạng.
4. Phát triển nền tảng số
Phát triển nền tảng số mang tính thúc đẩy nhanh tiến trình chuyển đổi số; mang lại lợi ích, hiệu quả rõ ràng cho xã hội.
5. Tạo lập niềm tin, bảo đảm an toàn, an ninh mạng
Tạo lập niềm tin vào tiến trình chuyển đổi số, hoạt động trên môi trường số thông qua việc hình thành văn hóa số, bảo vệ các giá trị đạo đức căn bản và bảo đảm an toàn, an ninh mạng, bảo vệ dữ liệu cá nhân.
6. Hợp tác quốc tế, nghiên cứu, phát triển
Thu hút nhân tài, hợp tác với các tổ chức, doanh nghiệp lớn trên thế giới để nghiên cứu, phát triển và đổi mới sáng tạo.
II. PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ SỐ
Chuyển đổi số trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, phát triển Chính phủ điện tử, hướng đến Chính phủ số trong đó tập trung phát triển hạ tầng số phục vụ các cơ quan nhà nước một cách tập trung, thông suốt; tạo lập dữ liệu mở dễ dàng truy cập, sử dụng, tăng cường công khai, minh bạch, thúc đẩy phát triển các dịch vụ số trong nền kinh tế; cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ cao trên thiết bị di động thông minh để người dân, doanh nghiệp có trải nghiệm tốt nhất về dịch vụ, nhanh chóng, chính xác, không giấy tờ, giảm chi phí; cải thiện chỉ số xếp hạng quốc gia về Chính phủ điện tử.
III. PHÁT TRIỂN KINH TẾ SỐ
Thúc đẩy phát triển kinh tế số với trọng tâm là phát triển doanh nghiệp công nghệ số, chuyển dịch từ lắp ráp, gia công về công nghệ thông tin sang làm sản phẩm công nghệ số, công nghiệp 4.0, phát triển nội dung số, công nghiệp sáng tạo, kinh tế nền tảng, kinh tế chia sẻ, thương mại điện tử và sản xuất thông minh. Thúc đẩy chuyển đổi số trong các doanh nghiệp để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và cả nền kinh tế.
IV. PHÁT TRIỂN XÃ HỘI SỐ
Thúc đẩy chuyển đổi số xã hội, tập trung vào chuyển đổi kỹ năng, cung cấp các khóa học đại trà trực tuyến mở, hợp tác với các tổ chức, doanh nghiệp để đào tạo, tập huấn, nâng cao kiến thức, kỹ năng về công nghệ số và chuyển đổi số, hình thành văn hóa số. Chuẩn bị nguồn nhân lực cho chuyển đổi số để phát triển xã hội số, không ai bị bỏ lại phía sau.
Từ những định hướng, nhiệm vụ chuyển đổi số nêu trên; một số yêu cầu chính đặt ra đối với cơ quan nhà nước trong chuyển đổi số đó là:
Thứ nhất, về nhận thức: Nhận thức về chuyển đổi số của các cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước phải đi trước một bước; phải được thường xuyên trau dồi và nâng cao (thông qua hội thảo, hội nghị, đào tạo, tập huấn); người đứng đầu cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm trực tiếp về chuyển đổi số trong cơ quan, tổ chức, lĩnh vực, địa bàn mình phụ trách.
Thứ hai, về thể chế: Kịp thời xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo điều kiện, theo kịp tiến trình chuyển đổi số (mức luật và dưới luật). Thực thi hệ thống pháp luật để thúc đẩy chuyển đổi số ở cả 3 trụ cột chính phủ số, kinh tế số, xã hội số.
Thứ ba, về hạ tầng: Tập trung phát triển hạ tầng truyền dẫn, hạ tầng dữ liệu
(đặc biệt là các cơ sở dữ liệu dùng chung; ứng dụng điện toán đám mây), các nền tảng số quy mô quốc gia, chuyên ngành, địa phương; hướng tới kết nối, chia sẻ, dùng chung tài nguyên, dữ liệu số hiệu quả tại các cấp trên quy mô toàn quốc.
Thứ tư, về các hoạt động trong nội bộ CQNN: Chuyển đổi số (ứng dụng công nghệ số) trong hầu hết các hoạt động cơ bản, chuyên ngành của từng lĩnh vực. Trong đó, cần ưu tiên phát triển các nền tảng số để triển khai các hoạt động quản lý chuyên ngành từ Trung ương đến địa phương; việc quản lý, ra quyết định hướng tới dựa trên dữ liệu số.
Thứ năm, về cung cấp dịch vụ công cho người dân, doanh nghiệp: Đẩy mạnh cung cấp dịch vụ công trực tuyến theo hướng toàn trình (cho phép người dân nộp hồ sơ thủ tục hành chính qua mạng, cán bộ xử lý hồ sơ qua mạng, thanh toán trực tuyến, kết quả được trả qua mạng hoặc qua dịch vụ bưu chính).