Đánh giá hướng tiếp cận trong nghiên cứu người cao tuổi của Sáng kiến “Già cậy con” và Luật người cao tuổi thuộc Hợp phần JIFF -Dự án EU JULE
Sign In

Đánh giá hướng tiếp cận trong nghiên cứu người cao tuổi của Sáng kiến “Già cậy con” và Luật người cao tuổi thuộc Hợp phần JIFF -Dự án EU JULE

Do đặc trưng người cao tuổi (NCT) là đối tượng yếu thế về sức khỏe và hết tuổi lao động nên khi đề cập đến NCT thì vấn đề thường được tập trung tìm hiểu là chăm sóc sức khỏe và an sinh xã hội. Ở tầm chính sách vĩ mô, NCT còn được chú trọng ở khía cạnh già hóa dân số do vấn đề này ảnh hưởng đến sự phát triển của một quốc gia. Giống như việc gia tăng dân số, dân số già hóa cũng gây ra nhiều thách thức cho tăng trưởng kinh tế cũng như hạ tầng cơ sở và các dịch vụ an sinh xã hội. Thực vậy, một xã hội già hóa dân số thì lực lượng lao động sẽ suy giảm trong khi đó việc chăm lo cho người già lại gia tăng, điều này sẽ làm mất cân bằng cho sự phát triển.

Việc chủ động ứng phó với vấn đề già hóa là một mối quan tâm lớn của các quốc gia đang đối mặt với vấn đề này. Cụ thể, Foster và Walker (2014) cho rằng trong hai thập kỷ qua, “già hóa chủ động – active aging” đã xuất hiện ở châu Âu như một phản ứng chính sách quan trọng nhất đối với những thách thức của già hóa dân số. Hai ông cho rằng già hóa chủ động và khác với khái niệm “già hóa thành công - successful aging”. Đặc biệt, quá trình già hóa chủ động thể hiện một cách tiếp cận toàn diện hơn, hướng đến sống tốt hơn là già hóa thành công. Chương trình già hóa chủ động là cách tiếp cận chủ động về tiềm năng già hóa dân số cho phép các quốc gia ứng phó thành công với những thách thức của già hóa dân số bằng cách tập trung toàn diện và nhấn mạnh vào trách nhiệm xã hội cũng như cá nhân. Già hóa chủ động cung cấp một nền tảng tiềm năng để xây dựng sự đồng thuận trong chính sách đối với già hóa nhằm giải quyết các mối quan tâm của các cá nhân, lĩnh vực và khu vực. Tuy nhiên, các đề xuất và khuyến nghị chính sách không mang lại nhiều lợi ích trừ khi chúng kèm theo các hành động thích hợp (Liam Foster và Alan Walker 2014: 1-2).
Nghiên cứu "Nhận thức về gánh nặng chăm sóc người cao tuổi giữa vợ/chồng cho nhau hay con cái ở Flanders, Vương Quốc Bỉ: Ai là người cảm thấy gánh nặng hơn và tại sao? " của Benedicte De Koker in trong cuốn Sự lão hóa, Nhu cầu chăm sóc và Chất lượng cuộc sống : Quan điểm của Người chăm sóc và những người cần chăm sóc (Doblhammer, Gabriele, Scholz, Rembrandt (Eds. 2010) bổ sung vào tài liệu về sự khác biệt trong chăm sóc từ góc độ gia đình. Nghiên cứu đã xem xét gánh nặng của người chăm sóc trong số một mẫu đại diện rộng rãi về những người chăm sóc không chính thức ở Flanders. Các câu hỏi nghiên cứu là: (1) Nhận thức gánh nặng của người chăm sóc có khác nhau giữa vợ / chồng và con cái không? và (2) nếu có, sự khác biệt này có thể được giải thích do vợ chồng và con cái đang phải đối mặt với những tình huống chăm sóc khác nhau không?
Từ các phân tích lưỡng biến, người ta thấy rằng vợ/chồng đang trở thành gánh nặng cho nhau hơn là con cái đối với cha mẹ. Không có gì đáng ngạc nhiên khi con cái ít có khả năng sống cùng nhà với cha mẹ lớn tuổi cần được chăm sóc. Cường độ chăm sóc cho nhau giữa vợ/ chồng và con cái cho cha mẹ cũng khác nhau. Số giờ trung bình của vợ hoặc chồng chăm sóc cho nhau cao hơn ba lần so với con cái chăm sóc cha mẹ. Thời gian trung bình vợ hoặc chồng đã chăm sóc cho nhau lâu hơn khoảng ba năm so với con cái chăm sóc cho cha mẹ. Thực tế là con cái đang cung cấp dịch vụ chăm sóc toàn diện ở một mức độ ít hơn nhiều so với giữa vợ và chồng.
Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng các người cao tuổi ít nhận được sự giúp đỡ từ các chuyên gia, những người chăm sóc không chính thức khác và các tình nguyện viên. Mặt khác, xét về chất lượng của mối quan hệ với người được chăm sóc, kết quả cho thấy rằng cảm xúc tình cảm thường chiếm ưu thế hơn giữa các cặp vợ chồng, trong khi ở con cái, nghĩa vụ đạo đức là cảm giác thúc đẩy chính. Không có sự khác biệt đáng kể về mối quan hệ có đi có lại. Phần lớn cả vợ chồng và con cái đều cho biết họ đã nhận được phần thưởng nào đó từ người được chăm sóc. Cuối cùng, như mong đợi, kết quả cho thấy sự khác biệt lớn về mức độ mà người chăm sóc tham gia vào các vai trò khác. So với con cái, vợ / chồng ít có khả năng chăm sóc nhiều hơn một người.
Vợ/ chồng cảm thấy có gánh nặng hơn do có cường độ chăm sóc cao hơn. Do có sự khác biệt mạnh mẽ trong gia đình về gánh nặng của người chăm sóc nên các chương trình hỗ trợ người chăm sóc không chính thức phải chú ý đến sự khác biệt này. Người chăm sóc vợ / chồng đáng được quan tâm đặc biệt vì họ là những người dễ bị tổn thương nhất và sẽ trở thành nhóm người chăm sóc thậm chí còn quan trọng hơn trong tương lai. Các dự báo về sắp xếp cuộc sống cho thấy tỷ lệ người cao tuổi sống với vợ hoặc chồng sẽ tăng trong 30 năm tới. Trên thực tế, đa số người tàn tật từ 75 tuổi trở lên sẽ bao gồm những người đã có gia đình và có con. Vì phần lớn việc chăm sóc sẽ đổ lên vai của vợ / chồng và sau đó mới là con cái nên các chính sách hỗ trợ những người chăm sóc vợ/ chồng này có tầm quan trọng chính (Doblhammer, Gabriele, Scholz, Rembrandt (Eds.) 2010: 215-217).
Ở một khía cạnh khác, truyền thống chữ hiếu lại chi phối việc chăm sóc người già ở các nước Châu Á, đặc biệt là Trung Quốc. Tại Trung Quốc, chính sách một con trong thời gian dài cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến an sinh xã hội cho người già. Theo Bùi Hữu Nghĩa (2018), hiện nay, quốc gia này chịu nhiều phí tổn khi phải cáng đáng công việc chăm sóc người cao tuổi ngày càng gia tăng. Với văn hóa sống chung với cha mẹ, người già đang là một gánh nặng cực lớn trên vai những người trẻ hơn. Chúng ta hình dung một cặp vợ chồng trẻ của thời kì chính sách con một, theo đúng lễ nghĩa Trung Hoa thì họ phải chăm sóc cha mẹ 2 bên, tức là 4 người, nếu bậc ông, bà còn sống thì số người lũy kế lên có thể là 8 người, tổng cộng là 12 người. Điều này là cực kì khó khăn và cũng là nguyên nhân để dẫn đến sự thay đổi trong việc chăm sóc người già ở đất nước đông dân nhất này. Người cao tuổi thường thiếu thốn nơi ở và sống phụ thuộc vào con cháu. Nói cách khác chất lượng cuộc sống cuối đời của họ phụ thuộc chủ yếu vào hệ thống chăm sóc trong gia đình. Thực tế này cho thấy Trung Quốc cần thực hiện nhiều giải pháp kịp thời và hiệu quả. Tác giả đưa ra một số giải pháp quan trọng. Thứ nhất là mở rộng độ bao phủ của trợ cấp người cao tuổi và đảm bảo rằng tất cả người cao tuổi đều có thể nhận được mức trợ cấp tối thiểu. Thứ hai, ban hành luật về chống bạo hành người cao tuổi và xâm phạm tài sản của họ. Thứ ba, tăng cường hệ thống bảo hiểm y tế và dịch vụ chăm sóc y tế cơ bản. Thứ tư, tạo cơ hội việc làm cho người cao tuổi đối với những người còn có nhu cầu làm việc. Thứ năm, phát huy vai trò của người cao tuổi trong việc tham gia vào quy trình chính sách ở các cấp, thông qua việc phát huy vai trò của hiệp hội người cao tuổi. Thứ sáu, tiếp tục phát triển các hình thức giáo dục suốt đời để giúp người cao tuổi có được chất lượng đời sống tinh thần phong phú. Thứ bảy, đa dạng hoá các kênh chăm sóc người cao tuổi. Thứ tám, giảm tình trạng lạm dụng và phân biệt đối xử với người cao tuổi để bảo vệ nhân phẩm cho họ. Những biện pháp mà tác giả đưa ra tương đối toàn diện để đảm bảo chất lượng sống của người cao tuổi được nâng cao (tr.15).
Bên cạnh vai trò của gia đình như những người chăm sóc thì vai trò của các tổ chức tự nguyện như hiệp hội cũng được đề cập đến. WHO (2012) cho biết, Trung Quốc gần đây đã ban hành chính sách thúc đẩy việc cải thiện thông qua các hiệp hội. Nhà nước cho phép mở rộng 490.000 hiệp hội để điều chỉnh các hoạt động cho tốt hơn với các mục tiêu phát triển. Trong đó, các hiệp hội của người cao tuổi hoạt động đa chức năng trên nhiều lĩnh vực, trong đó phổ biến nhất là tập trung vào việc cải thiện thu nhập thông qua tín dụng vi mô và các hoạt động tạo thu nhập; cung cấp sức khỏe và chăm sóc cho người cao tuổi, bao gồm thông qua các chương trình chăm sóc cộng đồng nhằm vào người cao tuổi phụ thuộc vào sự chăm sóc; cung cấp các hoạt động xã hội và văn hóa cũng như ứng phó với thiên tai; tạo điều kiện cho sự tham gia các hoạt động xã hội. Các hiệp hội cũng có thể cung cấp trợ giúp xã hội dưới dạng tiền, thực phẩm và sức lao động cho những người cần họ nhất trong cộng đồng. Các hiệp hội hợp tác chặt chẽ với các cơ quan công quyền không chỉ để đảm bảo rằng các thành viên cộng đồng của họ đang nhận được các dịch vụ mà họ được hưởng, chẳng hạn như lương hưu xã hội và bảo hiểm y tế, mà còn để vận động cho việc phát triển và mở rộng các dịch vụ và nguồn lực do địa phương cung cấp các qua các cơ quan chức năng. Tại Việt Nam, các hiệp hội đã chứng tỏ năng lực của mình trong việc gây quỹ. Hiệp hội của người cao tuổi có tiềm năng lớn để thúc đẩy chương trình tuổi già sống vui sống khỏe. Đối với hội viên, họ tổ chức khám sức khỏe định kỳ, thực hiện các hoạt động giáo dục sức khỏe, rèn luyện thân thể thường xuyên, truyền đạt kiến ​​thức về lối sống lành mạnh và phòng chống các bệnh không lây nhiễm. Ở Đông Nam Á, các hiệp hội đang phát triển một cách tiếp cận chăm sóc cộng đồng toàn diện để hỗ trợ ngày càng nhiều người cao tuổi phụ thuộc nhiều và cần trợ giúp với các hoạt động hằng ngày có thu nhập hạn chế hoặc không được gia đình chăm sóc đầy đủ. Các hoạt động này bao gồm tuyển dụng, đào tạo và quản lý các tình nguyện viên chăm sóc tại nhà từ cộng đồng để cung cấp hỗ trợ chăm sóc cá nhân cho những người lớn tuổi có nhu cầu. Các hiệp hội cũng có thể giúp thanh toán chi phí vận chuyển đến các trạm y tế khi được yêu cầu, và cung cấp các liên kết đến các dịch vụ bổ sung, chẳng hạn như các dịch vụ cung cấp thiết bị trợ giúp hoặc phục hồi chức năng. Một số hiệp hội cũng huy động nguồn lực và sức lao động để sửa chữa và sửa chữa nhà cửa, và ở những khu vực bị thiên tai, họ đảm bảo rằng tất cả những người cao tuổi gặp rủi ro đều có một người bạn khẩn cấp được chỉ định để hỗ trợ họ trong lúc nguy cấp. Các hiệp hội của người cao tuổi đã và đang thu hút một cách hiệu quả các nguồn lực vốn có của những người lớn tuổi để huy động toàn bộ cộng đồng (tr.138).
Nghiên cứu của nhóm tác giả Jon Pynoos, Christy Nishita Caroline Cicero Rachel Caraviello (2008) cho thấy người già mong muốn ở nhà và trong cộng đồng của họ dù cho bệnh tật có ảnh hưởng tới cuộc sống của họ. Đây cũng là một yếu tố tác động đến chính sách công và đã tạo ra một phong trào ủng hộ việc này ở Mỹ. Tuy nhiên, phong trào này bị hạn chế do thiếu cơ sở vật chất và nhà cửa để hỗ trợ cho người già khi họ ở tại gia đình. Luật pháp ủng hộ xây dựng những căn nhà liền kề với những tiện nghi chỉ phù hợp cho những người trẻ, khỏe và hoàn toàn không được phép sửa đổi để phù hợp cho những người cao tuổi. Vì thế, người cao tuổi thường phải thay đổi môi trường sống để thích ứng với năng lực thay đổi theo hướng ngày càng yếu đi của họ. Những thách thức trong việc tìm kiếm nhà ở phù hợp với lứa tuổi ở ngay trong cộng đồng của họ hoặc sửa chữa ngôi nhà hiện có là khó khăn. Chính điều này đã đẩy những người lớn tuổi vào viện dưỡng lão, bất chấp mong muốn của họ có thể khác. Nghiên cứu này kết luận rằng cần phải tạo ra những ngôi nhà để người cao tuổi có thể ở lại nơi mà họ đã gắn bó gần hết cả cuộc đời thay vì phải đến các viện dưỡng lão sống với những người xa lạ (Pynoos và các tác giả, 2008).
Công trình "Care in Old Age in Southeast Asia and China" của tổ chức Help Age International (2013) chỉ ra rằng hai vấn đề quan trọng nhất sẽ có tác động đến việc cung cấp dịch vụ chăm sóc trong tương lai là thay đổi nhân khẩu học và việc tiếp cận tài chính. Đến năm 2050, dân số già hóa đáng kể sẽ đặt ra nhu cầu chưa từng có về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe; các quốc gia khó có thể đáp ứng được những nhu cầu này nếu không có sự đầu tư sớm và đáng kể vào cơ sở hạ tầng và dịch vụ. Việc thiếu cung cấp lương hưu toàn dân ở hầu hết các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á và thiếu dịch vụ chăm sóc sức khỏe toàn dân miễn phí cho người cao tuổi có khả năng tạo ra tình trạng người cao tuổi không đủ khả năng tiếp cận các dịch vụ mà họ yêu cầu. Ngoài ra việc di cư lao động đến các trung tâm đô thị cũng sẽ tạo ra một nguồn lực tài chính cho các bậc phụ huynh và người thân lớn tuổi nhưng cũng loại bỏ dịch vụ chăm sóc dựa vào gia đình như một lựa chọn. Việc người cao tuổi không được tư vấn về dịch vụ chăm sóc họ cần và mong muốn góp phần tạo ra khoảng cách đáng kể trong việc cung cấp dịch vụ chăm sóc. Khoảng cách lớn nhất liên quan đến chăm sóc đối với người cao tuổi không phải là sự quan tâm chăm sóc mà là sự thiếu hỗ trợ của xã hội. Nhóm chịu tác động lớn nhất là những người ở độ tuổi từ 70 đến 79 tuổi, có thể vì nhóm này ít tuổi hơn nhóm tuổi 80 (nhóm chính thức nhận được hỗ trợ) nhưng ít di động và kết nối hơn nhóm tuổi 60 đến 69. Nghiên cứu này cũng cho rằng những người chăm sóc không hiểu những nhu cầu cơ bản của người thân lớn tuổi của họ và bản thân những người thân cũng thiếu trang bị những kiến thức cần thiết để chăm sóc cho người già. Vì vậy, cần phát triển các dịch vụ chăm sóc cho người gia dựa vào cộng đồng như xây dựng các trung tâm truyền thông về thông tin chăm sóc và sức khỏe, thành lập các nhóm và mạng lưới cộng đồng có thể cung cấp hỗ trợ cho người cao tuổi và người những người chăm sóc cho người cao tuổi. Các cơ sở chăm sóc cộng đồng có thể đảm bảo rằng những người cao tuổi neo đơn và những người ở vùng nông thôn cũng nhận được các dịch vụ tốt nhất (tr.4).
Nelson Chow (2004) cung cấp cái nhìn thú vị về mối tương quan giữa giá trị và việc chăm sóc người già ở các xã hội Đông và Đông Nam Á. Kết quả cho thấy là dù là chữ hiếu đang giảm tầm ảnh hưởng nhưng lại là yếu tố quan trọng nhất chi phối hành vi con cái chăm sóc cha mẹ và họ hàng. Do vậy các chính sách lâu dài về chăm sóc người già ở các xã hội này phải chú ý đến sự thay đổi của các giá trị "hiếu". Chăm sóc dựa vào cộng đồng vốn bao gồm các thực hành chính thống và phi chính thống là chiến lược hiệu quả nhất đối với an sinh của người già (tr. 21).
Tại Việt Nam, trong những năm qua, bảo đảm an sinh xã hội cho người cao tuổi ở Việt Nam ngày càng được hoàn thiện và phát triển, đặc biệt với sự ra đời của Luật NCT vào năm 2009. Từ đó đến nay, đã có nhiều chính sách, chương trình dành cho người cao tuổi theo các nhóm đối tượng khác nhau, nhưng tập trung nhất là các nhóm chính sách về BHXH, BHYT và trợ cấp xã hội. Báo cáo “Già hóa dân số và người cao tuổi ở Việt Nam: Thực trạng, dự báo và một số khuyến nghị chính sách” được Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) khởi xướng trong khuôn khổ chương trình Kế hoạch Một Liên hợp quốc. Báo cáo này cung cấp những thông tin và phân tích kỹ lưỡng, toàn diện về các vấn đề có liên quan đến già hóa dân số cũng như những gợi ý chính sách giải quyết vấn đề già hóa dân số trong những năm tới. Đặc biệt, báo cáo cũng đưa ra những khuyến nghị đối với các nhóm chính sách không chỉ liên quan đến người cao tuổi (an sinh xã hội, bảo hiểm y tế, trợ cấp xã hội) mà còn đối với các chính sách dịch vụ chăm sóc người cao tuổi và những nhóm liên quan đến thể chế (UNFPA, 2011).
Các cơ quan quản lý nhà nước cũng như các tổ chức xã hội trong đó cũng có những đánh giá định kì về luật. Đặc biệt vào những dịp kỉ niệm năm chẵn ra đời của luật, những cơ quan này cũng có những tổng kết dựa trên công tác quản lý xã hội và thực thi luật pháp. Mặc dù những tổng kết này không phải là một công trình khoa học những cũng cho chúng ta một cái nhìn từ chính những người trong cuộc. Kết luận từ những đợt nhìn lại sau gần 10 năm thực hiện luật người cao tuổi thì báo cáo của cơ quan chức năng đã thực hiện công tác tuyên truyền và phổ biến Luật NCT, Chương trình hành động Quốc gia về NCT giai đoạn 2012 - 2020 và nhiều hoạt động hưởng ứng Tháng hành động vì NCT bằng nhiều hình thức như tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng. Trong đó có các Đài Phát thanh - Truyền hình trung ương, tỉnh, Bản tin nội bộ qua hệ thống tổ chức Hội NCT các cấp, hội nghị tập huấn, hội thảo.... và văn bản có liên quan đến cán bộ chủ chốt của các cấp Hội, hội viên Hội NCT, cán bộ làm công tác Lao động - Thương binh và Xã hội các cấp để giúp NCT tiếp cận Luật NCT, văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công tác NCT thường được thực hiện thông qua các đợt hoặc các chiến dịch có sự góp sức của Ban công tác người cao tuổi của các địa phương. Bên cạnh đó, các cấp Hội phối hợp với Đài Phát thanh - Truyền hình phát các phóng sự về phong trào thi đua “Tuổi cao gương sáng”, biểu dương gương điển hình, mô hình tiêu biểu, tổ chức tuyên truyền về mục đích, ý nghĩa của “Tháng hành động vì NCT”, qua đó vận động toàn dân quan tâm chăm sóc NCT. Các chương trình này hầu hết được thực hiện qua việc lồng ghép vào các chương trình khác. Tuy nhiên, các đánh giá này chỉ dừng lại ở mức độ báo cáo hành chính.
Nghiên cứu về chính sách đối với người cao tuổi ở Việt Nam, Bùi Nghĩa (2018) trong luận án tiến sĩ ngành Chính sách công bảo vệ tại Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam đã đưa ra 8 vấn đề như sau: Thứ nhất, mức trợ cấp hiện tại chỉ đáp ứng được nhu cầu của người cao tuổi. Thứ hai, chính sách chăm sóc sức khỏe ban đầu còn hạn chế. Công tác tuyên truyền, phổ biến cho người cao tuổi những kiến thức phổ thông về chăm sóc sức khỏe, dinh dưỡng chưa thực hiện tốt; và năng lực và trình độ của cán bộ Trạm Y tế cấp phường còn hạn chế. Thứ ba, hoạt động khám sức khỏe định kì cho người cao tuổi chưa được thực hiện tốt. Thứ tư, người cao tuổi khó và không có khả năng tiếp cận với hoạt động thể dục thể thao, nhất là ở khu vực nông thôn, thiếu thốn về địa điểm, cơ sở vật chất để tổ chức sinh hoạt tinh thần cho người cao tuổi. Thứ năm, Nhà nước thiếu hẳn nội dung hỗ trợ người cao tuổi trong việc lập kế hoạch về nhu cầu tài chính của họ. Thứ sáu, thiếu hẳn những hỗ trợ nào giành cho người cao tuổi đang tham gia vào thị trường sức lao động mặc dù đã hết tuổi lao động. Thứ bảy, ngân sách giành cho phúc lợi xã hội, có tăng hàng năm nhưng chưa đảm bảo. Thứ tám, mức độ đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi chưa được đảm bảo. Hoạt động giám sát và cải thiện vấn đề cung ứng dịch vụ chăm sóc sức khỏe chưa được làm tốt. Thứ chín, hoạt động hỗ trợ cộng đồng và cá nhân để những đối tượng này có thể tham gia tích cực vào hoạt động chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi không được đánh giá cao. Thứ mười, việc phát triển các loại hình giao thông phù hợp, dễ tiếp cận và giá cả hợp lý để người cao tuổi còn hạn chế. Thứ mười một, vấn đề hỗ trợ duy trì sự tự chủ của cá nhân người cao tuổi trong việc đưa ra những quyết định liên quan đến bản thân và tài chính gần như bị nhà nước bỏ qua. Thứ mười hai, Nhà nước thiếu hẳn những hoạt động hỗ trợ cho gia đình và những người chăm sóc người cao tuổi trong cộng đồng để giúp họ hiểu hơn những thay đổi và thách thức trong việc chăm sóc người cao tuổi trong bối cảnh có nhiều thay đổi chưa được Nhà nước quan tâm thoả đáng (tr.147 – 148).
          Như vậy, vấn đề NCT được quan tâm nhiều ở khía cạnh già hóa dân số và chính sách cụ thể đối với đối tượng này. Các nghiên cứu đã cho thấy là NCT được quan tâm chăm sóc là vấn đề phổ biến ở các quốc gia. Tại Việt Nam, NCT được quan tâm thể hiện qua nhiều chính sách. Đặc biệt với sự ra đời của luật NCT vào năm 2009, NCT ngày càng được quan tâm sâu rộng. Tuy nhiên, như nhiều nghiên cứu đã chỉ ra, các chính sách đối với NCT còn nhiều hạn chế khi đi vào thực tiễn triển khai. Do vậy, nghiên cứu này sẽ đóng góp cho việc nhận diện các rào cản thực thi Luật NCT sau 10 năm thực hiện để từ đó có những khuyến nghị tư pháp thay đổi và điều chỉnh Luật này.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng hai khái niệm cơ bản được xây dựng trong các nghiên cứu gần đây về sự chuyển đổi đối với các thành phần yếu thế: tiếp cận (access) và loại trừ (exclusion) để tìm hiểu sự tiếp cận của người cao tuổi đối với luật người cao tuổi. Với giả thuyết rằng nếu những người yếu thế tiếp cận được những loại hình dịch vụ mà họ đáng được hưởng, ở đây là vấn đề pháp lý, thì cuộc sống của họ sẽ tăng triển theo chiều hướng tốt hơn; ở chiều ngược lại, nếu không tiếp cận được, họ sẽ là đối tượng bị loại trừ, Ribot và Peluso (2003) đã đưa ra lý thuyết về quyền tiếp cận. Theo các tác giả, tiếp cận là tất cả những thứ khả dĩ mà con người có thể được hưởng lợi từ mọi thứ khác. Lý thuyết này cho thấy một cơ chế mà trong đó con người đạt được (được hưởng), kiểm soát và duy trì được những nguồn lực đã tiếp cận được. Khi đó, những người tiếp cận được là những người có được quyền lực. Ribot và Peluso cho rằng thuật ngữ “tiếp cận” thường được phân tích là tài nguyên và tài sản sử dụng mà chưa có một định nghĩa đầy đủ. Hai tác giả này phát triển một khái niệm về quyền tiếp cận và xem xét một loạt các yếu tố phân biệt quyền tiếp cận với tài sản. Họ định nghĩa quyền tiếp cận là “khả năng thu được lợi ích từ mọi thứ,” mở rộng định nghĩa cổ điển của tài sản là “quyền được hưởng lợi từ mọi thứ”. Quyền tiếp cận, theo định nghĩa này, gần giống với “một gói quyền lực – bundle of powers” hơn là khái niệm của tài sản về “một gói quyền – bundle of rights”. Công thức này bao gồm một loạt các mối quan hệ xã hội mà sẽ hạn chế hoặc tạo ra lợi ích từ việc sử dụng tài nguyên hơn là quan hệ tài sản đơn thuần. Sử dụng lý thuyết này trong nghiên cứu về người cao tuổi, chúng tôi cho là Luật Người Cao tuổi là một nguồn lợi ích cho NCT và đã có các thiết chế chính trị xã hội (Hội NCT) đại diện cho quyền lợi người cao tuổi thế nhưng trên thực tiễn Luật này chưa đi được vào đời sống NCT thể hiện qua sự việc người cao tuổi còn chịu nhiều thiệt thòi trong cuộc sống. Do vậy, giả thuyết chúng tôi đặt ra là có thể đã có những rào cản ngăn chặn NCT tiếp cận với Luật này. Sáng kiến đã chú ý đến các mối quan hệ xã hội chính thức và phi chính thức để tìm hiểu các rào cản này.