VAI TRÒ VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TRONG XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN MỚI
Sign In

VAI TRÒ VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TRONG XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN MỚI

I. VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN MỚI
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân; Nhà nước tổ chức, hoạt động theo pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật nhằm phục vụ lợi ích của Nhân dân; do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, đồng thời chịu trách nhiệm trước Nhân dân và sự giám sát của Nhân dân.
Là một bộ phận của quyền lực nhà nước, Tòa án nhân dân cần thể hiện được vai trò trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, trở thành cơ chế kiểm tra, giám sát có hiệu quả việc tuân theo pháp luật; giải quyết các tranh chấp, xử lý các vi phạm và tội phạm một cách nhanh chóng, kịp thời, công bằng, bình đẳng và dân chủ; là công cụ hữu hiệu để bảo vệ chế độ, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; bảo đảm hiệu lực và hiệu quả của bộ máy nhà nước.
1. Bảo vệ công lý, quyền con người và quyền công dân
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã khẳng định: “Các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người…”; “xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa…”;
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI năm 2011 tiếp tục khẳng định: “Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người”.
Đến Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII năm 2016, Đảng tiếp tục nhấn mạnh mục tiêu chiến lược là xây dựng nền tư pháp “trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, từng bước hiện đại; bảo vệ pháp luật, công lý, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân”.
Để thể chế hóa các văn kiện nêu trên, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận: “Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”.[1] Như vậy, bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân là một trong những nhiệm vụ cơ bản, quan trọng, gắn với Tòa án nhân dân - cơ quan thực hiện quyền tư pháp của Việt Nam.
Tòa án có quyền nhân danh Nhà nước xét xử các hành vi vi phạm pháp luật, giải quyết các tranh chấp, bảo vệ công lý, quyền con người và quyền công dân trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Việc bảo vệ các quyền này được Toà án thực hiện thông qua con đường tố tụng và các cơ chế pháp lý, đảm bảo các nguyên tắc cơ bản như: nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nguyên tắc xét xử công khai, công bằng, kịp thời; nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án; bảo đảm quyền bào chữa,…
2. Bảo vệ Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm tính thống nhất của pháp luật trong xét xử
Bảo vệ Hiến pháp và pháp luật là yếu tố tất yếu đi liền với nhà nước pháp quyền, Đảng ta đã khẳng định sự cần thiết của cơ chế bảo hiến tại Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 là “Hoàn thiện pháp luật về giám sát tối cao của Quốc hội, cơ chế bảo vệ luật và Hiến pháp”. Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng cũng chỉ rõ cần có một “cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp”[2]. Theo Hiến pháp năm 2013, Tòa án nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp.[3] Nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật được Tòa án thực hiện thông qua hoạt động xét xử.
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân quy định Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết thực tiễn xét xử của các Tòa án, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử[4] và Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ lựa chọn Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bản án quyết định pháp luật đã có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của Tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ và công bố án lệ để các Tòa án nghiên cứu và áp dụng trong xét xử[5].
Như vậy, Tòa án có vai trò quan trọng trong công tác xây dựng thể chế, hướng dẫn và bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật. Vai trò này được thể hiện rõ nét qua việc ban hành các Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, án lệ và các Giải đáp vướng mắc nghiệp vụ, Công văn thông báo kết quả giải đáp trực tuyến,... Thông qua hoạt động này, Tòa án cũng thực hiện việc giải thích Hiến pháp và các luật liên quan đến hoạt động xét xử, đây cũng được xem là một chức năng bảo vệ Hiến pháp và pháp luật của Tòa án nhân dân.
3. Kiểm soát quyền lực Nhà nước
Hiến pháp năm 2013 quy định:“Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”[6]. Với vai trò là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, khi tham gia kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, Tòa án đã được giao quyền phát hiện và kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ văn bản pháp luật trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức[7]. Quy định này cũng được thể hiện cụ thể trong các Bộ luật, Luật tố tụng[8].
Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2014 quy định: “Tòa án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật; xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong quá trình tố tụng; căn cứ vào kết quả tranh tụng ra bản án, quyết định việc có tội hoặc không có tội, áp dụng hoặc không áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp, quyết định về quyền và nghĩa vụ về tài sản, quyền nhân thân.” [9]
Theo đó, cơ chế kiểm soát quyền lực của cơ quan thực hiện quyền tư pháp (Tòa án) đối với các cơ quan khác của Nhà nước được thực hiện thông qua hoạt động quan trọng của Tòa án là xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính, đặc biệt là khi xét xử vụ án hành chính và việc Tòa án bảo đảm các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật được thi hành.
II. THỰC TRẠNG VỀ VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN MỚI
  1. Những thành tựu đã đạt được
1.1. Bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân
Trong những năm qua, mặc dù số lượng công việc tăng (bình quân mỗi năm tăng khoảng 8%) với tính chất phức tạp, quy mô lớn và phải thực hiện nghiêm việc tinh giản biên chế nhưng các Tòa án đã không ngừng cải cách, triển khai nhiều biện pháp đột phá, sáng tạo, đổi mới tranh tụng tại phiên tòa theo hướng thực chất, đảm bảo dân chủ, nâng cao chất lượng công tác xét xử; đánh dấu những bước phát triển mới với nhiều thành tựu nổi bật, từng bước nâng cao vị thế và uy tín của Tòa án.
- Việc xét xử các vụ án hình sự bảo đảm nghiêm minh, chất lượng tranh tụng được bảo đảm. Tòa án đã tổ chức xét xử nhiều vụ án kinh tế, tham nhũng do những người có chức vụ, quyền hạn gây ra những thiệt hại đặc biệt lớn, được dư luận xã hội rất quan tâm. Công tác phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật tố tụng.
- Việc giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động đảm bảo đúng pháp luật, bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích chính đáng của các bên đương sự. Chú trọng và tập trung thực hiện có hiệu quả công tác hòa giải; nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tương trợ tư pháp; tăng cường phối hợp với các cơ quan hữu quan; làm tốt việc hướng dẫn đương sự thực hiện nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, tài liệu vụ án.
- Đối với các vụ án hành chính, Tòa án nhân dân tối cao đã chỉ đạo các Tòa án chú trọng tổ chức đối thoại giữa người khởi kiện và người bị kiện; làm tốt công tác phối hợp với các cơ quan liên quan; thực hiện nghiêm Chỉ thị số 03/2018/CT-CA ngày 05/12/2018 của Tòa án nhân dân tối cao về nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giải quyết các vụ án hành chính, hạn chế tình trạng án quá hạn luật định do nguyên nhân chủ quan.
- Về áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, các Tòa án đã áp dụng các biện pháp xử lý hành chính với tỷ lệ trên 95%.
- Về thi hành án hình sự, đảm bảo kịp thời, không để quá hạn luật định; việc hoãn, tạm đình chỉ thi hành án, giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù đều có căn cứ. 
- Chất lượng giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, đơn thư khiếu nại, tố cáo trong những năm gần đây có nhiều tiến bộ, đảm bảo đúng thủ tục, thời hạn, và đúng quy định của pháp luật.
1.2. Tích cực tham gia xây dựng thể chế; tăng cường công tác xây dựng và đảm bảo thống nhất pháp luật
Từ năm 2014 đến nay, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã xây dựng, ban hành 30 Nghị quyết, 14 Thông tư do Tòa án nhân dân tối cao chủ trì, phối hợp xây dựng và ban hành; phối hợp với các bộ, ngành ban hành nhiều thông tư liên tịch khác. Việc ban hành kịp thời các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật đã góp phần tháo gỡ nhiều vướng mắc trong quá trình giải quyết các loại vụ án, từng bước nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án. Bên cạnh đó, Tòa án nhân dân tối cao đã chủ trì xây dựng, soạn thảo và trình Quốc hội thông qua 04 dự án luật.[10] Các dự án luật do Tòa án nhân dân tối cao trình đều đảm bảo tiến độ, chất lượng, góp phần quan trọng trong công tác hoàn thiện pháp luật, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.
Ngoài ra, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành nhiều Giải đáp vướng mắc nghiệp vụ, Công văn thông báo kết quả giải đáp trực tuyến để các Tòa án tham khảo; tính đến ngày 01/10/2023, Chánh án Tòa án nhân dân dân tối cao đã lựa chọn, công bố 70 án lệ tính về hình sự, dân sự, kinh doanh thương mại, hành chính, lao động để các Tòa án áp dụng. Các án lệ được công bố đã khắc phục được các khiếm khuyết của pháp luật, tạo tính ổn định, minh bạch trong các phán quyết của Tòa án và phần nào đáp ứng được mong đợi của người dân đặc biệt là giới luật sư, nhà khoa học và những người làm công tác pháp luật. Hoạt động nghiên cứu, bình luận, công bố thông tin về án lệ cũng dần thu hút sự quan tâm của công chúng, luật gia trong nước cũng như nước ngoài.
Không chỉ vậy, Tòa án nhân dân tối cao còn tổ chức nhiều hội thảo, hội nghị quán triệt, tập huấn, tổng kết hàng năm như: Sơ kết 5 năm thi hành Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014;… qua đó tổ chức rút kinh nghiệm đối với các sai sót của Tòa án nhân dân trong công tác xét xử, góp phần tạo sự chuyển biến tích cực về chất lượng giải quyết, xét xử các vụ án.
         1.3. Tổ chức phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp
Phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp được chỉ đạo đổi mới theo hướng công tác xét xử phải tuân thủ pháp luật, đảm bảo nguyên tắc tranh tụng. Hội đồng xét xử thực hiện đầy đủ các quyền năng pháp lý. Các Thẩm phán đã nhận thức sâu sắc hơn tranh tụng là con đường đi đến công lý nên đã thực hiện nghiêm Chỉ thị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về việc không hạn chế thời gian tranh tụng, ghi nhận tất cả các vấn đề tranh tụng và căn cứ vào kết quả tranh tụng để đưa ra phán quyết. Những kiến nghị của Tòa án không chỉ khắc phục sai sót của các cơ quan tiến hành tố tụng mà còn khắc phục sơ hở trong cơ chế, chính sách quản lý vĩ mô và thực thi pháp luật của các cơ quan nhà nước, chính vì vậy chất lượng xét xử không ngừng được nâng lên. Qua hoạt động xét xử, đóng góp của Tòa án trong quản lý điều hành đất nước ngày càng thiết thực, rõ ràng.
         1.4. Việc tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của Tòa án được chú trọng
Cổng thông tin điện tử Tòa án nhân dân tối cao chính thức được đưa vào hoạt động từ năm 2010; tổ chức hệ thống hội nghị truyền hình trực tuyến trong toàn hệ thống Tòa án nhân dân, đưa vào sử dụng Trang điện tử Án lệ năm 2016; năm 2018, xây dựng mới 66 Trang thông tin điện tử (trong đó có 03 Tòa án nhân dân cấp cao và 63 Tòa án nhân dân cấp tỉnh); xây dựng hệ thống gửi, nhận đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ và cấp tống đạt, thông báo văn bản tố tụng của Tòa án bằng phương tiện điện tử, xây dựng hệ thống giám sát Thẩm phán. Cổng thông tin điện tử Tòa án nhân dân tối cao cũng được xây dựng phiên bản bằng tiếng Anh, liên kết với Cổng thông tin điện tử ASEAN.
Các hoạt động này đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng thông tin; nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo Tòa án nhân dân các cấp; tăng cường tính minh bạch, công khai trong các hoạt động tố tụng của Tòa án; góp phần đổi mới mạnh mẽ thủ tục thủ tục hành chính tư pháp và thủ tục giải quyết các vụ việc tại Tòa án; cung cấp các tiện ích để người dân, các cơ quan, tổ chức thuận lợi trong giải quyết công việc tại Tòa án.
Ngoài ra, để bảo đảm triển khai thi hành Nghị quyết số 33/2021/QH15 ngày 12/11/2021 của Quốc hội về tổ chức phiên tòa trực tuyến, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư liên tịch số 05/2021/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP-BTP ngày 15/12/2021 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành tổ chức phiên tòa trực tuyến. Tòa án nhân dân tối cao đã chỉ đạo Tòa án nhân dân các cấp tổ chức phiên tòa trực tuyến, bảo đảm tư pháp không chậm trễ, xét xử nhanh chóng, kịp thời; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, đương sự, tổ chức và cá nhân có liên quan; tạo cơ chế thuận lợi để bị can, bị cáo, đương sự, tổ chức và cá nhân tham gia phiên tòa và do đó tiết kiệm chi phí xã hội, góp phần nâng cao hiệu quả năng lực hoạt động của Tòa án, bảo đảm từng bước chuyên nghiệp, hiện đại, phù hợp xu thế quốc tế.
1.5. Hoạt động hợp tác quốc tế về tư pháp được đẩy mạnh
Thời gian qua, Tòa án nhân dân tối cao đặc biệt chú trọng đẩy mạnh hoạt động tương trợ tư pháp, hợp tác quốc tế về tư pháp với các nước để đẩy nhanh tiến độ giải quyết các loại vụ việc có yếu tố nước ngoài. Chú trọng mở rộng hợp tác với các tổ chức quốc tế; các đối tác có tiềm lực, kinh nghiệm; tham gia các tổ chức và cơ chế hợp tác quốc tế khác; xác định trọng tâm hợp tác về lĩnh vực pháp luật, tư pháp, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, Thẩm phán; trao đổi kinh nghiệm, thông tin trong công tác xây dựng pháp luật; ký kết các Hiệp định tư pháp đa phương, song phương; tương trợ tư pháp, điều tra, truy tố và xét xử; hỗ trợ nguồn lực cho các Tòa án.
Tòa án nhân dân tối cao đã tích cực, chủ động tham gia nhiều hoạt động hợp tác quốc tế như đã có sáng kiến tổ chức Hội nghị Tòa án các tỉnh biên giới Việt Nam, Cam-pu-chia và Lào; tham gia Hội đồng Chánh án các nước ASEAN để trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm xét xử… Ở cấp độ toàn cầu, Tòa án nhân dân tối cao đã chủ động và tích cực tham gia các hội nghị, diễn đàn tư pháp quốc tế như Hội nghị Chánh án các nước châu Á - Thái Bình Dương, Diễn đàn pháp luật quốc tế khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Hội nghị La hay để khẳng định vị thế của Tòa án Việt Nam trên trường quốc tế,..
Kết quả của hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tư pháp đã góp phần đắc lực trong việc đổi mới, tăng cường năng lực cho hệ thống Tòa án nhân dân trên nhiều lĩnh vực như hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động, nâng cao chất lượng xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, ứng dụng công nghệ thông tin và các điều kiện bảo đảm cho công tác xét xử và hoạt động của Tòa án theo Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong thời kỳ hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng; qua đó góp phần thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Hoạt động hợp tác quốc tế về tố tụng tại Tòa án còn là một trong những nhiệm vụ quan trọng để triển khai trên thực tế các định hướng chiến lược lớn của Đảng về thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
  1. Một số hạn chế, bất cập và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả đạt được, vai trò của Tòa án trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta vẫn còn một số hạn chế nhất định, chưa đáp ứng được yêu cầu và mong muốn của người dân. Cụ thể như sau:
- Thẩm quyền của Tòa án trong việc xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân trong các giai đoạn tố tụng, nhất là trong giai đoạn điều tra, truy tố và thi hành án hình sự, dân sự, hành chính còn chưa tương xứng với nhiệm vụ của Tòa án nhân dân. Bên cạnh đó, việc quy định Viện kiểm sát có quyền kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án đã phần nào ảnh hưởng đến tính độc lập của Tòa án.
- Thủ tục tố tụng tư pháp còn một số bất cập làm giảm hiệu quả hoạt động xét xử của Tòa án như chưa thể hiện hết vị trí, vai trò của Toà án, làm chất lượng tranh tụng còn nhiều hạn chế, cơ chế nhân dân tham gia hoạt động xét xử tại Tòa án còn có bất cập, chưa thực chất, chưa phát huy được vai trò, hiệu quả như mong đợi,..
-  Tổ chức bộ máy và thẩm quyền của Tòa án còn có những bất cập dẫn tới hạn chế hiệu quả hoạt động của Tòa án.
- Đội ngũ cán bộ, công chức Tòa án còn thiếu; chế độ, chính sách chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ. Khi thi hành công vụ, Thẩm phán và các chức danh tư pháp khác phải thường xuyên tiếp xúc nhiều với tội phạm, tiềm ẩn rủi ro cao, nhiều nguy hiểm nhưng chưa có cơ chế bảo vệ rõ ràng và chính sách bù đắp những tổn thất về sức khỏe, tinh thần cho những cán bộ, công chức bị xâm phạm, tạo tâm lý e ngại khi thực thi nhiệm vụ.
- Kinh phí, cơ sở vật chất chưa đáp ứng được yêu cầu chủ động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Toà án. Bên cạnh đó, cơ chế phân bổ ngân sách cho Tòa án phụ thuộc vào Chính phủ cũng ảnh hưởng đến tính độc lập của Tòa án. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của Tòa án chưa đáp ứng được yêu cầu công tác của Tòa án.
- Hợp tác quốc tế về tư pháp còn hạn chế dẫn đến các vụ việc chậm được giải quyết, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam.
III. MỘT SỐ NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA TÒA ÁN TRONG XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN MỚI
1. Quan điểm, chủ trương của Đảng về nâng cao vai trò và trách nhiệm của Tòa án trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam trong giai đoạn mới
Trong nhiều năm qua, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói chung, nâng cao vai trò, trách nhiệm của Tòa án nói riêng luôn là vấn đề được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Điều này được thể hiện ở việc Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị đã ban hành nhiều nghị quyết, văn kiện về nội dung này, cụ thể như sau:
- Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã đề ra 08 nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp gồm: (1) Nâng cao chất lượng hoạt động và đề cao trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ tư pháp; (2) Tiếp tục cụ thể hoá và thực hiện những chủ trương về cải cách, tổ chức và đổi mới hoạt động các cơ quan tư pháp; (3) Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh; (4) Tăng cường đầu tư­ cơ sở vật chất bảo đảm cho các cơ quan tư pháp có đủ điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ, có chế độ chính sách hợp lý đối với cán bộ tư pháp; (5) Huy động sự tham gia rộng rãi và tích cực của nhân dân vào công tác tư pháp, nâng cao hiệu quả giám sát của Quốc hội, hội đồng nhân dân, các tổ chức xã hội và nhân dân đối với các cơ quan tư pháp; (6) Đẩy mạnh xây dựng pháp luật, giải thích, hướng dẫn, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và nghiên cứu khoa học về công tác tư pháp; (7) Tăng cường hợp tác quốc tế về công tác tư pháp; (8) Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp.
         - Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã xác định: Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp phù hợp với mục tiêu, định hướng của Chiến lược cải cách tư pháp; xác định đúng, đủ quyền năng và trách nhiệm pháp lý cho từng cơ quan, chức danh tư pháp. Trọng tâm là hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, bảo đảm Tòa án xét xử độc lập, đúng pháp luật, kịp thời và nghiêm minh; phân định thẩm quyền xét xử của Tòa án sơ thẩm và Tòa án phúc thẩm phù hợp với nguyên tắc hai cấp xét xử”.
- Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định mục tiêu “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phụ vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”.
         Quá trình thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW, Đảng ta đã ban hành nhiều Kết luận có liên quan như:
- Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra theo Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (sau đây viết tắt là Kết luận số 79-KL/TW) đã đặt ra mục tiêu chung của việc đổi mới là “xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, mô hình tổ chức của hệ thống Tòa án, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra thực sự khoa học, đảm bảo tính đồng bộ, phù hợp với các chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp; đề cao tính độc lập, khách quan, tuân thủ pháp luật của từng cơ quan và các chức danh tư pháp trong quá trình tiến hành tố tụng; nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”.
- Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã chỉ rõ: Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân. Nghiên cứu ban hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, trong đó có Chiến lược pháp luật và cải cách tư pháp”.
- Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đề ra nhiệm vụ trọng tâm là “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh; cải cách tư pháp, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội
- Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới đã đề ra nhiệm vụ “Đẩy mạnh cải cách tư pháp, bảo đảm tính độc lập của Tòa án theo thẩm quyền xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, với các giải pháp “Hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến tư pháp, bảo đảm tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Hoàn thiện cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý mọi hành vi can thiệp trái pháp luật vào hoạt động tư pháp; bảo đảm tính độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.”; “Xây dựng chế định tố tụng tư pháp lấy xét xử là trung tâm, tranh tụng là đột pháp”; “Ðổi mới và nâng cao hiệu quả cơ chế Nhân dân tham gia xét xử tại tòa án”; “Hoàn thiện cơ chế để khắc phục tình trạng quan hệ giữa các cấp tòa án là quan hệ hành chính, bảo đảm độc lập giữa các cấp xét xử và độc lập của thẩm phán, hội thẩm khi xét xử. Phân định rõ nhiệm vụ xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét lại bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; xây dựng tòa án điện tử.”; “Xác định thẩm quyền của tòa án để thực hiện đầy đủ, đúng đắn quyền tư pháp; mở rộng thẩm quyền của tòa án trong xét xử các vi phạm hành chính, quyết định một số vấn đề liên quan đến quyền con người, quyền công dân. Nghiên cứu làm rõ thẩm quyền hội đồng xét xử khởi tố vụ án tại phiên tòa, những trường hợp tòa án thu thập chứng cứ trong hoạt động xét xử.”; “Quy định rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan hành pháp trong kiểm soát các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, quyền tư pháp; của cơ quan tư pháp trong kiểm soát các cơ quan thực hiện quyền hành pháp, quyền lập pháp.”
2. Một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò và trách nhiệm của Tòa án trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới
2.1. Giải pháp nâng cao vai trò của Tòa án trong bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân
- Tiếp tục nâng cao chất lượng xét xử, bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân, nâng cao niềm tin của người dân vào một nền tư pháp dân chủ, công bằng, nghiêm minh. Mỗi bản án phải là những chuẩn mực pháp lý và đạo đức, có tác dụng giáo dục pháp luật, định hướng hành vi của người dân và của cả xã hội.
- Mở rộng thẩm quyền của Tòa án trong việc xem xét, quyết định biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân trong các giai đoạn tố tụng, nhất là giai đoạn điều tra, truy tố và thi hành án hình sự, dân sự, hành chính.
          - Tiếp tục hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo hướng quy định chặt chẽ những căn cứ, điều kiện kháng nghị và trách nhiệm của người ra kháng nghị đối với bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
- Tăng cường khả năng tiếp cận công lý của cá nhân, cơ quan, tổ chức; hoàn thiện cơ chế tố tụng tư pháp bảo vệ quyền con người. Bảo đảm quyền tranh tụng của các bên, bảo đảm tôn trọng quyền tự quyết, tự thoả thuận của đương sự, người khởi kiện, bỏ việc tham gia của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự.
- Hoàn thiện các quy định về thẩm quyền và hoạt động của Tòa án để thực hiện đầy đủ, đúng đắn quyền tư pháp; phân định rõ nhiệm vụ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm theo cấp xét xử mà không phụ thuộc vào đơn vị hành chính; làm rõ thẩm quyền, thủ tục giải quyết yêu cầu liên quan đến quyền con người. 
- Xây dựng chế định tố tụng lấy xét xử là trung tâm và hoàn thiện thủ tục tố tụng tranh tụng.
- Công khai, minh bạch các hoạt động của Tòa án, trong đó có việc công khai hóa các bản án, quyết định trừ những trường hợp không được công khai.
- Nâng cao hiệu quả của cơ chế nhân dân tham gia xét xử tại Toà án.
2.2. Giải pháp nâng cao vai trò của Tòa án trong bảo vệ Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm tính thống nhất của pháp luật trong xét xử
- Trao cho Tòa án quyền xem xét tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật và thẩm quyền giải thích pháp luật chính thức.
- Đẩy mạnh và thực hiện tốt công tác tổng kết thực tiễn xét xử, phát triển án lệ; ban hành kịp thời các văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong công tác xét xử của Tòa án.
2.3. Giải pháp nâng cao vai trò của Tòa án trong kiểm soát quyền lực Nhà nước
- Xác định rõ nội hàm, đặc trưng, chủ thể thực hiện quyền tư pháp làm cơ sở để xây dựng cơ chế phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát thực hiện quyền lực nhà nước đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cần tham khảo quan niệm phổ quát của quốc tế về quyền tư pháp ở các quốc gia trên thế giới để hoàn thiện thể chế pháp luật và xác định rõ: Quyền tư pháp là hoạt động xét xử của tòa án; áp dụng pháp luật và đưa ra phán quyết đối với các vụ án; giải thích pháp luật; phán xét hành vi của các cơ quan, công chức nhà nước và tính hợp hiến, hợp pháp của các đạo luật và văn bản pháp luật. Quyền tư pháp gồm quyền xét xử, quyền quyết định những vấn đề liên quan đến quyền con người, quyền công dân và quyền quyết định tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật.
- Mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án trong xét xử các vụ án hành chính.
- Thành lập Tòa án chuyên biệt hành chính, đảm bảo sự chuyên nghiệp, công tác xét xử vụ án, công tác đào tạo cán bộ,… từ đó, nâng cao chất lượng kiểm soát quyền lực của Tòa án.
2.4. Một số giải pháp khác:
- Tổ chức hệ thống các Tòa án theo hướng hợp lý, khoa học, hiện đại; xây dựng Tòa án chuyên biệt để giải quyết các tranh chấp nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và phù hợp thông lệ quốc tế.
- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Tòa án. Xây dựng, kiện toàn và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Tòa án, nhất là đội ngũ Thẩm phán tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc, nhân dân, có phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị vững vàng, độc lập, vô tư, khách quan, liêm chính, công bằng, thượng tôn pháp luật, dũng cảm bảo vệ công lý. Đổi mới công tác tuyển chọn, bổ nhiệm; mở rộng nguồn bổ nhiệm Thẩm phán; tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực và xây dựng chế độ, chính sách phù hợp cho cán bộ tư pháp; có cơ chế hữu hiệu bảo vệ Thẩm phán nhằm duy trì tính độc lập tư pháp.
- Tăng cường cơ sở vật chất, bảo đảm nguồn lực để xây dựng Tòa án hiện đại, hoạt động hiệu quả, đáp ứng yêu cầu công tác của Tòa án, xứng đáng với vị thế của cơ quan tư pháp.
- Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của Toà án để thực hiện một số thủ tục tố tụng điện tử như: nhận đơn; tống đạt giấy tờ, tài liệu; thông báo kết quả giải quyết đơn; kiểm tra chứng cứ; xét xử trực tuyến; xây dựng hồ sơ tố tụng điện tử nhằm tạo thuận lợi cho nhân dân trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án. Từ đó, tiến tới xây dựng Tòa án điện tử góp phần tăng cường tính công khai, minh bạch trong hoạt động của Tòa án và để kết nối với các nền tảng số khác nhằm chia sẻ tài nguyên và phục vụ cho tiến trình xây dựng xã hội số, kinh tế số, nâng cao hiệu lực, hiệu quả điều hành, quản trị quốc gia.
- Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong giải quyết, xét xử các vụ việc dân sự, vụ án hình sự, hành chính có yếu tố nước ngoài. Củng cố, kiện toàn hệ thống pháp luật về hợp tác quốc tế; tăng cường đàm phán, ký kết thỏa thuận quốc tế song phương, đa phương về lĩnh vực tư pháp, trước hết là với các nước láng giềng, các nước trong khu vực và các nước có quan hệ truyền thống, các quốc gia có nền tư pháp phát triển hiện đại./.
 
 
[1] Khoản 3 Điều 102 Hiến pháp năm 2013
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thức X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2006.
[3] Khoản 2 Điều 119 Hiến pháp năm 2013.
[4] Khoản 3 Điều 20 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014
[5] Điểm c khoản 2 Điều 22 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân
[6] Khoản 3 Điều 2 Hiến pháp 2013
[7] Khoản 7 Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014
[8] Điều 265 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 221 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Chương VIII Luật Tố tụng hành chính năm 2015
[9] Khoản 2 Điều 2 Luật Tổ chức Toà  án nhân dân năm 2014.
[10] Luật Tổ chức Tòa án nhân dân thông qua ngày 24/11/2014 tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII; Bộ luật Tố tụng dân sự thông qua ngày 25/11/2015 tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII; Luật Tố tụng hành chính thông qua ngày 25/11/2015 tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII; Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án thông qua ngày 16/6/2020, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV