Sáng kiến đã nghiên cứu về nhu cầu nâng cao nhận thức và hỗ trợ pháp lý về bạo lực, xâm hại tình dục trẻ em cho cộng đồng tại TP Hà Nội, tỉnh Hoà Bình và tỉnh Nghệ An. Để thực hiện nghiên cứu, các tác giả thực hiện sáng kiến đã tiến hành khảo sát thực địa kết hợp khảo sát tại bàn thông qua các nghiên cứu. Về khảo sát tại bàn, các Báo cáo của các cơ quan liên quan đến công tác bảo vệ trẻ em, phòng chống bạo lực trẻ em của 3 địa phương đều khẳng định nhu cầu nâng cao nhận thức về bạo lực, xâm hại trẻ em cho cộng đồng. Nhưng cả 3 địa phương chưa thực hiện các chuyên đề riêng rẽ về phòng chống bạo lực, xâm hại trẻ em. Nguyên nhân đến từ việc hạn chế nguồn kinh phí thực hiện, các chuyên gia (báo cáo viên) có chuyên môn. Một số địa phương (Hoà Bình) có sự lồng ghép vào các đợt tết thiếu nhi 1.6 hàng năm nhưng chưa thực hiện trên phạm vi rộng. Về phía chính quyền, cán bộ làm công tác trẻ em chưa có cán bộ chuyên trách nên khó có các kiến nghị từ cấp cơ sở lên cấp trên về bạo lực, xâm hại trẻ em; về phía trường học, chưa xây dựng được chương trình ngoại khoá về phòng chống bạo lực, xâm hại trẻ em. Do vậy, hiểu và gia tăng các biện pháp phòng chống vấn đề này trở nên cấp thiết. Về hỗ trợ pháp lý, các trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thuộc các Sở Tư pháp là đơn vị chính chịu trách nhiệm hỗ trợ pháp lý cho các trường hợp trẻ em bị bạo lực, xâm hại. Nhưng hiện nay, lực lượng hỗ trợ pháp lý còn khá mỏng, hỗ trợ kinh phí của nhà nước chưa nhiều. Theo chị Lan (Trưởng chi nhánh thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước Hà Nội), chị theo nghề trợ giúp viên pháp lý cũng vì niềm cảm thông, chia sẻ với những hoàn cảnh trẻ em bị xâm hại, còn nếu vì vấn đề tài chính chị đã không thể duy trì công việc đến nay. Hơn nữa, là phụ nữ, chị thường xuyên phải lăn xả các huyện trên địa bàn Hà Nội nên phải thực sự yêu nghề chị mới gắn bó được với hoạt động trợ giúp pháp lý lâu đến vậy. Theo một số cán bộ làm trợ giúp pháp lý trong lĩnh vực bạo lực, xâm hại trẻ em, đây là vấn đề khó và nhạy cảm, khó vì xã hội có nhiều cái nhìn chưa đúng về vấn đề, nhạy cảm vì nạn nhân cũng như gia đình ngại bộc bạch hết thông tin, việc lưu giữ bằng chứng gặp khó khăn do dấu viết sự việc bị mất đi.
Về khảo sát thực địa, nhóm cán bộ, chuyên gia đã thực hiện khảo sát tại 03 tỉnh Hà Nội, Hòa Bình, Nghệ An. Hai trong 03 địa phương là những tỉnh có đông người nghèo, người dân tộc thiểu số (Hoà Bình và Nghệ An) và là các tỉnh có số lượng vụ việc về bạo lực, xâm hại trẻ em tương đối nhiều trong thời gian qua, đặc biệt là Hà Nội và Hoà Bình. Riêng Nghệ An là địa phương có nhiều huyện nghèo theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với các huyện nghèo và các xã nghèo theo Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 19/5/2011 của Chính phủ về định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ từ năm 2011 đến năm 2020. Đồng thời, Hoà Bình và Nghệ An là các vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống (Hoà Bình có hơn 7 dân tộc, Nghệ An có khoảng 5 nhóm dân tộc) với điều kiện kinh tế - xã hội còn chưa phát triển, đời sống của người dân còn nhiều khó khăn.
Tại Hà Nội, đoàn khảo sát tiến hành khảo sát tại huyện Mỹ Đức (tập trung ở 2 xã nghèo và có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống là An Phú và An Tiến). Tại Hoà Bình, đoàn khảo sát thực hiện tại thành phố Hoà Bình (tập trung ở 3 xã/phường gồm Trung Minh, Đồng Tiến, Hữu Nghị). Tại Nghệ An, nhóm cán bộ, chuyên gia thực hiện khảo sát tại huyện Tương Dương – huyện cách trung tâm tỉnh lỵ Nghệ An khoảng 185km về phía tây.
Căn cứ vào kết quả khảo sát tại 03 địa phương nói trên, nhóm khảo sát đã đưa ra một số phát hiện chính như sau:
1. Nhận thức và nhu cầu nâng cao nhận thức của trẻ em về bạo lực, xâm hại trẻ em
Số liệu khảo sát cho thấy, gần 52% trẻ em trong độ tuổi 14 tham gia khảo sát, còn lại là độ tuổi 13 chiếm 21%, 12 chiếm 16,7%; 20,3% là số tuổi 8,9,10,11,15,16. Độ tuổi này tương đối phù hợp với mục đích đặt ra trong kế hoạch khảo sát của Dự án. Trong số đó, 58,3% là trẻ em dân tộc thiểu số (Thái, Mường, Khơ Mú); 75,7% trẻ em tham gia khảo sát có đủ cả cha và mẹ, 24,3% trẻ em có cha mẹ đã ly hôn hoặc đã mất bố/mẹ hay mất cả bố và mẹ; gần 60% bố mẹ của các em là nông dân, còn lại là nghề nghiệp khác (công nhân, phi nông nghiệp, công chức viên chức và khác). Trong số 86% trẻ em biết về quyền trẻ em, 46,3% biết thông qua kênh gia đình, 63% biết thông qua nhà trường, chỉ 30,8% biết qua bạn bè người thân chia sẻ, 33,6% biết qua đọc sách báo, 31,1% qua xem ti vi, 29,8% qua internet, 17,6% qua kênh tuyên truyền tại địa phương.
Qua tìm hiểu về các hành vi bạo lực trẻ em, 29,7% trẻ em tham gia khảo sát cho biết mắng nhiếc, chỉ trích, nhục mạ, nhạo báng trẻ; 42,6% khẳng định nói với trẻ rằng không ai yêu thương hay mong muốn trẻ; 37,4% nói rằng sử dụng ngôn ngữ hay thực hiện những hành vi nhằm xúc phạm lòng tự trọng của trẻ; 39,4% trẻ cho biết gọi trẻ bằng những tên gọi mang tính hạ thấp nhân phẩm; 42,1% trẻ cho rằng không quan tâm đến việc trẻ trốn học, bỏ học; các con số tương tự đối với không tạo điều kiện cho trẻ đến trường, ép trẻ học quá nhiều, trẻ luôn phải chứng kiến cảnh gia đình đánh, cãi, chửi nhau không phải là hành vi bạo lực.
Theo kết quả khảo sát tại 3 tỉnh (Nghệ An, Hoà Bình và Hà Nội): 37,8% trẻ em cho biết “nói chuyện một cách tục tĩu hoặc bình phẩm về các bộ phận cơ thể trẻ một cách tục tĩu trước mặt trẻ”, 35,4% trẻ em cho rằng “nhắn tin điện thoại có nội dung tục tĩu hoặc gửi các hình ảnh người lớn khoả thân”, 26,7% trẻ em khẳng định “Cho trẻ xem phim nhạy cảm, phim người lớn khoả thân”, 27,4% trẻ được hỏi trả lời “cho trẻ chứng kiến cảnh quan hệ tình dục của người khác” không phải là hành vi xâm hại tình dục. Cũng thông qua khảo sát chỉ 35% trẻ em biết được về bạo lực, xâm hại thông qua kênh gia đình, 52% qua kênh nhà trường, 40,1% thông qua tủ sách báo và chỉ 26,5% qua kênh địa phương. Số trẻ em bị đánh, bị sỉ nhục, bị ép học, phải chứng kiến cảnh gia đình đánh, cãi nhau ở tỉ lệ 23,3%, 21,8%, 22.1%, 35,5%. Việc hỗ trợ khi bị bạo lực, xâm hại thường chỉ đến từ gia đình, thầy cô, các em ít biết đến các cơ quan trợ giúp từ nhà nước, 80% trẻ em không tìm đến đường dây nóng 111 và gần 90% trẻ em không biết đến nhà tạm lánh. Nói về hậu quả của bạo lực, xâm hại 71,6% trẻ em cho rằng việc sử dụng rượu, bia, ma tuý; 59,3% có thai không gây ra hậu quả gì.
Trên 60% trẻ em mong muốn được nâng cao nhận thức về Luật phòng, chống bạo lực gia đình, bạo lực trẻ em, kiến thức về phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em, kỹ năng phòng ngừa bạo lực và xâm hại tình dục trẻ em. Thông qua phỏng vấn sâu các thầy cô là quản lý của phòng Giáo dục – đào tạo, hiệu trưởng các trường THCS mong muốn cấp thiết cần có tài liệu đủ thông tin, hấp dẫn về kỹ năng phòng ngừa bạo lực, xâm hại tình dục trẻ em cho học sinh.
Như vậy, nhiều hành vi mang tính phổ biến hằng ngày nhưng không được nhận thức là hành vi bạo lực, xâm hại trẻ em (đánh, xỉ nhục, bị ép học; gửi hình ảnh người lớn khoả thân… ). Thực trạng này càng khắc sâu thói quen “thương cho roi cho vọt” của người lớn đối với trẻ em, những hành vi vi phạm pháp luật vẫn được chấp nhận và diễn ra phổ biến trong đời sống của các thế hệ trẻ em.
2. Nhận thức và nhu cầu nâng cao nhận thức của cha mẹ (người chăm sóc trẻ) về bạo lực, xâm hại trẻ em
Trong số cha mẹ tham gia khảo sát, 55% cha mẹ là người dân tộc thiểu số (Mường, Tày, Thái, Khơ mú, H’mông, Dao); 88,8 % cha mẹ (người chăm sóc trẻ) có đầy đủ vợ/chồng, 11,2 % chưa có vợ/chồng hoặc ly hôn/ly thân, chồng/vợ đã chết và không muốn trả lời; 52% cha mẹ (người chăm sóc trẻ) học hết phổ thông hoặc chưa hết phổ thông, còn lại là trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học và sau đại học; 40% cha mẹ (người chăm sóc trẻ) không có việc làm ổn định.
84% cha mẹ (người chăm sóc trẻ) được hỏi nói có biết về quyền trẻ em, trong đó, 68,4% biết qua đài báo, loa phát thanh, 53,9% qua tài liệu tuyên truyền, 23% qua hội thảo và toạ đàm. Khi được hỏi về những hành vi nào là bạo lực, xâm hại trẻ em: 18,8% cha mẹ (người chăm sóc trẻ) cho biết “không cho trẻ ăn mặc đầy đủ, không làm vệ sinh cho trẻ (đặc biệt là với trẻ nhỏ chưa có khả năng tự làm vệ sinh cho mình)” không phải là hành vi bạo lực với trẻ; 12,7% cha mẹ (người chăm sóc trẻ) cho biết “đánh đập trẻ (đấm, đá, tát, nắm tóc, dùng roi, …)” không phải là hành vi bạo lực với trẻ; 15,9% cha mẹ (người chăm sóc trẻ) cho biết “mắng nhiếc, chỉ trích, nhục mạ, nhạo báng trẻ” không phải là hành vi bạo lực với trẻ; 21,8% cha mẹ (người chăm sóc trẻ) cho biết “sử dụng ngôn ngữ hay thực hiện những hành vi nhằm xúc phạm lòng tự trọng của trẻ” không phải là hành vi bạo lực với trẻ; 22,4% cha mẹ (người chăm sóc trẻ) cho biết “gọi trẻ bằng những tên gọi mang tính hạ thấp nhân phẩm” không phải là hành vi bạo lực với trẻ… Việc cha mẹ (người chăm sóc trẻ) cho rằng “ép trẻ học quá nhiều, để trẻ phải chứng kiến cảnh bố mẹ đánh cãi, chửi nhau, không quan tâm đến nguyện vọng sở thích của trẻ” không phải là bạo lực, xâm hại trẻ tồn tại ở khoảng hơn 1/5 cha mẹ tham gia khảo sát.
Về phía cha mẹ (người chăm sóc trẻ em), phần nhận thức về bạo lực đa số cha mẹ hiểu về hình thức bạo lực, hậu quả của bạo lực, xâm hại trẻ em. Tuy nhiên, vẫn có đến 62,5% cha mẹ mong muốn được trang bị kiến thức về Luật Trẻ em 2016, các tỷ lệ cha mẹ muốn học về Luật Phòng chống bạo lực gia đình năm 2006, kỹ năng phòng chống bạo lực, xâm hại trẻ em, kỹ năng bảo vệ trẻ em lần lượt là 71,8%; 87,3% và 86%. Điều này có thể hiểu được về nhu cầu nâng cao nhận thức về bạo lực, xâm hại của cha mẹ (người chăm sóc trẻ) là rất cao. Thực trạng này khá khớp với dự kiến ban đầu của Trường Đại học Luật Hà Nội.
Khảo sát cũng giúp cho Dự án thấy rõ cơ chế phối hợp của các cơ quan nhà nước ở địa phương trong phòng ngừa bạo lực, xâm hại tình dục trẻ em còn chưa rõ ràng, một số đơn vị chịu trách nhiệm bảo vệ trẻ em tại địa phương còn tồn tại hình thức (Ban bảo vệ chăm sóc trẻ em cấp xã, phường), đặc biệt là phổ biến pháp luật về bạo lực, xâm hại trẻ em chưa được chú trọng.
Dưới đây là một số giải pháp “phòng chống bạo lực, xâm hại trẻ em” được cha mẹ (người chăm sóc trẻ) kiến nghị:
“Cần các kênh truyền thông sâu rộng hơn để mọi người đều biết đến và hiểu về vấn đề bạo lực xâm hại tình dục trẻ em. Cần các đài phường xã thông tin thường xuyên hơn về các vấn đề bạo lực và xâm hại tình dục trẻ em. Cơ quan công an, an ninh xã quan tâm hơn về an ninh trường và cổng trường học đỡ lộn xộn, hàng quán”. (35)
“Mở một số câu lạc bộ hoặc phòng tư vấn tấm lý có địa chỉ và tư vấn tâm lý cho gia đình và trẻ miễn phí được công khai, niêm yết một số điểm. Phối hợp với một tổ chức ví dụ hội phụ nữ xã thường xuyên, cung cấp tài liệu về luật, dậy con trẻ về bạo lực và xâm hại tình dục, mở các hội tọa đàm cho các mẹ có con trong độ tuổi hiểu rõ hơn.” (43)
“Để hạn chế tình trạng bạo lực và xâm hại tình dục trẻ em ở công cộng chúng ta cần tăng cường tuyên truyền cho mọi người biết cách ngăn ngừa và chống bạo lực trẻ em. Phối hợp với các cơ quan đoàn thể tuyên truyền kỹ năng phòng ngừa và chống bạo lực trẻ em, quan tâm đến con em chúng ta nhiều hơn.” (45)
“Cung cấp tài liệu về luật bảo vệ trẻ em và các kỹ năng xư lý tình huống nguy hiểm.” (55)
“Tuyên truyền phổ biến luật phòng chống bạo lực và xâm hại tình dục trẻ em đến tất cả các tầng lớp người dân trong cộng đồng đặc biệt là đến các đối tượng phụ huynh học sinh, trẻ em. Có những lớp dậy kĩ năng phòng vệ , bảo vệ bản thân đặc biệt là trong thời kỳ 4.0 như hiện nay. Có những tổ chức, đường dây nóng hỗ trợ trẻ em bị xâm hại 24/24.
Hỗ trợ: Nâng cao chất lượng các dịch vụ hỗ trợ, phòng chống, hạn chế tình trạng bạo lực và xâm hại tình dục ở trẻ em. Nâng cao chất lượng các buổi tuyên truyền phòng chống, dậy kỹ năng cho trẻ khi gặp phải các tình huống xâm hại. Hình thành các dịch vụ hỗ trợ 24/24 đến với những trường hợp trẻ em bị xâm hại cần được hỗ trợ khẩn cấp. Phối hợp các ban ngành đặc biệt là với công an để xử lý đích đáng những hung thủ có hành vi xâm hại trẻ em.
Phối hợp: Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận liên quan trong cộng đồng để hạn chế tình trạng bạo lực và xâm hại tình dục trẻ em như phối hợp giữa gia đình và nhà trường, giữa cộng đồng và các dịch vụ hỗ trợ cho trẻ em đã từng bị xâm hại và dậy những kỹ năng phòng ngừa bị xâm hại cho tất cả trẻ em còn lại.” (122)
“Thường xuyên có đăng bài viết tuyên truyền để mọi người dân đều biết và phòng tránh cho con em thế nào là bạo lực, xâm hại tình dục trẻ em.” (205)
“Tăng cường việc giám sát thực thi luật trẻ em đặc biệt là việc bố trí người làm cán bộ chuyên trách công tác bảo vệ trẻ em cấp xã; giám sát việc thực hiện hỗ trợ theo quy định đối với trẻ em xâm hại, đặc biệt đối với trường hợp trẻ bị xâm hại lần hai cần có sự vào cuộc độc lập của các đơn vị cấp tỉnh” (217)
“Tổ chức các buổi chuyên đề tới các em học sinh và đồng thời phát tờ rơi, có chủ đề phòng chống xâm hại tình dục trẻ em; tuyên truyền trên loa phát thanh xóm phố.” (218)
“Tăng cường camera tại các nơi công cộng; tăng các mức án nặng nhất có thể đối với những người có hành vi đồng thời đó là lời cảnh báo với những người có ý định làm việc xấu” (258)
“Nên có những tình huống và những khoá học mang tính bổ trợ để giúp trẻ em nhận thức sâu sắc hơn.” (203)
“Thành lập những cộng đồng bảo vệ trẻ em; Thành lập cộng đồng tham gia giáo dục tăng cường ý thức cho trẻ em; Mở các buổi học ngoại khoá cho các trường học nhằm tuyên truyền cho học sinh ý thức tự bảo vệ bản thân và bảo vệ người khác; dạy cho trẻ những bài học chân tay để biết phòng ngừa việc xâm hại xảy ra; mở trung tâm, đường dây để tư vấn về những hành động có thể xảy ra để phòng tránh; dạy cho trẻ kỹ năng từ chối trước tình huống bị xâm hại.” (265)
“Nên thành lập các tổ chức để tuyên truyền giáo dục nâng cao ý thức người dân; tổ chức các buổi ngoại khoá nói về tình trạng bạo lực và xâm hại tình dục trẻ em; đưa thực trạng về vấn đề vi phạm lên báo, truyền hình để người dân biết cách phòng tránh cho con em mình.” (266)
“Về sự phối hợp: Cán bộ cấp xã thôn nên phối hợp tổ chức các buổi tập huấn, toạ đàm và tuyên truyền trên mọi hình thức như in các băng rôn, khẩu hiệu và phối hợp với các nhà trường phổ biến cho học sinh được biết để tự phòng cho bản thân.” (208)
“Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nạn nhân người bị hại, chính quyền địa phương ra tay chặt chẽ để loại bỏ hết nhưng hành vi xấu xa tàn bạo này; cha mẹ cần quan tâm chú ý đến con cái của mình nhiều hơn.” (250)
“Giữa gia đình và nhà trường cần phải quan tâm quản lý chặt chẽ với con trẻ; cần thường xuyên giáo dục, hướng dẫn con trẻ từ những điều cần làm để bảo vệ chính bản thân mình.” (270)
“Phối hợp giữa gia đình, nhà trường và cộng đồng không nên để trẻ 1 mình, thường xuyên và khuyến khích trẻ tham gia thường xuyên các hoạt động mang tính cộng đồng theo hướng tích cực.” (276)
“Cần sớm có kế hoạch đào tạo về trình độ tâm lý học, khoa học giáo dục đối với người dưới 18 tuổi; Tuyên truyền giáo dục pháp luật về giới, về tình dục, về quyền phụ nữ (trẻ em).”
3. Thực trạng bạo lực, xâm hại trẻ em ở các địa phương và nhu cầu hỗ trợ pháp lý
* Thực trạng bạo lực, xâm hại trẻ em ở các địa phương
Hầu hết các em tham gia khảo sát đã từng chịu một hoặc nhiều trong số các hành vi: không cho ăn mặc đầy đủ, đánh đập (đấm, đá, tát…), bị bóp cổ, bị mắng nhiếc, nhục mạ, nhạo báng, bị phạt bằng các hình thức bỏ rơi, nói rằng không ai thương trẻ, sử dụng ngôn ngữ xúc phạm lòng tự trọng của trẻ, đuổi ra khỏi nhà, không quan tâm đến việc học của trẻ, không tạo điều kiện cho trẻ đến trường, bị gọi bằng các tên gọi hạ thấp nhân phẩm, không quan tâm đến việc trẻ mong muốn gì, bị nghe nói chuyện một cách tục tĩu hoặc bình phẩm về các bộ phận cơ thể trẻ một cách tục tĩu trước mặt trẻ, bị hôn hoặc nắm tay một cách quá âu yếm gây cảm giác khó chịu, bị chạm vào vùng riêng tư hoặc các bộ phận nhạy cảm
như: môi, ngực, mông, cơ quan sinh dục…. Trong số các em cho rằng đã từng nhận sự hỗ trợ khi bị bạo lực, xâm hại; phần lớn các em nhận sự hỗ trợ của gia đình, hàng xóm, trưởng thôn, cán bộ phụ nữ, thầy cô; theo các kênh gồm công an, trung tâm tư vấn, đường dây tư vấn, nhà tạm lánh chỉ 1/5 trẻ em sử dụng đến.
Trên 2/3 số trẻ em được khảo sát nói rằng bạo lực, xâm hại gây ảnh hưởng đến sức khoẻ, học tập, tâm lý, đời sống của trẻ; có thể dẫn đến tình trạng trẻ không muốn giao tiếp với bất kì ai, làm cho trẻ bi quan và tìm đến chất kích thích như rượu, bia, ma tuý; khiến trẻ buồn chán, lo lắng, sợ hãi, tức giận, đập phá, đánh người khác, bỏ nhà đi, đau ở bộ phận nhạy cảm, có thai. Trong đó 83% trẻ em cho biết có bạo lực, xâm hại có gây hậu quả, 79,3% trẻ em nói “bạo lực, xâm hại ảnh hưởng đến sức khoẻ, học tập của trẻ”. 52,2% trẻ không lên tiếng với người đó là mình không thích điều đó nếu không chấm dứt hành vi thì sẽ mách với bố mẹ; 32.8% không la lớn để nhờ người khác giúp đỡ. Tỷ lệ này chứng minh cho việc trẻ em thiếu các kỹ năng cần thiết phản ứng lại với bạo lực, xâm hại.
Qua khảo sát và nghiên cứu báo cáo của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước các tỉnh, bạo lực, xâm hại trẻ em xảy ra ở thành phố lớn (Hà Nội) phổ biến hơn cả
[1]. Hai địa phương còn lại có số vụ việc trẻ em bị bạo lực, xâm hại thấp hơn. Khảo sát cũng phát hiện một số vụ việc bạo lực, xâm hại trẻ em ở ba địa phương, ví dụ Hà Nội xảy ra các vụ ở Chương Mỹ (2 vụ), Quốc Oai (1 vụ), Sóc Sơn (1 vụ), Ba Vì (1 vụ); Nghệ An xảy ra các vụ ở Tân Kỳ, Quỳnh Lưu, Diễn Châu; Hoà bình xảy ra ở TP Hoà Bình. Sau khi cân nhắc, dự án lựa chọn từ 4-6 vụ việc để thực hiện hỗ trợ pháp lý, đại diện trong tố tụng.
* Nhu cầu trợ giúp pháp lý của các địa phương
Theo Luật Trợ giúp pháp lý 2017, có 3 hình thức trợ giúp pháp lý cho người dân là: Tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng và đại diện ngoài tố tụng; trong đó hình thức tư vấn pháp luật là hình thức trợ giúp phổ biến và linh hoạt nhất, có thể thực hiên tại trụ sở cơ quan hoặc tại địa điểm khác ngoài trụ sở đảm bảo thuận lợi và hiệu quả nhất cho người được TGPL. Tư vấn pháp luật là việc hướng dẫn, đưa ra ý kiến, giúp soạn thảo văn bản liên quan đến tranh chấp, khiếu nại, vướng mắt pháp luật, hướng dẫn giúp các bên hòa giải, thương lượng, thống nhất hướng giải quyết vụ việc.
Người yêu cầu trợ giúp pháp lý phải nộp hồ sơ cho tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý gồm đơn yêu cầu TGPL, các giấy tờ tài liệu liên quan đến vụ việc, các giấy tờ chứng minh mình là người thuộc đối tượng được TGPL. Hồ sơ có thể nộp trực tiếp tại trụ sở, qua dịc vụ bưu chính hoặc qua Fax, hình thức điện tử khác. Sau khi nhận được hồ sơ yêu cầu TGPL, người thực hiện TGPLtiếp nhận và kiểm tra về đối tượng có thuộc diện được TGPL hay không, liên quan trực tiếp đến quyền lợi của đối tượng hay không, kiểm tra các nội dung có liên quan đến yêu cầu của đối tượng và hồ sơ giấy tờ cần bổ sung gì, thiếu gì để tiến hành thụ lý vụ việc. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày thụ lý vụ việc hoặc nhận đủ các giấy tờ, tài liệu cần bổ sung, người thực hiện trợ giúp pháp lý có trách nhiệm nghiên cứu và trả lời bằng văn bản cho người được trợ giúp pháp lý; đối với vụ việc phức tạp hoặc cần có thời gian để xác minh thì có thể kéo dài nhưng không quá 30 ngày, trừ trường hợp có thỏa thuận khác với người được trợ giúp pháp lý.
- Một số nguồn tin tiếp nhận yêu cầu TGPL từ người dân:
* Từ các cơ quan tiến hành tố tụng:
Hầu hết các vụ án xâm hại tình dục trẻ em đều do các cơ quan tiến hành tố tụng là Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát nhân dân hoặc Tòa án yêu bằng công văn hoặc báo tin qua điện thoại chi nhánh hoặc cá nhân Trợ giúp viên. Thông thường hình thức báo tin qua điện thoại được sử dụng nhiều hơn đảm bảo tính gấp rút, khẩn trương và kịp thời như Thông tư liên tịch số 06/2018/ TTLT- BTP- BCA –BQP- BTC- TANDTC- VKSNDTC ngày 21/12/2018 đã hướng dẫn để Chi nhánh có sự tiếp nhận thông tin nhanh, kịp thời phân công Trợ giúp viên pháp lý (TGV) thực hiện vụ việc. Thông thường ngay từ giai đoạn điều tra của Cơ quan Công an đã yêu cầu Chi nhánh cử người tham gia để bảo vệ quyền lợi cho các cháu bé, đảm bảo đúng thủ tục tố tụng. Hầu hết ngay từ khi phát hiện ra sự việc trẻ em bị xâm hại tình dục, người thân gia đình đã trình báo ngay lên các Công an xã hoặc Công an huyện để được bảo vệ quyền lợi cho các cháu.
* Từ yêu cầu của người dân:
Một số trường hợp người dân tìm đến chi nhánh TGPL để trình bày sự việc và yêu cầu giúp đỡ. Ngay lập tức tùy tình hình cụ thể chi nhánh sẽ cử người tiếp nhận vụ việc, xác định sự việc cơ bản thông qua trình bày của người thân thích: diễn biến sự việc, thời gian địa điểm, người làm chứng …để đảm bảo việc tố giác, tin báo về tội phạm là đúng sự thật; nhanh chóng soạn thảo đơn tố cáo đến cơ quan Công an nơi xảy ra sự việc hoặc cùng với người thân, trẻ em đến ngay cơ Công an thực hiện việc tố giác tội phạm; tùy tình hình cụ thể có thể liên hệ nhanh với Cơ quan điều tra trình báo sự việc để họ nhanh chóng cử người tiếp nhận vụ việc.
- Trợ giúp pháp lý trong giai đoạn cơ quan điều tra, thụ lý vụ viêc:
Thông thường cơ quan điều tra khi tiêp nhận tin báo tố giác tội phạm từ công dân hoặc từ Công an xã trình báo thì ngay lập tức tiến hành các hoạt động lấy lời khai, xác minh, thu thập các bằng chứng …và trưng cầu giám định pháp y về tình dục trong thời gian nhanh nhất (trong vòng 3 ngày). Nếu có đủ căn cứ khởi tố vụ án sẽ được khởi tố theo thủ tục tố tụng, nếu không đủ căn cứ khởi tố hoặc vụ việc rơi vào trường hợp tạm đình chỉ vụ án thì TGV cần nắm bắt thông tin quá trình giải quyết để tư vấn cho người được TGPL có bước đi thích hợp. Nếu vụ việc có quyết định khởi tố vụ án, Tgv sẽ tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp theo Điều 84 Bộ luật Tố tụng hình sự.
TGV khi tham gia bảo vệ quyền lợi cho các cháu ngoài việc tham gia vào các hoạt động cụ thể còn thực hiện việc đan xen tư vấn pháp luật cho người được TGPL thông qua các cuộc tiếp xúc tại trụ sở chi nhánh, tại Cơ quan điều tra hoặc tại địa điểm bất kỳ thuận lợi nhất cho trẻ em: giải thích về quyền lợi và nghĩa vụ của trẻ em, người giám hộ cho trẻ theo Điều 62 Bộ luật Tố tụng Hình sự: hướng dân cung cấp chứng cứ tài liệu liên quan đến vụ án, hướng dẫn hoặc viết hộ đơn yêu cầu bồi thường, tu vấn việc yêu cầu bồi thường theo quy định của pháp luật dân sự, tư vấn về quyền yêu cầu thay đổi điều tra viên nếu thấy có dấu hiệu không khách quan...
- Trợ giúp pháp lý trong giai đoạn truy tố, xét xử vụ án:
Quá trình truy tố, Viện kiểm sát sẽ tiếp tục các vấn đề chưa được giải quyết xong trong quá trình điều tra bởi trong một số vụ án phía bị hại và gia đình người bị hại như vấn đề bồi thường thiệt hại, một số trường hợp do trong môi trường nông thôn nên còn rất nặng nề về điều tiếng ở nơi cư trú, lo sợ bị chửi bới, trả thù nên tâm lý của gia đình người bị hại rất ngại, thậm chí không dám yêu cầu bồi thường. TGV sẽ tư vẫn cụ thể hơn về vấn đề này, kết hợp trao đổi làm việc với Kiểm sát viên để đi đến thống nhất về vấn đề thỏa thuận bồi thường cho người bị hại. Một số vụ việc do nhiều yếu tố, đến giai đoạn chuẩn bị xét xử TGV vẫn phải trao đổi với gia đình người bị hại về vấn đề bồi thường, có thể chỉ yêu cầu bồi thường theo quy định của pháp luật hoặc thỏa thuận bồi thường giữa hai bên. Tư vấn và trao đổi về cáo trạng truy tố của Viện Kiểm sát, các tình tiết trong vụ án để chuẩn bị cho phiên tòa xét xử; tư vấn về quyền lợi và nghĩa vụ của người bị hại khi tòa án xét xử. Các vụ án được xét xử kín, tuy nhiên để tránh nhắc lại sự việc ảnh hưởng đến tâm lý của trẻ em, tùy từng vụ án TGV tư vấn để gia đình làm đơn xin vắng mặt, tránh những sang chấn tâm lý không hay khi trẻ em đối mặt với bị cáo tại phiên tòa. Sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm, TGV gặp gỡ trao đổi với bị hại và người giám hộ cho các cháu nếu kháng cáo bản án sơ thẩm về thời hạn, lý do kháng cáo, soạn thảo đơn kháng cáo.…
Như vậy tư vấn cho các đối tượng trẻ em bị xâm hại tình dục trong các vụ án không phải là một giai đoạn hay hình thức độc lập mà là sự đan xen trong suốt quá trình tham gia tố tụng bảo vệ quyền lợi cho các em. TGV cần sự tìm hiểu đặc điểm về tâm sinh lý từng lứa tuổi để có sự tiếp xúc và tương tác hiệu quả. Bên cạnh đó cần có sự trao đổi tìm hiểu từ phía gia đình các em để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng cùng như sự tác động của xã hội, môi trường nhà trường, bạn bè tương tác với các em thế nào, tránh những tác động tiêu cực làm tổn thương các em, nhất là những em ở lứa tuổi dật thì đã có những diễn biến tâm lý phức tạp.
* Những vấn đề đặt ra khi trợ giúp pháp lý tại các địa phương:
+ Hầu hết trẻ em là nạn nhân trong các vụ án xâm hại tình dục đều bị xâm hại khi thiếu vắng sự giám sát trông coi của người lớn, có thể xuất phát từ hoàn cảnh của các em sống với ông bà, xa cha mẹ, hoặc do phía gia đình chủ quan nên đã bị các đối tượng xấu nắm bắt rõ sinh hoạt hoặc lợi dụng thời điểm gia đình không quản lý được để thực hiện hành vi xâm hại.
+ Những đối tượng gây tội ác với các em là người quen biết, thân thích hay tiếp xúc với các em như: cùng xóm hay qua chơi nhà, người làm công trong gia đình, hay đi chăn trâu, làm việc cùng.…đều là những đối tượng có kinh nghiệm sống, có sự tính toán che đậy trong việc thực hiện hành vi. Vì vậy nhưng đối tượng này thường đem tiền bạc hoặc lợi ích vật chất ra để dụ dỗ các em, đe dọa xâm phạm đến tính mạng các em và người thân để tránh bị phát hiện, có xu hướng đổ lỗi cho các em trong quá trình khai, hỏi cung.
+ Do các em còn nhỏ tuổi hoặc bị khiếm khuyết về tâm thần, thể chất nên quá trình tiếp xúc làm quen với các em TGv cần sự mềm mỏng, làm quen, làm thân để tạo sự tin cậy, hầu hết sự việc các em đều rất nhanh quên tình tiết cụ thể, thời gian ngày giờ cũng không chính xác, cần gợi mốc thời gian để các em nhớ lại sự việc. Ngoài ra do một số em còn quá nhỏ tuổi, chưa được trang bị đầy đủ về giới tính, chưa ý thức được về những hành vi xâm hại của các đối tượng là có ý nghĩa gì, tính chất nghiêm trọng ra sao. Hơn nữa do các đối tượng luôn tạo được sự gần gũi thân quen nên các em nhỏ xem nhầm lẫn với hành động cưng nựng của ông bà, của người lớn như trong nếp sinh hoạt hàng ngày.
+ Một số vụ án “giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16” các em đã có sự nhận thức và phát triển tâm sinh lý, ý thức giới tính, yêu đương, bị tác động bởi các thông tin lệch lạc trong khi kiến thức, nhận thức về giáo dục giới tính còn rất hạn chế. Đặc điểm về tâm sinh lý tuổi mới lớn rất dễ bị thu hút, sa vào các xu hướng chơi bời lệch lạc nếu không có sự sám sát, giáo dục từ gia đình nhà trường, hoặc xem việc em dễ trở thành đối tượng bị lợi dụng về tình dục.
+ Tác động tâm lý đến trẻ em là điều không tránh khỏi, sau mỗi vụ án các em và gia dình phải đối mặt với rất nhiều khó khăn từ phía bạn bè trong trường lớp, ở thôn xóm… không thể tránh được những trêu chọc, thậm chí kỳ thị, vì vậy các em rất cần sự thông cảm, bảo vệ một cách kiên quyết và khéo léo từ phía gia đình, nhà trường và toàn xã hội. Hiện tại hầu hết các em chưa nhận được sự giúp đỡ về mặt tâm lý từ các bác sĩ, các chuyên gia để vượt qua những rào cản tâm lý, mạnh dạn hòa nhập với bạn bè và nhanh chóng quên những ký ức không hay để có một tâm hồn lành lặn, vui tươi khi bước vào cuộc sống.