YÊU CẦU, MỤC TIÊU VÀ TRỌNG TÂM TIẾP TỤC XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN MỚI
Sign In

YÊU CẦU, MỤC TIÊU VÀ TRỌNG TÂM TIẾP TỤC XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN MỚI

Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày ngày 09 tháng 11 năm 2022 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới (sau đây gọi là Nghị quyết số 27-NQ/TW). Nghị quyết đã thể hiện rất rõ các mục tiêu chung, mục tiêu cụ thể, các nhiệm vụ, giải pháp để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Chuyên đề này phân tích về bối cảnh tình hình, yêu cầu, mục tiêu và những trọng tâm của việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết số 27-NQ/TW.

1. Bối cảnh quốc tế và tình hình trong nước tác động tới tiến trình tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới
1.1. Bối cảnh quốc tế
Trong những năm tới, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Xu hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra nhanh hơn, liên kết và tự do hóa thương mại vẫn là xu thế chủ đạo, tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế thế giới đan xen yếu tố bảo hộ; cạnh tranh địa chính trị, địa kinh tế đi đôi với căng thẳng giữa một số nền kinh tế lớn; chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế gia tăng[1], chủ nghĩa bảo hộ trỗi dậy. Tuy nhiên, hòa bình, độc lập dân tộc, chủ quyền, dân chủ, pháp quyền, hợp tác, liên kết và phát triển vẫn là xu thế lớn[2], là dòng chảy chính và lợi ích chung của các nước. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển[3], song cũng đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn, thách thức, nhất là các vấn đề xung đột, tranh chấp, cạnh tranh giữa các quốc gia. Khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, kinh tế tri thức tiếp tục được đẩy mạnh và phát triển với những đột phá trong nhiều lĩnh vực đã chi phối sâu sắc tiến trình phát triển của nhân loại. Khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo ngày càng trở thành nhân tố quyết định đối với năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia. Công nghệ số sẽ thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số; làm thay đổi phương thức quản lý nhà nước, mô hình sản xuất kinh doanh, tiêu dùng và đời sống văn hoá, xã hội[4]. Phát triển bền vững trở thành xu thế bao trùm trên thế giới; mô hình kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh là mô hình phát triển được nhiều quốc gia lựa chọn[5], đang dần phổ biến, dẫn đến việc thay đổi phương thức và lực lượng sản xuất của xã hội, làm xuất hiện những hiện tượng kinh tế - xã hội mới và nhu cầu mới trong điều chỉnh pháp luật. Nhiều vấn đề toàn cầu như: bảo vệ hòa bình, biến đổi khí hậu, dịch bệnh, các vấn đề an ninh phi truyền thống (nhất là an ninh con người, an ninh mạng,…) ngày càng gia tăng, đặt ra những thách thức chưa từng có cho sự phát triển nhanh và bền vững, đòi hỏi phải tăng cường nền tảng pháp luật, hợp tác giữa các quốc gia trên thế giới.
Khu vực Đông Nam Á giữ vị trí chiến lược ngày càng quan trọng, là khu vực cạnh tranh gay gắt giữa các cường quốc, tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định. Mặc dù Tổ chức ASEAN đã thông qua “Tầm nhìn ASEAN 2025” góp phần quan trọng vào củng cố hòa bình, ổn định và phát triển trong khu vực song các tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo diễn ra căng thẳng, quyết liệt hơn; tình hình Biển Đông diễn biến ngày càng phức tạp, khó lường, đe doạ nghiêm trọng đến hoà bình, ổn định của khu vực và môi trường đầu tư phát triển[6].
Trong bối cảnh đó, đòi hỏi Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải tiếp tục có những cải cách, đổi mới theo hướng dân chủ, pháp quyền, hiện đại, hội nhập, nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu ngày càng cao, tạo môi trường ổn định, công khai, minh bạch để thu hút đầu tư và tạo được niềm tin trong nước và cộng đồng quốc tế. Đồng thời có đủ năng lực để tham gia giải quyết những vấn đề có tính toàn cầu, khu vực trên mọi phương diện.
1.2. Tình hình trong nước
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sau hơn gần 40 năm đổi mới, hơn 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên xã hội chủ nghĩa năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011), đất nước ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực[7], có ý nghĩa lịch sử, tạo ra động lực mới và khí thế mới để phát triển; thế và lực của nước ta đã lớn mạnh hơn nhiều và có thêm nhiều bài học kinh nghiệm quý trong lãnh đạo, quản lý, điều hành đất nước. Tình hình chính trị, xã hội, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; chất lượng tăng trưởng kinh tế từng bước được cải thiện, mô hình tăng trưởng từng bước dịch chuyển sang chiều sâu; các lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh, đối ngoại được quan tâm và có sự chuyển biến tích cực; hội nhập quốc tế, nhất là hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng; uy tín, vị thế đất nước ngày càng được củng cố trên trường quốc tế. Dân chủ ngày càng mở rộng, dân trí được nâng cao, niềm tin của Nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp đối với Đảng, Nhà nước ngày càng tăng lên. Việt Nam đang nỗ lực đổi mới, tăng tốc, thực hiện thành công những mục tiêu, nhiệm vụ được xác định trong các văn kiện, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
Trong đó, công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thực tiễn sinh động để khẳng định tính đúng đắn về chủ trương, quan điểm của Đảng và kiểm chứng, khẳng định những giá trị lý luận và thực tiễn cần được kế thừa, phát triển. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2021) đã bổ sung, phát triển những quan điểm cơ bản về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đó là: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật"[8].
Qua thực tiễn thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991, bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng đã đạt được những thành tựu rất quan trọng. Nhận thức, lý luận về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày càng thống nhất, đầy đủ và sâu sắc hơn. Hệ thống pháp luật đã được hoàn thiện một bước cơ bản; vai trò của pháp luật và việc thực thi pháp luật được chú trọng trong tổ chức, hoạt động của Nhà nước và xã hội. Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp ngày càng rõ hơn và có chuyển biến tích cực. Bộ máy nhà nước từng bước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tổ chức và hoạt động của Quốc hội có nhiều đổi mới, chất lượng được nâng cao. Hoạt động của Chính phủ chủ động, tích cực, tập trung hơn vào quản lý, điều hành vĩ mô, tháo gỡ rào cản, phục vụ, hỗ trợ phát triển. Cải cách hành chính, cải cách tư pháp có bước đột phá trên một số lĩnh vực. Tổ chức bộ máy của toà án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án, cơ quan bổ trợ tư pháp tiếp tục được kiện toàn, chất lượng hoạt động được nâng lên. Quyền con người, quyền công dân theo Hiến định tiếp tục được cụ thể hoá bằng pháp luật và thực hiện tốt hơn trên thực tế; dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện được tăng cường. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội từng bước được đổi mới. Mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không ngừng được hoàn thiện, vận hành theo cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ", góp phần quan trọng vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc[9].
Về hạn chế, bất cập: việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có mặt chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, quản lý và bảo vệ đất nước trong tình hình mới. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn chưa được luận giải một cách đầy đủ, thuyết phục; tổ chức bộ máy nhà nước, hệ thống pháp luật còn một số bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Quyền lực nhà nước chưa được kiểm soát hiệu quả, cơ chế kiểm soát quyền lực chưa hoàn thiện; vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân chưa được phát huy mạnh mẽ; ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận cán bộ, công chức, đảng viên và Nhân dân chưa nghiêm; cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, quyền con người, quyền công dân có mặt chưa được phát huy đầy đủ; cải cách hành chính, cải cách tư pháp chưa đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước...[10].
Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập nêu trên chủ yếu là do: Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là vấn đề lớn, phức tạp, lâu dài; công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, hoàn thiện lý luận chưa được quan tâm đúng mức; quyết tâm chính trị, công tác lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền trong thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam chưa tương xứng với yêu cầu đặt ra[11].
Trong những năm tới, quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền sẽ chịu sự tác động mạnh mẽ của tất cả các yếu tố có liên quan và bản thân nó cũng sẽ có tác động trở lại mạnh mẽ với các yếu tố đó, vì vậy, việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới phải được đặt trong bối cảnh giải quyết hài hoà các mối quan hệ cơ bản trong tiến trình đổi mới. 
  Những khó khăn, thách thức khi trong quá trình tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đó là: Tồn tại bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra[12]; nguy cơ tụt hậu, rơi vào bẫy thu nhập trung bình còn lớn. Tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, quan liêu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cũng như những mâu thuẫn xã hội còn diễn biến phức tạp. Chất lượng pháp luật, chính sách trong một số lĩnh vực còn thấp, môi trường kinh doanh chưa thực sự thông thoáng. Công tác lãnh đạo, quản lý xã hội, năng lực quản trị quốc gia còn những hạn chế, bất cập. Chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu; khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa thực sự trở thành động lực, nền tảng phát triển. Các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh “diễn biến hòa bình”, lợi dụng triệt để vấn đề tự do dân chủ, tự do tôn giáo, các vấn đề về nhân quyền để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân; tình hình tội phạm an ninh phi truyền thống đang ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội của đất nước; bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ còn nhiều khó khăn, thách thức
 2. Quan điểm, mục tiêu trọng tâm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới
 2.1. Quan điểm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới
 Nghị quyết số 27-NQ/TW đã khái quát hoá quan điểm có tính vững chắc và ổn định, thể hiện tư tưởng, chính trị, pháp lý; bao gồm tính khách quan - chủ quan; tác động thông tin, định hướng chỉ đạo và điều chỉnh đối với việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. Các quan điểm về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới được thể hiện như sau: 
 Quan điểm thứ nhất, về nền tảng tư tưởng, định hướng xã hội chủ nghĩa, đó là: Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới và bảo đảm sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ; giữa nhà nước, thị trường và xã hội; giữa thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị; luôn phải đặt trong tổng thể công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị với quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, kiên trì, hiệu quả; thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh[13].
 Quan điểm thứ hai, về tổ chức và vận hành quyền lực nhà nước trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Thực hiện nhất quán nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp dưới sự giám sát của Nhân dân[14].
 Quan điểm thứ ba, các giá trị cốt lõi của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức xã hội chủ nghĩa; thể chế hoá kịp thời, đầy đủ và tổ chức thực hiện hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng; lấy con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển đất nước; Nhà nước tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân[15].
 Quan điểm thứ tư, về mối quan hệ giữa quốc gia, dân tộc, quốc tế và thời đại trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: bám sát thực tiễn đất nước và xu thế phát triển của thời đại, kế thừa những thành tựu đã đạt được, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh quốc gia với sức mạnh quốc tế; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia, chế độ xã hội chủ nghĩa[16].
 Quan điểm thứ năm, là cách thức xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: bảo đảm tổng thể, đồng bộ, liên thông giữa đổi mới lập pháp, cải cách hành chính, cải cách tư pháp; kết hợp hài hoà giữa kế thừa, ổn định với đổi mới, phát triển; tiến hành khẩn trương, nghiêm minh, nhất quán, có trọng tâm, trọng điểm và lộ trình, bước đi vững chắc. Những vấn đề thực tiễn đòi hỏi, đã rõ, được thực tiễn chứng minh là đúng, có sự thống nhất cao thì kiên quyết thực hiện; những vấn đề chưa rõ, còn nhiều ý kiến khác nhau thì tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, thực hiện thí điểm khi cơ quan có thẩm quyền cho phép; những chủ trương đã thực hiện, nhưng không phù hợp thì nghiên cứu điều chỉnh, sửa đổi kịp thời[17].
 Các quan điểm chỉ đạo nói trên có ý nghĩa tư duy, nhận thức, lý luận và thực tiễn rất quan trọng, mang tính nguyên tắc trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
 2.2. Mục tiêu tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới
2.2.1. Cơ sở xác định mục tiêu
  Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cùng với xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, là một cuộc cải cách, đổi mới, một bộ phận cấu thành quan trọng của sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo thực hiện. Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một quá trình phát triển liên tục để vươn tới những mục tiêu cao cả nhất định, gắn liền với mục tiêu của chủ nghĩa xã hội đang được xây dựng ở xã hội chúng ta. Mục tiêu của quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn luôn ở trong trạng thái tĩnh và trong trạng thái động.
Mục tiêu của xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện nhận thức khái quát về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Việc lựa chọn và xác định mục tiêu  một mặt, phải xuất phát và dựa vào nhận thức, hiểu biết về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời xuất phát và dựa vào nhận thức, hiểu biết chính về mục tiêu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
 Mục tiêu của xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là vấn đề có ý nghĩa nhận thức, lý luận và thực tiễn đặc biệt quan trọng, mang tính tầm nhìn chiến lược. Mục tiêu mang tính tầm nhìn chiến lược,  khả năng thực hiện. Mục tiêu phản ánh, hiện thực hoá, kết quả hoá các giá trị, nhu cầu, lợi ích nhất định. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có các giá trị, nhu cầu, lợi ích của mình, do vậy, mục tiêu của xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phản ánh, hiện thực hoá, kết quả hoá các giá trị, nhu cầu, lợi ích đó. Có các mục tiêu ngắn hạn, trung hạn, dài hạn; các mục tiêu chính trị, xã hội, pháp lý và các mục tiêu khác. Các mục tiêu được xác định rõ ràng, cụ thể, lôgic, theo một thứ tự nhất định.  
Trên cơ sở nhận thức khái quát như nêu trên, khi lựa chọn và xác định mục tiêu của việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Namtrong giai đoạn mới, Đảng ta dựa vào: (1) Mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã được chỉ rõ trong Cương lĩnh xây dựng đất nước, mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 – 2030; (2) các quy định của Hiến pháp năm 2013; (3) các giá trị cốt lõi, nguyên tắc, đặc trưng, thành tố cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; (4) các phương tiện, khả năng, tính hiện thực, tính đầy đủ, tính tương lai và toàn diện của nguồn lực để đạt được mục tiêu. Mục tiêu của tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tích hợp mục tiêu về chính trị và mục tiêu về pháp lý, được giai đoạn hoá thành hai giai đoạn: từ nay đến năm 2030 và sau năm 2030 đến năm 2045, về cơ bản, mang tính định tính.
2.2.2. Mục tiêu tổng quát
Nghị quyết xác định mục tiêu tổng quát của việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới là: Hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có hệ thống pháp luật hoàn thiện, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, được phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả; nền hành chính, tư pháp chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại; bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, thực sự chuyên nghiệp, liêm chính; quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả; đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh, bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào năm 2045[18].
Mục tiêu tổng quát nêu trên bao hàm các giá trị cốt lõi, nguyên tắc, đặc trưng, thành tố cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, gắn kết chặt chẽ với nhau, được xắp xếp theo một trật tự logic.  
1) Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, được hoàn thiện. Đây là mục tiêu phản ánh, ghi nhận, hiện thực hóa, cụ thể hoá đặc trưng về Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân,   chủ quyền của Nhân dân, quyền làm chủ của Nhân dân phải được hoàn thiện và Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, lãnh đạo quá trình hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với tư cách là đặc trưng đặc thù của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mục tiêu này gắn chặt Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, khẳng định và cụ thể hoá quy định của Hiến pháp Việt Nam năm 2013 về Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình[19], trong đó có quyết định xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Đây là bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà Đảng Cộng sản Việt Nam xác định mục tiêu nhắm tới.
2) Có hệ thống pháp luật hoàn thiện, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán. Đây là mục tiêu cụ thể hoá giá trị pháp quyền, pháp luật, đặc trưng về hệ thống pháp luật, thực hiện pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.   Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, xét trên phương diện mực tiêu tổng quát, lâu dài, phải có hệ thống pháp luật hoàn thiện, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán. Đây là mục tiêu về hệ thống pháp luật và thực hiện pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.   
3) Thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân. Mục tiêu này cụ thể hoá giá trị, nguyên tắc, đặc trưng thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, quyền con người, quyền công dân của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hiến pháp và pháp luật phải được thượng tôn, đây là tư tưởng, giá trị cốt lõi của pháp quyền, và quyền con người, quyền công dân phải được tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả, đây là mục tiêu của mục tiêu, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước vì con người, công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân[20]. Đây là mục tiêu về Hiến pháp và pháp luật, quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.     
4) Quyền lực nhà nước là thống nhất, được phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả. Mục tiêu này cụ thể hoá đặc trưng quyền lực nhà nước là thống nhất, được phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp với tư cách là đặc trưng đặc thù của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực nhà nước là thống nhất, thống nhất ở Nhân dân, và quyền lực nhà nước phải được phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả. Đây là mục tiêu về sự tổ chức và vận hành quyền lực nhà nước trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
5) Nền hành chính, tư pháp chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại. Mục tiêu này   cụ thể hoá đặc trưng về độc lập của toà án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật và thành tố nền hành chính trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nền hành chính, tư pháp phải đạt được mục tiêu chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đạị. Đây là mục tiêu về tổ chức và vận hành của nền hành chính và tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.     
6) Bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Mục tiêu này cụ thể hoá thành tố tổ chức và vận hành của bộ máy nhà nước trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bộ máy nhà nước, bao gồm các cơ quan lập pháp, các cơ quan hành pháp, các cơ quan tư pháp, các cơ quan ở trung ương và các cơ quan ở địa phương phải đạt được mục tiêu tổ chức tinh gọn, trong sạch, phải hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đây là mục tiêu về tổ chức và vận hành của bộ máy nhà nước trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.     
7) Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, thực sự chuyên nghiệp, liêm chính. Mục tiêu này cụ thể hoá thành tố nguồn nhân lực trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nguồn nhân lực với tư cách là chủ thể thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm được giao, trước hết các chức năng mang tính quyền lực phải có đủ phẩm chất, năng lực, thực sự chuyên nghiệp, liêm chính. Đây là mục tiêu về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.       
8) Đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh, bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào năm 2045. Đây là mục tiêu gắn việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với yêu cầu cầu phát triển đất nước nhanh, bền vững, phấn đấu đến năm 2045 Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là mục tiêu về vai trò của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với tư cách là một trong ba trụ cột phát triển đất nước[21].
Nghị quyết số 27-NQ/TW không xác định mốc thời gian hoàn thành mục tiêu tổng quát, nhưng mục tiêu tổng quát này phù hợp với mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2045 theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.           
Như vậy, mục tiêu tổng quát của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện các giá trị cốt lõi, các đặc trưng thành một chỉnh thể thống nhất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, gắn liền với mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.  
2.2.3. Mục tiêu cụ thể đến năm 2030
Cụ thể hoá mục tiêu tổng quát nêu trên, Nghị quyết số 27-NQ/TW xác định năm mục tiêu cụ thể, dựa vào các thành tố cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam gắn với mốc thời gian hoàn thành vào năm 2030.
Mục tiêu thứ nhất: Hoàn thiện cơ bản các cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trở thành chuẩn mực ứng xử của mọi chủ thể trong xã hội. Hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, mở đường cho đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất quán. Hoàn thiện cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, được kiểm soát hiệu quả[22].
Mục tiêu cụ thể này bao gồm bốn mục tiêu thành tố gắn kết chặt chẽ với nhau, nói về việc hoàn thiện cơ bản các cơ chế quan trọng nhất và hiện thực hoá quan điểm hai và ba của Nghị quyết số 27-NQ/TW. Đó là:
1) Hoàn thiện cơ bản các cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Hoàn thiện các cơ chế đó được hiểu tập trung cơ bản đến việc hoàn thiện thể chế, thiết chế, phương thức bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
2) Thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trở thành chuẩn mực ứng xử của mọi chủ thể trong xã hội. Hiến pháp và pháp luật là giá trị cốt lõi của pháp quyền phải được thượng tôn, và không chỉ được thượng tôn mà phải trở thành chuẩn mực ứng xử của mọi chủ thể trong xã hội, tức là giá trị quy tắc ứng xử theo Hiến pháp và pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống.
3) Hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, mở đường cho đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất quán. Điều này có nghĩa rằng, hệ thống pháp luật được tiếp tục hoàn thiện phải bảo đảm dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận hướng tới mở đường cho đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững và hoàn thiện cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật để bảo đảm nghiêm minh, nhất quán.
4) Hoàn thiện cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, được kiểm soát hiệu quả. Hoàn thiện các cơ chế đó được hiểu tập trung cơ bản đến việc hoàn thiện thể chế, thiết chế, phương thức thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, được kiểm soát hiệu quả.       
Mục tiêu thứ hai: Tiếp tục đổi mới tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội; bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp[23].
Mục tiêu cụ thể này bao gồm hai mục tiêu thành tố gắn kết chặt chẽ với nhau, nói về mục tiêu hướng đến của Quốc hội với tư cách là thành tố quan trọng đầu tiên trong cơ cấu tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vào năm 2030. Đó là:
1) Tiếp tục đổi mới tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội. Điều này có nghĩa rằng, tiếp tục kiện toàn, xắp sếp lại, đổi mới tổ chức của Quốc hội và nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực hiện tốt chức năng lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.
2) Bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp. Điều này có nghĩa rằng, tiếp tục xây dựng Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, đại diện cho ý chí, nguyện vọng, lợi ích của Nhân dân, là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ đã được Hiến pháp năm 2013 quy định.  
Mục tiêu thứ ba: Hoàn thành cơ bản việc xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ Nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch; bảo đảm Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, cơ quan chấp hành của Quốc hội; phân cấp, phân quyền hợp lý giữa Trung ương và địa phương; cơ bản hoàn thiện tổ chức bộ máy chính quyền địa phương[24].
Mục tiêu cụ thể này bao gồm bốn mục tiêu thành tố gắn kết chặt chẽ với nhau, nói về mục tiêu hướng đến của Chính phủ và chính quyền địa phương với tư cách là thành tố quan trọng tiếp theo trong cơ cấu tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vào năm 2030. Đó là:
1) Hoàn thành cơ bản việc xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ Nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch. Điều này có nghĩa rằng, tiếp tục cải cách mạnh mẽ nền hành chính quốc gia để đến năm 2030 hoàn thành cơ bản việc xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ Nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch.
2) Bảo đảm Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, cơ quan chấp hành của Quốc hội. Điều này có nghĩa rằng, tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng bảo đảm và khẳng định Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, cơ quan chấp hành của Quốc hội theo quy định của Hiến pháp năm 2013.
3) Phân cấp, phân quyền hợp lý giữa Trung ương và địa phương. Điều này có nghĩa rằng, tiếp tục đẩy mạnh phân cấp, phân quyền giữa Trung ương và địa phương.
4) Cơ bản hoàn thiện tổ chức bộ máy chính quyền địa phương. Điều này có nghĩa rằng, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tổ chức bộ máy chính quyền địa phương để đến năm 2030 cơ bản hoàn thiện tổ chức bộ máy chính quyền địa phương.   
Mục tiêu thứ tư: Hoàn thành cơ bản việc xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân[25].
Mục tiêu cụ thể này nói về mục tiêu hướng đến của việc xây dựng nền tư pháp với tư cách là thành tố quan trọng tiếp theo trong cơ cấu tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đó là: đến năm 2030 hoàn thành cơ bản theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân để bảo vệ hiệu quả công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân. 
Mục tiêu thứ năm: Tổ chức bộ máy nhà nước cơ bản tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, chuyên nghiệp, liêm chính, chí công, vô tư [26].
Mục tiêu cụ thể này bao gồm hai mục tiêu thành tố gắn kết chặt chẽ với nhau, nói về tổ chức bộ máy nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đó là:
1) Đến năm 2030 tổ chức bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương phải được xây dựng và hoàn thiện cơ bản tinh gọn và hoạt động phải hiệu lực, hiệu quả.
2) Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, chuyên nghiệp, liêm chính, chí công, vô tư. Điều này có nghĩa rằng, xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đáp ứng đầy đủ các yêu cầu cao về phẩm chất, năng lực, chuyên nghiệp, liêm chính, chí công, vô tư.
Các mục tiêu cụ thể trong Nghị quyết số 27-NQ/TW được xác định để hướng đến việc đạt được yêu cầu hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn đến năm 2030, phù hợp với Cương lĩnh và Hiến pháp năm 2013, bảo đảm thống nhất với mục tiêu đến năm 2030 "đưa nước ta trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao" mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định. Các mục tiêu cụ thể đến năm 2030 được nêu trong Nghị quyết là sự thể hiện quyết tâm chính trị rất cao của Đảng, Nhà nước ta trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững, hợp tác và hội nhập quốc tế.
2.3. Trọng tâm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới
  Việc xác định trọng tâm trong trong nhiệm vụ và giải pháp của việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới có giá trị nhận thức, lý luận và thực tiễn rất quan trọng, thể hiện quyết tâm của Đảng ta đối với những vấn đề được coi là đột phá chiến lược, đối với việc huy động và tập trung các nguồn lực để thực hiện chiến lược. Các trọng tâm chiến lược luôn luôn bám sát mục tiêu, đẩy nhanh quá trình đạt được mục tiêu, hướng đến các mục tiêu cần được ưu tiên. Các trọng tâm của việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045 phải được xây dựng xuất phát từ, cụ thể hoá các đột phá của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 – 2030, với tầm nhìn đến năm 2045; các nội dung trọng tâm, cốt lõi của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nghị quyết đề ra ba trọng tâm mang tính chiến lược cần tập trung thực hiện để tạo dựng ba trụ cột trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cụ thể như sau:
Trọng tâm thứ nhất: Hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất quán; bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực pháp luật [27]. Trọng tâm này có ba nội dung quan trọng, nói về Hiến pháp, pháp luật, hệ thống pháp luật, nguồn nhân lực pháp luật với tư cách là những yếu tố quan trọng của  Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cụ thể đó là:
1) Hoàn thiện hệ thống pháp luật, đây là nội dung gắn liền với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Nhà nước, nhưng trước hết của Quốc hội và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất quán, đây là nội dung trước hết gắn liền với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Chính phủ.
2) Bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp và pháp luật ghi nhận, hiện thực hoá, kết quả hoá các giá trị, lợi ích cao cả của xã hội. Hiến pháp và pháp luật là đại lượng của tự do, công bằng, bình đẳng, là chuẩn mực chung, phúc lợi chung, bảo đảm an ninh cho mọi người, là cái thiết lập nên trật tự xã hội, trật tự pháp luật. Hiến pháp và pháp luật là một loại giá trị xã hội, giá trị pháp quyền. Bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật là bảo đảm thượng tôn các giá trị, lợi ích cao cả của xã hội, đề cao giá trị, ý nghĩa, vai trò, chức năng của Hiến pháp và pháp luật trong đời sống nhà nước và xã hội, làm cho việc tuân thủ nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật của mọi chủ thể trong xã hội trở thành ý thức, hành vi thói quen và lối sống trong toàn bộ xã hội.
3) Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực pháp luật. Nguồn nhân lực pháp luật là yếu tố đóng vai trò trung tâm, đột phá trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Chất lượng hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, Toà án, các cơ quan nhà nước, hoạt động nghiên cứu và đào tạo luật và toàn bộ hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đều phụ thuộc vào chất lượng nguồn nhân lực pháp luật. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực pháp luật tức là nâng cao chất lượng tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.         
Trọng tâm thứ hai: Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường phân cấp, phân quyền, làm rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức, cá nhân trong bộ máy nhà nước đi đôi với nâng cao năng lực thực thi; xây dựng tổ chức bộ máy nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả [28]. Trọng tâm này có ba nội dung quan trọng, nói về kiểm soát quyền lực nhà nước, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, về quyền hành pháp, về tổ chức bộ máy nhà nước trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cụ thể đó là:
1) Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Kiểm soát quyền lực nhà nước, phòng, chống tham nhũng là yêu cầu, những nội dung rất quan trọng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới đòi hỏi phải hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước để việc tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước đi đúng quỷ đạo là quyền lực từ Nhân dân mà ra, trở lại phục vụ Nhân dân, phụng sự Tổ quốc, đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực để làm cho bộ máy nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, được Nhân dân tin tưởng, để cán bộ, công chức, viên chức không thể, không giám, không cần, không muốn tham nhũng, tiêu cực.
2) Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường phân cấp, phân quyền, làm rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức, cá nhân trong bộ máy nhà nước đi đôi với nâng cao năng lực thực thi. Nền hành chính quốc gia, phân cấp, phân quyền, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, năng lực thực thi của các tổ chức, cá nhân trong bộ máy nhà nước là những yếu tố rất quan trọng cấu thành nên bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới đòi hỏi phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường phân cấp, phân quyền, làm rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức, cá nhân trong bộ máy nhà nước đi đôi với nâng cao năng lực thực thi pháp luật và các quyết sách đã được thông qua.
3) Xây dựng tổ chức bộ máy nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Bộ máy nhà nước và tổ chức bộ máy nhà nước là yếu tố rường cột của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bộ máy nhà nước được tổ chức tốt sẽ thực hiện tốt sứ mệnh, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, phúc đáp các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bộ máy nhà nước phải được tổ chức tinh gọn. Tổ chức bộ máy nhà nước gắn liền và là tiền đề quan trọng của sự vận hành của bộ máy nhà nước, tổ chức bộ máy nhà nước tinh gọn sẽ tạo điều kiện cho hoạt động của bộ máy nhà nước có kết quả tốt. Kết quả hoạt động của bộ máy nhà nước là một trong những chỉ số quan trọng về kết quả vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đòi hỏi bộ máy nhà nước phải hoạt động hiệu lực, hiệu quả để hiện thực hoá, kết quả hoá các giá trị, nguyên tắc, đặc trưng với tư cách là các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.          
Trọng tâm thứ ba: Đẩy mạnh cải cách tư pháp, bảo đảm tính độc lập của toà án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật [29]. Trọng tâm này có hai nội dung quan trọng, nói về đẩy mạnh cải cách tư pháp, bảo đảm tính độc lập của toà án và của thẩm quán, hội thẩm, cụ thể đó là:
1) Đẩy mạnh cải cách tư pháp. Tư pháp là đặc trưng đồng thời là bộ phận cấu thành đóng vai trò quan trọng và thực hiện nhiệm vụ bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân, chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới đòi hỏi phải đẩy mạnh cải cách tư pháp để Toà án thực hiện tốt hơn vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình. Đẩy mạnh cải cách tư pháp để xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân.
2) Bảo đảm tính độc lập của toà án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Tính độc lập của toà án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là những đặc trưng cốt lõi của quyền tư pháp, yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quá trình cải cách tư pháp trong mọi hoàn cảnh và điều kiện phải bảo đảm tính độc lập của toà án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật để Toà án nhân dân thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam, thực hiện quyền tư pháp.   
Ba trọng tâm trên đây được đề ra nhằm tập trung quyết tâm chính trị, mọi khả năng, nguồn lực và điều kiện để thực hiện có chất lượng, hiệu quả các nội dung mang tính đột phá của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mặt khác, là để đạt được mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể nói trên của việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
  Song song với việc thực hiện các mục tiêu nêu trên, các thiết chế trong hệ thống chính trị của nước ta cũng sẽ tiếp tục xây dựng và hoàn thiện theo lộ trình và phù hợp với Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nước ta, có thể khái quát như sau:
 (1) Đối với Quốc hội: thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thực sự xứng đáng với sự tin cậy, giao phó của nhân dân. Tiến tới Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thực sự là Quốc hội của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.
 (2) Đối với Chính phủ: Xây dựng, từng bước hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của Chính phủ thực sự là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội; hoạt động theo các nguyên tắc dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, vì nhân dân phục vụ. Tiến tới hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của Chính phủ với tư cách là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội; thực hành vai trò kiến tạo phát triển, vận hành nền quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả vì sự phồn vinh, thịnh vượng của đất nước, vì hạnh phúc của nhân dân.
 (3) Đối với Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân: Xây dựng Toà án nhân dân thực sự là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp; xây dựng Viện kiểm sát nhân dân thực sự là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, nâng cao chất lượng xét xử, bảo vệ pháp luật. Tiến tới Toà án nhân dân thực hiện tốt quyền tư pháp; Viện kiểm sát nhân dân thực hành tốt quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, bảo đảm, bảo vệ công lý, khẳng định tính tôn nghiêm của Hiến pháp và pháp luật.
 (4) Đối với chính quyền địa phương: từng bước hoàn thiện tổ chức chính quyền địa phương các cấp trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, lấy nguồn lực con người, giá trị văn hóa, tài nguyên tại chỗ làm nền tảng phát triển bền vững trên cơ sở bảo đảm tính thống nhất, thông suốt của nền hành chính quốc gia vàphù hợp với đặc điểm địa lý - tự nhiên của địa phương. Tiến tới hoàn thiện, vận hành ổn định mô hình tổ chức chính quyền địa phương các cấp phù hợp với nền quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu lực, hiệu quả; tiếp tục lấy nguồn lực con người, giá trị văn hóa, tài nguyên tại chỗ làm nền tảng phát triển kinh tế - xã hội bền vững, phù hợp với đặc điểm địa lý - tự nhiên của địa phương; đóng góp quan trọng cho sự phát triển phồn vinh, thịnh vượng của đất nước, vì hạnh phúc của nhân dân.
(5) Đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội: đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên (Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam) để Mặt trận thực sự là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; các tổ chức chính trị - xã hội thực sự đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình. Tiến tới hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động, củng cố vững chắc vị thế, vai trò của Mặt trận và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, của thành viên, hội viên; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội.
(6) Xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức: Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, có trình độ chuyên môn giỏi, công tâm, thạo việc, có tính chuyên nghiệp cao, có năng lực sáng tạo, đổi mới trong thực thi công vụ, nhiệm vụ dựa trên cơ chế cạnh tranh công bằng, công khai về tuyển dụng, chế độ, chính sách đãi ngộ và đề bạt, bổ nhiệm. Tiến tới hoàn thành cơ bản việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, xứng tầm trọng trách, nhiệm vụ được giao; sẵn sàng cống hiến vì sự phát triển phồn vinh, thịnh vượng của đất nước, vì hạnh phúc của nhân dân.
 3. Nhiệm vụ và giải pháp tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới
 Các nhiệm vụ được xây dựng trên tinh thần Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đề ra, nhu cầu, tầm nhìn, các đặc trưng, nội dung cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cụ thể hoá các quan điểm, mục tiêu tổng quát và cụ thể đến năm 2030, trọng tâm của việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. Các nhiệm vụ đó được thiết kế dựa vào và để hiện thực hoá, kết quả hoá các giá trị cốt lõi, các đặc trưng với tư cách là các yêu cầu, các bộ phận cấu thành và các yếu tố cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo đó, các nhiệm vụ đi từ chung nhất đến cụ thể, từ nhận thức đến hành động, sắp xếp các thiết chế trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước từ các cơ quan nhà nước đến các tổ chức đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, từ lĩnh vực đối nội đến lĩnh vực đối ngoại của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.  
 Các giải pháp cụ thể hoá và để thực hiện các quan điểm, mục tiêu, đột phá, nhiệm vụ tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Các nhóm giải pháp bám sát, gắn liền với các nhóm nhiệm vụ để thực hiện hiệu quả, chất lượng các nhóm nhiệm vụ tương ứng. Trong các nhiệm vụ cụ thể, Nghị quyết số 27-NQ/TW cũng đã nêu rõ các nhóm giải pháp, trong đó có những giải pháp mang tính trọng tâm, đột phá, có những giải pháp cấp bách và các giải pháp thường xuyên. Theo đó có 10 nhóm nhiệm vụ và giải pháp sau đây:
 1. Nhóm nhiệm vụ và giải pháp thứ nhất: Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, nâng cao nhận thức về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là nhiệm vụ và giải pháp đổi mới tư duy, nâng cao nhận thức về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam gắn liền với đổi mới tư duy, nâng cao nhận thức về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.  
2. Nhóm nhiệm vụ và giải pháp thứ hai: Bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Nội dung này thể hiện bản chất Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ theo Hiến pháp và pháp luật.
3.Nhóm nhiệm vụ và giải pháp thứ ba: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, hiệu quả, bảo đảm yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững. Nội dung này thể hiện đặc trưng: hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán và thực hiện nội dung trọng tâm: Hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất quán.
4. Nhóm nhiệm vụ và giải pháp thứ tư là: Tiếp tục đổi mới tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội. Nội dung này thể hiện đặc trưng: Hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán và thực hiện nội dung trọng tâm: Hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất quán.
5. Nhóm nhiệm vụ và giải pháp thứ năm là: Tiếp tục thực hiện tốt thiết chế Chủ tịch nước theo Hiến pháp, nhằm thực hiện tốt quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp
6. Nhóm nhiệm vụ và giải pháp thứ sáu là: Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ, chính quyền địa phương; xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ Nhân dân, chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả. Nội dung này thể hiện đặc trưng: Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
7. Nhóm nhiệm vụ và giải pháp thứ bảy là: Xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Nội dung này thể hiện đặc trưng: Độc lập của toà án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
8. Nhóm nhiệm vụ và giải pháp thứ tám là: Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Nội dung này thể hiện đặc trưng: Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
9. Nhóm nhiệm vụ và giải pháp thứ chín là: Tăng cường, chủ động hội nhập quốc tế đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Nội dung này thể hiện đặc trưng: tôn trọng và bảo đảm thực hiện các điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế. 
10. Nhóm nhiệm vụ và giải pháp thứ mười là: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Nhân dân trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nội dung này thể hiện đặc trưng: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. 
 
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.106.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.207.                                                                
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.207.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I. tr.207.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I. tr.207.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I. tr.208-209.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I. tr.209.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.86.
[9] Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09 tháng 11 năm 2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn hiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
[10] Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09 tháng 11 năm 2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn hiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
[11] Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09 tháng 11 năm 2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn hiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
[12] (1) Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, do điểm xuất phát thấp, (2) Nguy cơ sai lầm đường lối, đi chệch định hướng XHCN, (3) Nguy cơ tham nhũng và tệ quan liêu, lãng  phí, (4) Nguy cơ “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động.
[13] Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09 tháng 11 năm 2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn hiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, Mục II.
[14] Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09 tháng 11 năm 2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn hiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
[15] Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09 tháng 11 năm 2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn hiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
[16] Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09 tháng 11 năm 2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn hiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
[17] Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09 tháng 11 năm 2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn hiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
[18] Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09 tháng 11 năm 2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn hiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, Mục III,1.1.
[19] Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013,Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2013.
[20] Báo cáo tổng hợp Đề án “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045”, tr.19.
[21] Báo cáo tổng hợp Đề án “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045”, tr.5.
[22] Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09 tháng 11 năm 2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn hiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, Mục III,1.2.
[23] Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09 tháng 11 năm 2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn hiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới Mục III,1.2.
[24] Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09 tháng 11 năm 2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn hiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, Mục III,1.2.
 
[25] Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09 tháng 11 năm 2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn hiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, Mục III,1.2.
[26] Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09 tháng 11 năm 2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn hiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, Mục III,1.2.
 
[27] Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09 tháng 11 năm 2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn hiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, Mục III,2.
 
[28] Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09 tháng 11 năm 2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn hiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, Mục III,2.
 
[29] Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09 tháng 11 năm 2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn hiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, Mục III,2.