CÔNG TÁC CHUYỂN ĐỔI SỐ CỦA NGÀNH TƯ PHÁP VÀ CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA LUẬT SƯ
Sign In

CÔNG TÁC CHUYỂN ĐỔI SỐ CỦA NGÀNH TƯ PHÁP VÀ CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA LUẬT SƯ

Thực hiện Chỉ thị số 58-CT/TW ngày 17/10/2000 của Bộ Chính trị về việc đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ngày 22/4/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 505/QĐ-TTg về Ngày Chuyển đổi số quốc gia, lấy ngày 10 tháng 10 hằng năm là Ngày Chuyển đổi số Quốc gia.

Ngày chuyển đổi số cũng là ngày truyền thống luật sư Việt Nam, đây là sự trùng hợp thú vị có ý nghĩa đối với đội ngũ luật sư Việt Nam
Hiện nay, công tác chuyển đổi số là một trong những nội dung công việc trọng tâm của Liên Đoàn Luật sư Việt Nam và các Đoàn Luật sư địa phương. Nhu cầu chuyển đổi số trong tất cả các lĩnh vực nói chung và ngành Tư pháp nói riêng hiện, dưới góc nhìn của giới luật sư là nhu cầu tất yếu theo sự phát triển chung của Toàn cầu.
Ở Việt Nam hiện nay, thực trạng Chuyển đổi số đã có sự thay đổi và phát triển rõ ràng. Năm 2023 sẽ là năm thúc đẩy mạnh mẽ Chuyển đổi số ở mọi ngành trên phạm vi toàn quốc, toàn dân, toàn diện; là năm đầu tiên thực hiện các chiến lược mới với hạ tầng số, dữ liệu, bưu chính, an toàn thông tin mạng, công nghiệp công nghệ số, doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam, Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số, chuyển đổi số báo chí. Tuy nhiên, để chuẩn bị sẵn sàng cho Chuyển đổi số tại Việt Nam, yếu tố quan trọng và khó khăn nhất chính là thay đổi nhận thức và thói quen để chuyển đổi.
Tính đến nay, Chuyển đổi số đã diễn ra trên hầu hết các loại hình tổ chức và ở nhiều mức độ khác nhau.
Chính phủ và chính quyền địa phương cũng đã và đang nỗ lực trong việc xây dựng Chính phủ điện tử, hướng tới tương lai là Chính phủ số, điển hình như Quyết định 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ Chuyển đổi số Quốc gia giai đoạn 2022 – 2025, tầm nhìn đến năm 2030. Một trong những nội dung quan trọng của Đề án là tới giai đoạn 2023 – 2025, 100% người dân và doanh nghiệp sử dụng dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 được định danh và xác thực điện tử thông suốt, hợp nhất trên tất cả các hệ thống thông tin của các cấp Chính quyền từ Trung ương đến địa phương.
Như vậy, Chuyển đổi số với ba trụ cột chính là Chính phủ số, Kinh tế số, Xã hội số có tác động đến mọi cơ quan, đơn vị và địa phương. Do đó, phải lấy người dân, doanh nghiệp (tổ chức) là trung tâm, là chủ thể và là mục tiêu, là động lực của Chuyển đổi số. Người dân, doanh nghiệp cũng phải tham gia quá trình Chuyển đổi số; cần có tư duy đột phá với tầm nhìn chiến lược, có giải pháp và cách làm phù hợp, nhưng phải bám sát thực tiễn để xây dựng chương trình, kế hoạch có trọng tâm, trọng điểm.
1. Các hệ thống nền tảng
Trong các nền tảng kết nối, chia sẻ dùng chung của Ngành Tư pháp thông qua các cổng thông tin điện tử, có rất nhiều Cổng dịch vụ công và cơ sở dữ liệu được phục vụ nhân dân và giới luật sư, cụ thể:
1.1 Về các nội dung liên quan đến công tác Thống kê ngành Tư Pháp
Trong những năm gần đây, vai trò của đội ngũ luật sư trong việc góp phần cải cách tư pháp luôn được chú trọng, các cơ quan tiến hành tố tụng luôn tạo điều kiện tốt nhất để luật sư được hành nghề một cách hợp pháp. Tuy nhiên, hệ thống công nghệ thông tin của các cấp Tòa án còn chưa đồng bộ nên việc đóng góp ý kiến của luật sư vẫn còn nhiều hạn chế, những nội dung này, nếu được thống kê tổng hợp đầy đủ sẽ là cơ sở dữ liệu vô cùng quý giá để đánh giá và rút kinh nghiệm kể cả từ phía luật sư và các cơ quan Tư pháp.
Việc báo cáo của các tổ chức hành nghề luật sư hàng năm vẫn còn nhiều hạn chế và thực hiện thủ công nhiều như chỉ gửi email, gửi văn bản thông báo chung, chất lượng báo cáo thiếu nội dung và đôi khi không chính xác. Nhưng nếu có công tác thống kê tốt thì sẽ tăng cường được công tác, nhắc việc, đôn đốc thời hạn nộp báo cáo và quản lý cụ thể tới từng tổ chức hành nghề, lịch sử báo cáo, thời gian báo cáo và chất lượng báo cáo, thậm chí luật sư khi đăng ký bào chữa cho khách hàng mà tổ chức hành nghề đang quản lý luật sư không thực hiện đúng các nghĩa vụ như trên, luật sư có thể sẽ không được các cơ quan tiến hành tố tụng chấp thuận cho tham gia vào việc bào chữa cho khách hàng.
Ngoài ra, căn cứ việc thống kê các hoạt động Tư pháp, đặc biệt là các hoạt động từ thực tế của các cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó có cả các báo cáo, tổng hợp báo cáo định kỳ của giới luật sư cũng chính là các tài liệu sinh động trực quan, từ CSDL này các đơn vị khi được phép tham khảo sẽ có nhiều nội dung thuận lợi trong việc góp ý, đề xuất xây dựng, hiệu chỉnh hay sửa đổi các văn bản quy phạm Pháp luật, thậm chí là Bộ luật hay luật cho phù hợp với thực tiễn.
1.2 Về các hệ thống liên quan đến thông tin lý lịch Tư Pháp
Hiện nay, việc sử dụng các hệ thống cơ sở dữ liệu về hệ thống thông tin lý lịch tư pháp vẫn còn nhiều bất cập, chưa được tập trung, thống nhất. Luật sư, khi xin cấp chứng chỉ hành nghề, luật sư phải có phiếu xác nhận lý lịch Tư Pháp, Nếu các cơ sở dữ liệu của các cơ quan tư pháp, như Cục cảnh sát Quản lý hành chính về trật tự xã hội, Trung tâm Lý lịch Tư Pháp Quốc Gia hay Sở Tư pháp các địa phương được chia sẻ dùng chung thì sẽ rất thuận lợi cho quá trình xác minh để Bộ Tư Pháp cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư kịp thời chính xác. Giảm được rất nhiều thủ tục và thời gian của luật sư và các cơ quan liên quan.
Do đó, khi xây dựng được hệ thống thông tin lý lịch tư pháp đầy đủ, CSDL sẽ tập trung thống nhất và hạn chế khắc phục được mâu thuẫn trên.
Trong Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ việc chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030, giới luật sư cũng được thụ hưởng rất nhiều. Đây là CSDL nếu giới luật sư được tiếp cận và khai thác sẽ giảm thiểu rất nhiều việc xác minh địa chỉ của các đương sự hay người có nghĩa vụ và quyền lợi liên quan trong các vụ án. Thay vì việc phải gửi công văn đề nghị xác minh thì có thể chỉ cần một thao tác “click” chuột, luật sư có thể tra cứu được đầy đủ các thông tin liên quan góp phần rút ngắn thời gian làm việc khi tham gia các vụ án, bảo đảm việc thu thập các chứng cứ, tài liệu khách quan và minh bạch. Kể cả trường hợp vì lý do bảo mật mà luật sư không được tiếp cận trực tiếp thì khi có đề nghị xác minh các cơ quan Tư pháp cũng dễ dàng tra cứu và có kết quả ngay.
1.3 Về phần mềm hỗ trợ pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật
Xuất phát từ thực tế hiện nay, các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành rất lớn và luôn có xu hướng ngày càng gia tăng, việc mâu thuẫn, chồng chéo còn hiệu lực hay hết hiệu lực, luôn luôn là một vấn đề lớn trong việc tra cứu, áp dụng.
Thông qua cổng thông tin điện tử pháp điển người dân, doanh nghiệp và giới luật sư khi có nhu cầu có rất nhiều lợi ích như:
- Tiện lợi trong việc tìm kiếm, tra cứu, thỏa mãn nhu cầu sử dụng và tìm hiểu các quy định của pháp luật.
- Bảo đảm tính công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật và góp phần nâng cao sự tin tưởng của người dân vào hệ thống pháp luật.
- Pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật tạo thuận lợi trong quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật
Dưới góc độ thực tiễn trong quá trình hành nghề, luật sư hoàn toàn có thể cùng tham gia góp phần xây dựng Bộ pháp điển theo đề nghị của các cơ quan quản lý nhà nước để hoàn thiện nhanh hơn nữa các đề mục theo Quyết định số 1267/QĐ-TTg ngày 29/7/2014 và Quyết định số 891/QĐ-TTg ngày 17/7/2019 của Thủ tướng Chính Phủ
1.4 Về các nền tảng khác
Các hệ thống kết nối chia sẻ dữ liệu, phần mềm quản lý thụ lý tổ chức thi hành án và các báo cáo thống kê thi hành án dân sự, ngoại trừ các nội dung cần bảo mật, các thông tin được đưa lên các cổng thông tin điện tử, cũng sẽ là các căn cứ cơ sở giúp ích rất nhiều cho luật sư trong quá trình hành nghề, kịp thời thu thập các thông tin nhanh chóng, chính xác để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp một cách tốt nhất cho các khách hàng.
2. Phát triển dữ liệu
Việc tìm hiểu, tra cứu khai thác hệ thống các văn bản Pháp luật là nhu cầu diễn ra hàng ngày của người dân và doanh nghiệp, vì vậy, cơ sở dữ liệu Quốc gia về Pháp luật, trong thời gian tới, chắc chắn vẫn phải là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của ngành Tư Pháp.
Về cơ sở dữ liệu người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành, hiện tại mới đang triển khai thí điểm tại Tổng cục thi hành án dân sự và một số địa phương, số tài khoản người dùng vẫn còn hạn chế, nếu phổ biến rộng ra khắp các tỉnh thành trên cả nước thì các phán quyết của Tòa án mới có hiệu quả cụ thể là trong công tác thi hành án dân sự.
Về cổng thông tin điện tử Quốc gia về đấu giá Tài sản: từ thời điểm tháng 4/2020 sau khi được đưa vào áp dụng đã mang lại các kết quả đáng khích lệ. Tất cả các tỉnh thành đều đã áp dụng. Trong thời gian tới, việc đấu giá tài sản có thể sẽ được tổ chức trực tuyến, liên thông với mạng đấu thầu Quốc gia, để hạn chế thấp nhất các tiêu cực có thể xảy ra.
3. Các ứng dụng, dịch vụ khác
Một trong những nghĩa vụ của Luật sư là tham gia các hoạt động trợ giúp pháp lý, hiện tại theo các hệ thống quản lý của Bộ Tư pháp về vấn đề này chủ yếu tập trung vào số lượng các vụ việc liên quan đến công tác tổ chức các hoạt động trợ giúp pháp lý, mà chưa có sự quan tâm, theo dõi vừa là giám sát, vừa ghi nhận và khích lệ đội ngũ luật sư khi tham dự các hoạt động này.
Các hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư chủ yếu là do các tổ chức cá nhân trực tiếp phối hợp với các tổ chức hành nghề luật sư hay các luật sư để thực hiện. Nếu như việc theo dõi lưu trữ, tiếp cận tốt thì các cơ quan quản lý nhà nước hoàn toàn có thể có cơ chế đặt hàng để luật sư thực hiện công tác này.
Về phần mềm quản lý các tổ chức hành nghề công chứng và công chứng viên đã triển khai, nhưng phần mềm quản lý tổ chức hành nghề luật sư và luật sư, trong thời gian tới cũng cần thiết phải triển khai sớm để tăng cường tốt hơn nữa công tác kết hợp quản lý lý nhà nước với chế độ tự quản.
4. Một số nội dung liên quan đến Chuyển đổi số trong quá trình hành nghề của luật sư
4.1 Đối với hệ thống Tòa Án Nhân dân
Trong rất nhiều hoạt động triển khai Công tác Chuyển đổi số của Ngành Tư pháp, một trong những nội dung rất quan trọng là công tác xét xử trực tuyến, Ngay sau khi Quốc hội thông qua Nghị quyết số 33/2021/QH15 về tổ chức phiên tòa trực tuyến. Tính đến nay, có tổng cộng 622 Tòa án đã tổ chức xét xử trực tuyến; giải quyết 3.614 vụ án, trong đó hình sự 2.988 vụ, dân sự 234 vụ, hành chính 245 vụ, áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án 147 vụ.
(Theo số liệu của báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam)
Tuy nhiên, công tác xét xử trực tuyến vẫn còn nhiều bất cập, cụ thể: các trang thiết bị phục vụ xét xử trực tuyến của các Tòa án, cơ sở giam giữ chưa được đầu tư đồng bộ, phần lớn thiết bị là đi mượn, cho thuê và tận dụng các thiết bị từ phòng họp trực tuyến hiện có, chuyển đổi công năng để tổ chức xét xử. Mặt khác, trong thực tế, còn có khó khăn rất lớn là nhận thức của người làm công tác tòa án về xét xử trực tuyến, chuyển đổi số. Hầu hết cán bộ, công chức ít am hiểu về công nghệ của lĩnh vực mới này. Đây là những rào cản về mặt tư duy nhận thức, làm ảnh hưởng đến quá trình triển khai thực hiện.
4.2 Đối với hệ thống các Viện Kiểm sát Nhân dân
Tính đến thời điểm hiện nay, VKSND tối cao đã xây dựng, phát triển gần 20 phần mềm dùng chung cho toàn ngành và phần lớn đã phát huy hiệu quả trong thực tế sử dụng, góp phần hình thành hệ thống cơ sở dữ liệu điện tử, từng bước số hóa, phục vụ kịp thời cho công tác quản lý, chỉ đạo điều hành và hoạt động nghiệp vụ, nhất là về cập nhật, cung cấp số liệu thống kê, báo cáo, phát hành, luân chuyển văn bản trên hệ thống, như: Phần mềm hệ thống thông tin quản lý và thống kê án hình sự; phần mềm hệ thống thông tin quản lý và thống kê các vụ việc dân sự, hành chính, kinh doanh, thương mại, lao động, phá sản doanh nghiệp; phần mềm thống kê; phần mềm thư điện tử; phần mềm quản lý cán bộ; phần mềm quản lý công tác thi đua khen thưởng; phần mềm kế toán; phần mềm quản lý văn bản và điều hành; phần mềm sổ thụ lý điện tử nghiệp vụ hình sự; phần mềm quản lý đơn khiếu nại, tố cáo…
Hiện tại trong hệ thống của Viện kiểm sát vẫn còn nhiều khó khăn trong công tác Chuyển đổi số, cũng như hệ thống Tòa án cơ sở hạ tầng, trang thiết bị máy móc để đảm bảo việc lưu trữ, truy cập và bảo mật vẫn còn nhiều hạn chế. Việc kết nối trao đổi với hệ thống Tòa án hay việc cho phép đội ngũ Luật sư khi hành nghề được tiếp cận với cơ sở dữ liệu tài liệu còn nhiều hạn chế

5. Một số các tác động của Công tác Chuyển đổi số trong ngành Tư pháp liên quan đến các hoạt động hành nghề của Luật sư

5.1 Đối với các Cơ quan tiến hành Tố tụng
Điều 5 Nguyên tắc hành nghề của Luật sư theo Luật Luật sư thì ngoài việc tuân thủ Hiến pháp, Pháp luật, chịu trách nhiệm về hoạt động nghề Luật sư và tuân thủ Đạo đức ứng xử nghề nghiệp thì có hai nguyên tắc rất quan trọng có liên quan trực tiếp đến Công tác chuyển đổi số của ngành Tư Pháp.
Đó là nguyên tắc “Độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật, khách quan”“Sử dụng các biện pháp hợp pháp để bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng”. Trong vụ việc hay vụ án Luật sư tham gia, khi các cơ quan tiến hành Tố tụng số hóa tài liệu, chứng cứ, để bảo đảm được hai nguyên tắc này, thì Luật sư phải được tiếp cận nghiên cứu hồ sơ, có thể là dưới hình thức trực tiếp hay gián tiếp theo phân cấp, phân quyền của các cơ quan tiến hành Tố tụng. Đồng thời có thể bổ sung thêm các chứng cứ tài liệu có lợi cho khách hàng hoặc phản biện đề xuất loại bỏ các tài liệu chứng cứ nếu không được thu thập theo đúng quy định, như vậy, đây chính là mối quan hệ nhân quả góp phần vào công tác số hóa tài liệu của các Cơ quan tiến hành Tố tụng.
Cụ thể hơn, ví dụ trong quan hệ với Tòa án nhân dân khi chuyển đổi số, Luật sư có thể được tiếp cận sử dụng dữ liệu hệ thống thông tin dùng chung, như cổng thông tin quốc gia về hoạt động Tư pháp trong việc chấp nhận đăng ký bào chữa, đăng ký bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho đương sự tại tòa án, nghiên cứu tài liệu qua hệ thống dữ liệu hồ sơ của tòa án, tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ (Phiên họp kiểm tra) và hòa giải (Phiên hòa giải), các phiên tòa trực tuyến, rõ ràng và việc hoãn hay trì hoãn các phiên Tòa sẽ được hạn chế đi rất nhiều, từ đó việc xét xử của các cơ quan tiến hành Tố tụng sẽ diễn ra được đúng thời gian, thời hạn, minh bạch và văn minh hơn.
5.2 Đối với các Cơ quan theo nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước với chế độ tự quản của Tổ chức xã hội nghề nghiệp
Hoạt động hành nghề luật sư là một hoạt động đặc thù được chủ yếu theo nhu cầu của xã hội, do đó việc quản lý cũng được thực hiện theo hình thức tự quản kết hợp với quản lý nhà nước, vì vậy cần có sự phối kết hợp giữa các Đoàn luật sư và cơ quan quản lý nhà nước, việc chuyển đổi số giữa Liên đoàn luật sư, các Đoàn luật sư địa phương với cơ quan quản lý nhà nước (Bộ Tư Pháp, Sở Tư pháp) là  rất cần thiết tạo điều kiện thuận lợi cũng như phối hợp trong công tác quản lý theo quy định của Luật Luật sư, đặc biệt về việc thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ của luật sư, việc tuân thủ pháp luật, đạo đức nghề nghiệp cũng như tuân thủ chế độ báo cáo, việc cấp, thu hồi Chứng chỉ hành nghề, thẻ luật sư và nắm bắt số lượng luật sư của các đoàn luật sư địa phương.
Đối với các Luật sư vi phạm dẫn đến bị xóa tên khỏi Đoàn Luật sư hay thu hồi chứng chỉ luật sư, nếu có sự liên thông trong việc số hóa, các Cơ quan cũng dễ dàng kiểm tra được để có thể có các khuyến cáo cho các Đoàn luật sư hoặc đề nghị các cơ quan tổ chức biết để phối hợp bảo vệ giữ gìn sự nghiêm minh của Pháp luật.
Ngoài trách nhiệm với Nghề nghiệp đội ngũ Luật sư còn có trách nhiệm xã hội và là nghĩa vụ phải thực hiện đó là tham gia vào các công việc Xây dựng, phổ biến kiến thức Pháp luật hay trợ giúp Pháp lý theo mục c, đ điều 21 của Luật luật sư và Luật trợ giúp pháp lý, Luật phổ biến giáo dục pháp luật. Khi có sự liên thông trong Công tác chuyển đổi số, việc kết hợp quản lý trên sẽ kịp thời và chính xác cụ thể hơn tới từng Luật sư
6. Một số điểm thuận lợi và khó khăn đối với công tác chuyển đổi số của các Cơ quan Tư pháp
6.1. Thuận lợi
Việt Nam là một nước có dân số trẻ: người trong độ tuổi thanh niên chiếm khoảng 22,5% và người dưới 54 tuổi chiếm hơn 60% nên nhanh chóng tiếp nhận các công nghệ hiện đại. Số lượng người người sử dụng internet lớn: 72 triệu người vào năm 2022, chiếm 73.2% tổng dân số, tăng 4.9% so với năm 2021. Hơn nữa, thời gian sử dụng internet 1 ngày trung bình chiếm 6 tiếng 38 phút nên dễ dàng tiếp nhận những thông tin và xu hướng mới.
Việt Nam chúng ta đã sớm nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của Chuyển đổi số trong thời đại công nghệ 4.0. Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới ban hành chương trình hay chiến lược về Chuyển đổi số quốc gia, đưa Việt Nam trở thành quốc gia có nhận thức về chuyển đổi số song hành cùng các quốc gia tiên tiến trên thế giới. Đây là điều kiện thuận lợi để Việt Nam chủ động khai thác triệt để các cơ hội mà cuộc cách mạng công nghệ mang lại và bứt phá vươn lên.
Chuyển đổi số tại Việt Nam cũng đang diễn ra rất mạnh mẽ, đặc biệt trong các ngành như: giao thông, du lịch, tài chính,… nó mang lại những dịch vụ có ích và có thể tận dụng hiệu quả nguồn lực nhàn rỗi của xã hội.
6.2. Thách thức
Thứ nhất, về nhận thức tầm quan trọng của chuyển đổi số
Mặc dù chuyển đổi số hiện nay đã lan rộng đến mọi ngóc ngách trong cuộc sống và nền kinh tế, nhưng vẫn còn không ít cán bộ, công chức chưa nhận thức được đúng đắn và đầy đủ ý nghĩa và tầm quan trọng của hoạt động này. Điều này dẫn đến sự hời hợt, thiếu bài bản khi hoạch định chiến lược và triển khai.
Khi không truyền đạt được tầm quan trọng của việc chuyển đổi số trong toàn ngành thì rất có thể dẫn đến tác dụng ngược trong việc thay đổi. Vấn đề này chỉ chấm dứt khi các cán bộ trong ngành nhận thức được tác động thực sự mà sự thay đổi đó sẽ mang lại trong hoạt động của ngành Tư pháp.
Do đó, để đối mặt với những thách thức chuyển đổi số, Ngành tư pháp cần chú ý đào tạo về nhận thức để các cán bộ, công chức hiểu được và quyết tâm thực hiện.
Thứ hai về năng lực và nhân lực công nghệ số
Hiện nay, việc không thường xuyên tiếp cận và còn thiếu kinh nghiệm về ứng dụng, khai thác các giải pháp sử dụng công nghệ mới thì việc chuyển đổi số đối với ngành Tư pháp còn gặp nhiều khó khăn.
Việc thiếu nguồn nhân lực nội bộ để triển khai chuyển đổi số đang là một vấn đề đáng quan tâm, đòi hỏi phải có lộ trình đào tạo, tuyển dụng phù hợp để đảm bảo thực hiện kịp thời các nhiệm vụ chuyển đổi số đặt ra trong thời gian tới.
Thứ ba, về vấn đề an ninh mạng và bảo mật thông tin
Với tình hình các mối đe dọa về an ninh thông tin ngày càng gia tăng, việc Chuyển đổi số sẽ không thể thành công nếu thiếu một chiến lược bảo mật phù hợp. Việc đảm bảo an toàn, an ninh mạng là then chốt để chuyển đổi số thành công và bền vững, đồng thời là phần xuyên suốt, không thể tách rời của chuyển đổi số.
Đặt ra các thách thức của chuyển đổi số với ngành Tư pháp về việc trang bị các sản phẩm, phần mềm bảo bảo mật chất lượng cao. Vấn đề bảo mật cần được thực hiện liên tục ngay từ các bước đầu của hành trình chuyển đổi số.
Thứ tư, trong thay đổi và điều chỉnh cơ cấu tổ chức
Chuyển đổi số có thể thay đổi hoàn toàn thói quen và cách thức làm việc của Ngành. Điều này dẫn đến sự đổi mới trong vai trò, phòng ban hoặc tái cơ cấu lại tổ chức theo một định hướng số mới.
Thứ năm, về chi phí thức hiện
Việc triển khai các giải pháp kỹ thuật số mới là một quá trình tốn kém, đòi hỏi các khoản đầu tư lớn đi kèm với đó là việc đầu tư nhiều thời gian để thực hiện các thủ tục như: nghiên cứu, đánh giá, tiếp thu ý kiến, phê duyệt, quyết định trong khi chúng ta đang trong giai đoạn phục hồi nền kinh tế sau đại dịch vì vậy các hoạt động chuyển đổi số có thể bị lùi lại do hạn chế về tài chính. 
7. Kiến nghị và đề xuất các giải pháp thực hiện
7.1  Đẩy mạnh công tác phổ biến, tuyên truyền chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đến cán bộ, công chức, viên chức và người lao động về tầm quan trọng của chuyển đổi số với nhiều hình thức khác nhau gắn các mục tiêu, nhiệm vụ về chuyển đổi số với chương trình hành động, kế hoạch, nhiệm vụ của của Bộ Tư pháp về chuyển đổi số;
7.2. Tăng cường tuyên truyền đến toàn bộ công chức, viên chức, người lao động của cơ quan về kiến thức an toàn, an ninh thông tin trên môi trường mạng, thực hiện sao lưu dữ liệu định kỳ, tăng cường các giải pháp, xử lý kịp thời các sự cố tấn công mạng để đảm bảo hoạt động thường xuyên của ngành.
7.3. Rà soát và thay đổi mật khẩu các tài khoản ứng dụng đảm bảo an toàn tài khoản của người sử dụng. Duy trì cài đặt phần mềm diệt virus cho các máy chủ, máy trạm nhằm giảm thiểu tối đa rủi ro do tấn công mạng. Rà soát điều chỉnh, bổ sung nâng cấp các hệ thống mạng công nghệ thông tin của Sở để đảm bảo an toàn thông tin, vận hành an toàn, ổn định, thông suốt.
7.4. Xây dựng thể chế theo hướng thúc đẩy quá trình chuyển đổi số, thực hiện tham gia ý kiến và thẩm định các văn bản quy phạm pháp luật về xây dựng cơ chế, chính sách phục vụ công cuộc chuyển đổi số của ngành Tư pháp
7.5. Đầu tư, nâng cấp, hoàn thiện và duy trì hạ tầng kỹ thuật đảm bảo ứng dụng CNTT của cơ quan, triển khai các giải pháp bảo đảm ATTT mạng, đảm bảo các thiết bị CNTT thực hiện vận hành tốt để phục vụ cho công tác chuyên môn
7.6. Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong hoạt động quản lý, điều hành; từng bước thực hiện chuyển đổi hoạt động của cơ quan lên môi trường số; nâng cao nhận thức của công chức, viên chức trong ngành.
7.7. Đẩy mạnh học tập, chủ động nâng cao nhận thức của công chức, viên chức về các kiến thức về CNTT, ứng dụng CNTT, thực hiện chuyển đổi số trong hoạt động thực thi công vụ.
7.8. Thực hiện đổi mới, ứng dụng các công nghệ mới vì mục tiêu phát triển bền vững, thúc đẩy sáng tạo trong các lĩnh vực công tác của cơ quan.
7.9. Chủ động đầu tư, ứng dụng CNTT để giảm thiểu chi phí và nâng cao hiệu quả trong công tác chỉ đạo điều hành, phù hợp với mục tiêu của ngành Tư pháp, đáp ứng được cơ bản nhu cầu cho việc ứng dụng CNTT trong hoạt động ngành.
7.10. Tiếp tục triển khai thực hiện khai thác sử dụng hiệu quả các phần mềm, ứng dụng hệ thống cơ sở dữ liệu (CSDL) dùng chung của ngành Tư pháp, phục vụ nhiệm vụ công tác chuyên môn: Phần mềm quản lý văn bản điều hành (iDesk); Phần mềm Một cửa điện tử; phần mềm Quản lý lý lịch tư pháp; Phần mềm thống kê ngành Tư pháp; Hệ thống thông tin báo cáo của tỉnh; Phần mềm CSDL công chứng chứng thực (Uchi); Phần mềm Quản lý hộ tịch; Phần mềm báo cáo công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng; Phần mềm về quản lý hoạt động trợ giúp pháp lý,… từng bước kết nối, chia sẽ dữ liệu giữa các cơ quan nhà nước với nhau để cung cấp dịch vụ công kịp thời, phục vụ người dân và doanh nghiệp nhằm thức đẩy phát triển kinh tế - xã hội.