THỰC TRẠNG BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG HÔN NHÂN VÀ BẠO LỰC GIA ĐÌNH (Trường hợp huyện Quảng Ninh và Lệ Thủy tỉnh Quảng Bình)
Sign In

THỰC TRẠNG BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG HÔN NHÂN VÀ BẠO LỰC GIA ĐÌNH (Trường hợp huyện Quảng Ninh và Lệ Thủy tỉnh Quảng Bình)

Theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới, trong 2017 Việt Nam đứng thứ  sáu trong mười quốc gia hàng đầu về bình đẳng giới ở châu Á[i]. Kể từ khi cải cách tư pháp năm 2005, hệ thống pháp luật của Việt nam về bình đằng giới đã được cải thiện và bổ xung mạnh mẽ, ví dụ Luật bình đẳng giới ra đời năm 2006, Luật phòng chống bạo lực gia đình-2007, Luật hôn nhân và gia đình (sửa đổi luật 2000)- 2019. Chính phủ đã triển khai trong gần 20 năm Chương trình mục tiêu quốc gia về BĐG ở hai giai đoạn 2011-2015, 2016-2020, Chương trình hành động quốc gia về phòng, chống bạo lực gia đình từ 2014 đến năm 2020 và Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030.
Với những nỗ lực chính sách, ở Việt Nam, bình đẳng giới có xu hướng giảm và bạo lực gia đình là một hiện tượng phổ biến. Thứ bậc của Việt Nam về khoảng cách giới theo xếp hạng của WEF (Diễn đàn kinh tế thế giới) giảm bậc từ 42 xuống bậc 80 trong 2018. Khảo sát quốc gia về BLGĐ do Tổng cục thống kê (GSO) thực hiện năm 2010 cho thấy, 58% phụ nữ chịu một trong những dạng bạo lực trong đời, còn trong 12 tháng gần nhất thì tỷ lệ này là. 28%. Nghiên cứu 2013 của Văn phòng phòng chống ma tuý và tội phạm (UNOCD) và Chương trình Bình đẳng giới (UNWoman) của Liên Hiệp quốc ghi nhận ’ Ở Việt Nam, các chuẩn mực của chế độ phụ hệ đã tạo ra một xã hội trong đó bạo hành với phụ nữ thường được coi là “bình thường” và phụ nữ được khuyến khích không nên viện tới tư pháp hình sự khi bị bạo hành. Do đó, tỷ lệ báo cáo về bạo lực đối với phụ nữ là khá thấp và các nạn nhân thường dựa vào các cán bộ hòa giải tại địa phương để xử lý vụ việc trước khi đưa ra pháp luật. “ Báo cáo đã đưa ra khuyến nghị “1. Tăng cường các quy định của pháp luật liên quan tới các vụ bạo lực đối với phụ nữ và sửa đổi Luật hình sự. 2. Cải thiện việc thực hiện, theo dõi và đánh giá các luật và chính sách hiện hành liên quan tới bạo lực đối với phụ nữ 3. Tiếp tục nghiên cứu và phân tích nhằm xây dựng các chính sách và chương trình dựa vào bằng chứng và nhạy cảm về giới.”
Trong bối cảnh đó, Quỹ Phát triển Nông thôn và Giảm nghèo (RDPR), trong năm 2021, đã thực hiện nghiên cứu điều tra thông tin cơ bản ban đầu nhằm đánh giá nhanh đầu kỳ được thực hiện nhằm  đo đạc về hiện trạng bình đẳng giới, bạo lực gia đình, bạo lực học đường, hôn nhân và gia đình trước khi dự án Trợ giúp pháp lý ở cộng đồng dân tộc thiểu số ở hai huyện Quảng Ninh và Lệ Thủy tỉnh Quảng Bình.
Mục tiêu chung của hoạt động đánh giá này là nhằm cung cấp thông tin cơ bản ban đầu cho dự án, một cách có phương pháp và khoa học, mô tả rõ ràng và bằng chứng cụ thể về hiện trạng bình đẳng giới và bạo lực trên cơ sở giới đối với nhóm đối tượng tác động của dự án gồm phụ nữ/nam giới dân tộc thiểu số và trẻ em gái.
Để đáp ứng mục tiêu đề ra, trong khuôn khổ toàn bộ quỹ thời gian là 10 ngày, cuộc khảo sát này được tổ chức theo tiếp cận đánh giá nhanh RRA định tính có kết hợp với điều tra dùng bảng hỏi. Cũng như các đề tài cũng tham khảo các báo cáo hoạt động của các tổ chức địa phương liên quan như chính quyền và hội phụ nữ ở huyện và xã vùng dự án.
Phương pháp lấy mẫu định tính là theo chủ ý với các cuộc phỏng vấn cá nhân kiểu phỏng vấn linh hoạt. Mỗi xã chọn 2 trường hợp đại diện (tổng cộng 10 ca) cho các trường hợp xung đột trong hôn nhân gia đình, bạo lực gia đình, bất bình đẳng giới, và tổng cộng 10 cuộc thảo luận nhóm tổ chức ở mỗi xã 2 cuộc thảo luận nhóm (1 cuộc với đại diện người dân cả nam và nữ, và 1 cuộc riêng với nữ). Nhóm nghiên cứu cũng phỏng vấn các tổ chức tư pháp/cán bộ giới phụ trách LD-TB-XH và Hội phụ nữ xã để tìm hiểu về trợ giúp tư pháp hiện tại, cũng như cách giải quyết truyền thống ở địa phương.
Theo phương pháp điều tra bảng hỏi, đề tài thu thập số mẫu lấy từ hai thôn bản tiêu biểu ở mỗi xã, sao cho mỗi xã có một thôn người Kinh và một thôn thuần (trên 90%) người đồng bào Vân Kiều. Số mẫu dự kiến là 200 người trong độ tuổi từ 20-50, có số nam và nữ bằng nhau.  Mỗi xã có có 40 người tham gia từ hai thôn bản. Để bảo đảm độ tin cậy cao, mẫu được chọn có tính đồng nhất khi số mãu ít, với yêu cầu là những người đang có gia đình, không phải là người khuyết tật. Thực tế, số người dân ở các nhóm dân tộc Kinh không nhiều đủ để thu thập thông tin, cũng như số người nam giới được phỏng vấn không phù hợp với dự kiến, như số lượng cũng đủ để có thể tính toán về mặt thống kê.
Trong tháng 7 năm 2019, một nhóm nghiên cứu được tập huấn để thu thập số liệu bảng hỏi và phỏng vấn ở hiện trường ở năm xã dự án. Trong tháng 8/2019, số liệu được tập hợp và phân tích bằng phần mền phân tích số liệu SPSS. Số liệu định tính được tập hợp và phân tích thủ công. Kết quả đánh giá cho thấy thực trạng khá bao quát về tình trạng bình đẳng giới, bạo lực gia đình, bạo lực học đường, hôn nhân và gia đình tại thời điểm tháng 7/2019 huyện Quảng Ninh và Lệ Thủy tỉnh Quảng Bình

Về tiếp cận mạng xã hội của cộng đồng nghiên cứu

Về tiếp cận mạng xã hội, có thể thấy có một khoảng trống số (digital gap) khá lớn ở vùng dự án so với mặt bằng chung quốc gia. Chỉ có 19% số người trong mẫu điều tra có dùng mạng xã hội, - tỷ lệ thấp hơn nhiều so với con số người dùng mạng xã hội chung ở Việt Nam. Trong năm xã dự án, chỉ thấy có sử dụng ở ba xã là Trường Xuân, Kim Thủy và Ngân Thủy- những xã này đều ở miền núi nhưng gần như liền kề với vùng thấp, dễ tiếp cận hơn so với các xã khác. Hai xã không có người dùng mạng xã hội trong mẫu điều tra đều là xã nghèo hơn.
Đáng chú ý là không có người Kinh báo cáo là có dùng mạng xã hội mà toàn bộ người dùng là người DTTS. Độ tuổi dùng dùng mạng xã hội rải từ 17 đến 58. Với nam giới, số người này tập trung ở độ tuổi dưới 30, còn với nữ người dùng nhiều tập trung ở cả nhóm dưới 30 và 40.
Có sự chênh lệch đáng kể giữa tỷ lệ người dùng mạng xã hội giữa các nhóm mức sống. Nhóm hộ trung bình và khá có tỷ lệ người dùng mạng xã hội lên tới 26% so với tỷ lệ 18-19% của nhóm hộ nghèo và cận nghèo. Học vấn thấp cũng là yếu tố ảnh hưởng tới tỷ lệ người dùng mạng xã hội. Trong nhóm học vấn thấp, tỷ lệ người dùng MXH chỉ ở mức dưới 15%, trong khi trong những người hoàn thành PTCS, tỷ lệ này nhiều gấp đôi- 31%. Riêng tỷ lệ dùng mạng xã hội ở nam lại ít hơn nữ là một điều ngược với xu hướng xã hội chung.
Có thể hình dung chức năng đa dạng của Facebook từ đọc, nhắn phát tin hình ảnh, và gọi hình (video call) cả cá nhân và nhóm, làm cho nó phổ biến nhất trong các mạng xã hội. Trong số  người cho biết có dùng mạng xã hội, họ cho biết có 4 mạng được dùng, trong đó hai mạng phổ biến hơn cả là Facebook (khoảng một nửa) và Youtube (khoảng hai phần năm).  Mức độ ưa dùng cả hai mạng này cơ bản là như nhau với cả nam và nữ.  Rất ít người dùng mạng xã hội Zalo và Zing do người Việt làm chủ.
Bảng các mạng xã hội phổ biến ở cộng đồng
Mạng xã hội Nam % Nữ % Tổng %
  1. Facebook
11 52% 6 50% 17 52%
  1. Youtube
8 38% 5 42% 13 39%
  1. Zalo
1 5% 1 8% 2 6%
  1. Zing
1 5% 0 0% 1 3%
 Tổng lượt người dùng 21 100% 12 100% 33 100%
Có ba mục đích sử dụng mạng xã hội bao gồm trao đổi thông tin với gia đình người thân -49% người dùng MXH, giải trí – 16%, và đọc và chia sẻ tin tức-10%; trong khi các mục đích tìm kiếm hay tra cứu thông tin hay bán hàng online không được đề cập. Gần một nửa người dùng mạng xã hội nói về việc dùng để kết nối xã hội với người thân, bạn bè (trao đổi thông tin) và gần con số này là để giải trí. Một phần ba người dùng mạng xã hội để đọc và chia sẻ tin tức. Phần lớn người sử dụng cho biết, thời gian dùng cho mạng xã hội ít hơn hai tiếng một ngày.
Bảng  quan hệ giữa học vấn và giới tính trong nhóm người dùng mạng xã hội
UBND các xã dự án cũng có các trang mạng, nhưng mức độ hoạt động và nội dung rất khác nhau.  Một ví dụ trang mạng hoạt động tốt là của UBND xã Lâm Thủy http://lamthuy.lethuy.gov.vn. được duy trì và hoạt động tốt. Đây có thể là cơ sở để dự án hợp tác lưu trữ và phổ biến các tài liệu tra cứu, hoặc hỗ trợ tư vấn, cũng như truyền thông. Các trang mạng của các UBND khác hiện chưa có thông tin, ví dụ ở http://kimthuy.lethuy.gov.vn/.

Về thực hiện luật bình đẳng giới, hôn nhân và gia đình

Bất bình đẳng giới trong sinh hoạt cộng đồng

Việc thực hiện luật binh đẳng giới (BĐG) được thực tìm hiểu thông qua các câu hỏi cụ thể hóa các tình huống ra quyết định (vi phạm luật bình đẳng giới) liên quan tới việc tham gia đời sống kinh tế gia đình, sinh hoạt cộng đồng-xã hội, dòng tộc và hôn nhân của con cái. Kết quả phân tích số liệu cho thấy tỷ lệ cao đồng tình hoàn toàn cả ở nam và nữ trong cộng đồng DTTS với các biểu hiện bất bình đẳng. Điều này phản ảnh mức độ bất bình đẳng cao hơn trong thái độ của nam, và đặc biệt cao trong lĩnh vực kinh tế và tham gia hoạt động xã hội. Nói chung, bất bình đẳng giới ở người Kinh thấp hơn so với người DTTS.
Về bình đẳng giới ở cộng đồng, các cuộc phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm cũng xác nhận những ghi nhận ở điều tra bảng hỏi. Một lãnh đạo UBND xã Trường Xuân (Quảng Ninh) có nhận xét là, có những gia đình mà người đàn ông đặc biệt ở đồng bào Vân Kiều “nhiều lúc không muốn lắng nghe vợ và hạn chế quyền tham gia hoạt động xã hội của vợ”. Nếu phụ nữ có tham gia hoạt động xã hội, chất lượng tham gia cũng là vấn đề. Thảo luận nhóm ở Bản Km14, xã Ngân Thủy cho rằng nhiều trường hợp, phụ nữ tham gia các cuộc họp thôn nhưng chủ yếu để nghe, không có ý kiến gì về các vấn đề trong cuộc họp.
Có thể nói, trong cộng đồng người DTTS ở vùng dự án, có một tỷ lệ lớn cả nam và nữ cùng đồng thuận với vai trò quyết định của chồng trong vai trò quản lý kinh tế gia đình và đại diện trong cộng đồng, cụ thể là đồng ý với ý kiến “chồng quyết định mọi chi tiêu lớn, ý kiến của vợ chỉ để tham khảo, và “chồng luôn đại diện gia đình, ví dụ khi họp thôn, bầu cử hoặc đi học”. Với người Kinh, tỷ lệ này thấp hơn đáng kể (khoảng 20%) với cả hai tiêu chí.

Về bất bình đẳng giới trong gia đình

Trong gia đình, bất bình đẳng được tìm hiểu qua ý kiến về những quyết định liên quan tới quyền sức khỏe sinh sản ví dụ, trong quyết định về kế hoạch hóa gia đình, quyết định có con, nạo phá thai theo giới tính, phân chia tài sản và ưu tiên cho con trai. Kết quả điều tra cho thấy, tư tưởng chấp nhận bất bình đẳng đặc biệt cao ở nữ, và cả nam trong lĩnh vực sức khỏe sinh sản. Tỷ lệ nữ DTTS đồng ý với nhận định “đặt vòng, triệt sản, uống thuốc ngừa thai đương nhiên là nữ phải làm” lên tới 73%, trong nam DTTS là 62% và trong người Kinh là 59%. Với người Kinh, tỷ lệ đồng ý “người chồng toàn quyền quyết định phương pháp kế hoạch hóa gia đình” lên tới 53%, mà ở nữ DTTS tỷ lệ này cũng sát sao ở mức 47%. Trong đồng bào DTTS, cả nam và nữ có cùng tỷ lệ sát nhau 24-25% đồng ý là “đàn ông, con trai không phải làm việc nhà, đó là việc của đàn bà con gái. Đặc biệt trong đồng bào DTTS, có tới 30% nam cho rằng nữ không được chia phần tài sản chung (là nhà) khi li hôn, mà cũng có 9% nữ đồng ý như vậy. Việc lựa chọn giới tính cho thai nhi ở mức độ “ép phá thai trẻ nữ khi gia đình toàn con gái” được chấp nhận ở 6% [ii]người Kinh cũng là một điều rất đáng lo lắng.
Bất bình đẳng giới trong gia đình được ghi nhận phổ biến trong các cuộc thảo luận nhóm ở thôn bản. Tại bản Hang Chuồn, xã Trường Xuân, người tham gia thảo luận nhận định có tới 70% gia đình là bất bình đẳng. Tư tưởng chung của nam là “việc nhà (như nấu cơm, bắc nước, tắm rữa cho con cái), vì đó là việc của đàn bà, tau không mần”. Bạo lực dạng hạn chế quan hệ với người thân cũng có ở gia đình nhà chồng cấm thăm cha mẹ vợ hoặc chỉ cho đi khi chồng cho phép.
Những biểu hiện bất bình đẳng trong gia đình thể hiện với tần xuất cao trong các cuộc thảo luận nhóm ở các thôn bản. Trong các quyết định gia đình, người nữ có thể tham gia, nhưng không được quyền quyết định cuối cùng. Ở thảo luận nhóm bản Chuôm, Kim Thủy, nhóm cho biết “khi người phụ nữ muốn mua cái gì đó thì phải “hỏi ý kiến chồng”, còn không hỏi là chồng đánh và nghi ngờ “mi mần chi hết tiền”. Có những gia đình mà những quyết định nhỏ như chi tiêu hàng ngày việc chợ búa cũng phải hỏi ý kiến chồng. Trong khi đó, chồng ưng mua cái gì có khi không hỏi ý kiến vợ. Việc mua sắm tài sản lớn như xe máy, tivi thì cũng có bàn bạc của 2 vợ chồng nhưng đa phần người quyết mua loại gì, bao nhiêu tiền là do chồng. Ở xã Ngân Thủy lãnh đạo HPN cũng nhận định “Nhìn chung, nam giới có quyền quyết định mọi vấn đề, trong khi phụ nữ rất hạn chế về kinh tế, chồng làm ra tiền không đưa về cho vợ.”
Về việc phân chia tài sản khi ly hôn phụ nữ các cuộc phỏng vấn nhóm có ghi nhận phụ nũ không được chia phần tài sản chung nên ra đi tay không[iii]. Điều này sẽ càng khó khăn khi một phần quan trọng các gia đình sống không có đăng ký kết hôn.  Tỷ lệ trong đồng bào DTTS là 14% và trong người Kinh là 6%.
Về việc phân chia tài sản khi ly hôn phụ nữ các cuộc phỏng vấn nhóm có ghi nhận phụ nũ không được chia phần tài sản chung nên ra đi tay không[iv]. Điều này sẽ càng khó khăn khi một phần quan trọng các gia đình sống không có đăng ký kết hôn; tỷ lệ này trong đồng bào DTTS là 14% và trong người Kinh là 6%.
Ở bản Hang Chuồn, xã Trường Xuân, tình trạng bất bình đẳng xảy ra được coi là rộng rãi, chiếm đến 70% gia đình theo ý kiến nhóm người dân thảo luận. “Việc nhà nấu cơm, bắc nước, tắm rữa cho con cái đó là việc của đàn bà, tau không mần”. Thậm chí, có gia đình chồng cấm thăm cha mẹ vợ hoặc khi chồng cho đi thăm mới được đi chứ không được tự tiện khi chồng chưa cho phép. Khi ly hôn, nhiều phụ nữ không được chia phần tài sản chung, nhiều người ra đi tay không.

Về thực hiện luật phòng chống bạo lực gia đình

Tình trạng bạo lực gia đình

Nghiên cứu cho thấy có bạo lực gia đình (BLGD) nghiêm trọng khá phổ biến trong các cộng đồng được nghiên cứu và có nhiều yếu tố, như giới, dạng hình hôn nhân và mức sống,  ảnh hưởng tới tần xuất các vụ bạo lực gia đình nghiêm trọng. Trong 195 mẫu điều tra, có tất cả 41 vụ báo cáo về BLGD nghiêm trọng, trong đó cả nữ và nam đều có trải nghiệm bạo lực gia đình nghiêm trọng nhưng điều này xảy ra với phụ nữ nhiều hơn 4 lần so với nam. Với câu hỏi về trải nghiệm bạo lực gia đình nghiêm trọng, tính chung cho cả bộ mẫu, tỷ lệ này là 21%, trong đó với riêng phụ nữ tỷ lệ này là 28% và với nam- 7%. Có sự khác biệt rõ nét về bạo lực gia đình giữa các loại hình hôn nhân: các gia đình có đăng ký kết hôn đã từng có trải nghiệm ít bạo lực nghiêm trọng nhất (19%), với các gia đình đã ly hôn, ly thân, góa tỷ lệ cao hơn là 25% và cao nhất (31%) ở các gia đình có hôn nhân chưa đăng ký.
Biểu đồ  trải nghiệm về bạo lực gia đình nghiêm trọng ở cộng đồng

Nghiên cứu xác nhận có một số yếu tố ít có quan hệ tới bạo lực gia đình nghiêm trọng là địa lý, nhóm dân tộc, học vấn. Kết quả khảo sát cho thấy không có khác biệt nhiều giữa các nhóm dân tộc (Kinh- 24 và DTTS- 21%), hay giữa hai huyện (Quảng Ninh- 24, Lệ Thủy- 19%). Giữa các nhóm học vấn, tỷ lệ người trải nghiệm BLGD nghiêm trọng cũng không dao động với biên độ lớn (21-26%). Giữa các nhóm mức sống, tỷ lệ này cũng không dao động với biên độ không lớn giữa hộ nghèo và hộ trung bình trở lên (26-24%).
Về các hành vi khi có BLGD nghiêm trọng, nam giới không có ý kiến, trong khi đó 37 phụ nữ có phản ánh về các hành vi khi có bạo lực. Có 59% nói là đã đi tìm chỗ tạm lánh[v], 3% phải đi bệnh viện, 16% đã hòa giải ở các tổ hòa giải ở cộng đồng và 11% (4 trường hợp đều là nữ) đã li hôn.

Nhận diện BLGD tinh thần

Nhận thức của các thành viên cộng đồng về bạo lực giới trong gia đình được khảo sát qua các trắc nghiệm đúng sai với các tình huống mô tả dạng bạo lực gia đình cơ bản với nội dung phù hợp với các điều luật trong Luật Phòng chống Bạo lực gia đình. Kết quả phân tích số liệu cho thấy với bạo lực tinh thần và bạo lực tình dục, tỷ lệ các câu trả lời phản ánh nhận thức đúng với người DTTS, đều hơn 50%, giao động trong khoảng 53-68%. Với nhóm người Kinh, tỷ lệ nhận thức đúng thấp hơn, giao động trong khoảng 35-58%. Đặc biệt nhận diện đúng thấp với tình huống bạo lực xã hội, khi người chồng cấm đoán, ngăn cản vợ đi thăm người thân là cha mẹ, anh chị em ruột (35%). Bạo lực tình dục ở dạng ép buộc quan hệ tình dục cũng chỉ có 41% nhận diện đúng.

Nhận diện BLGD về kinh tế

Với ba tình huống bạo lực về kinh tế, kết quả phân tích cho thấy trong cả nam và nữ nhóm dân tộc thiểu số, tỷ lệ nhận diện đúng khá gần nhau và dao động trong phạm vi 59-64%. Trong nhóm người Kinh, tỷ lệ nhận diện đúng thấp hơn, trong khoảng 41-47%.
 Tình huống bạo lực kinh tế ở gia đình Kinh: Nam và nữ Nam: DT Nữ: DT
Ép buộc phải nộp toàn bộ các khoản thu của vợ hoặc của chồng. 47% 62% 59%
Đập phá tài sản chung của gia đình, ví dụ đập TV, tủ lạnh 41% 64% 62%
Ép lấy tài sản riêng của vợ (quà của cha mẹ khi cưới) để trả nợ. 41% 62% 61%
 

Mức độ phổ biến của BLGD

Trong bối cảnh người dân còn có hiểu biết có hạn với khái niệm bạo lực gia đình, với câu hỏi, anh chị trong ba tháng vừa rồi bị tổn thương thể chất ở mức độ nào, cuộc điều trong 195 người  đã cho biết 65 trường hợp (33%) có tổn thương ở các mức độ khác nhau. Những trường hợp nghiêm trọng gồm ba ca đều xảy ra với phụ nữ DTTS, trong đó có 2 ca phải đi khám trạm xá hay bệnh viện và 1 ca phải nhờ người khác chăm sóc.
Mức độ tổn thương thể chất Nam:Kinh Nữ: Kinh Tổng Nam: DT Nữ: DT Tổng
Tự chăm 2 3 5 27 36 63
Nhờ người khác chăm sóc 0 0 0 0 1 1
Đi khám trạm xá/bệnh viện 0 0 0 0 2 2
 
Các cuộc tham vấn với cộng đồng qua các thảo luận nhóm xác nhận mức độ nghiêm trọng của BLGD không chỉ ở tổn hại sức khỏe thể chất, tinh thần, ly hôn và có trường hợp dưới những tác động khác, dẫn tới nạn nhân tử vong. Nhóm thảo luận tại bản Chuôm, xã Kim Thủy cho biết, ở bản “có gia đình chồng đánh đập vợ con dẫn đến tan vỡ vì chồng uống rượu, chứng nào tật nấy”. Có trường hợp chồng đánh vợ thâm mắt thâm má. Người vợ không đến trạm y tế chữa chạy nhờ “thầy thổi”. Ở thôn Cửa Mẹc (xã Ngân Thủy) có trường hợp chồng đánh vợ phải đi bệnh viện, chính quyền thôn đã phải đến hòa giải. Ở bản Khe Cát, xã Trường Sơn, nhóm thảo luận chia sẻ về một ca chồng đánh đập thường xuyên vợ hằng ngày, do cuộc sống lao động nặng nhọc lại thường xuyên bị bạo lực, người vợ đã suy sụp về tinh thần, suy kiệt sức khỏe và qua đời.

Bạo lực gia đình ở dạng hình phạt với trẻ em

Cuộc khảo sát này đã xác nhận bạo lực với trẻ em được chấp nhận trong nhiều gia đình như một dạng hình phạt để giáo dục. Những hình phạt được chấp nhận nhiều nhất là các hình phạt có tình chất bạo lực xã hội (43% các gia đình DTTS khẳng định chấp nhận, gia đình người Kinh-41%), hạn chế nhu cầu vui chơi (37% gia đình DTTS chấp nhận, 29% - gia đình người Kinh).
Các hình phạt về thể xác đứng thứ hai trong các biện pháp được chấp nhận để giáo dục trẻ em trong gia đình. Một phần ba các gia đình xác nhận dùng biện pháp “luận tội và đánh đòn”, còn nếu tính cả những gia đình dùng biện pháp này tùy tình huống phạm lỗi, quy mô tăng lên đến 47-49% trong các gia đình người Kinh và dân tộc ít người. Các hình phạt hạn chế đi lại như quỳ một chỗ hoặc lao động cũng bức cũng được dùng tuy ở mức độ thấp hơn với khả năng trong phạm vi 18-24% các gia đình. Một số ít (18-21%) các gia đình coi trẻ em là nơi xả bực tức và đánh trẻ em để xả bực bội, hoặc tùy tiện vô cớ. Trong đồng bào dân tộc, một phần nhỏ gia đình (2%) vẫn còn duy trì hình phạt không cho trẻ ăn.
Bảng  1. Những hình phạt được chấp nhận với trẻ em
 Những dạng hình phạt với trẻ em   Tổng: Kinh Nam: DT Nữ: DT Tổng DTTS
Phạt không cho đi chơi với bạn bè, người thân, 41% 49% 41% 43%
  Tùy lúc 6% 4% 16% 12%
Phạt không cho chơi (hay phá) đồ chơi của trẻ 29% 38% 37% 37%
  Tùy lúc 0% 6% 10% 9%
Gặp, “luận tội” và đánh đòn đúng quy ước gia đình 35% 32% 33% 33%
  Tùy lúc 12% 11% 18% 16%
Phạt quỳ, đứng ở góc nhà, hay phạt làm một số việc, ví dụ dọn nhà tiêu 12% 15% 19% 18%
  Tùy lúc 6% 9% 5% 6%
Đánh đòn tùy hứng, ngẫu hứng (do bực) 6% 11% 14% 13%
  Tùy lúc 12% 13% 20% 18%
Phạt không cho ăn một số bữa 0% 2% 2% 2%
  Tùy lúc 0% 2% 2% 2%
 
Biểu đồ  1. Mức độ phổ biến các hình phạt với trẻ em trong gia đình
 

Các hình thức bạo lực tinh thần

Một số dạng bạo lực tinh thần bằng lời rất phổ biến ở các gia đình trong các cộng đồng dự án là quát mắng, bỏ mặc, dọa nạt được đưa vào tìm hiểu trong cuộc điều tra. Phổ biến nhất, nhưng có thể mức độ nghiêm trọng thấp nhất là mắng mỏ một lần rồi thôi. Với các gia đình người Kinh thì toàn bộ chấp nhận hình thức này, ở cộng đồng DTTS là 88%. Các hình thức khác bạo lực với trẻ em pháp luật có quy định cấm ít gặp ở cộng đồng là bỏ mặc, hay dọa đuổi khỏi nhà hay không cho đi học, nhưng vẫn có ở mức gần 20% ở người Kinh, tuy thấp ở vùng DTTS - ở mức 12%.

Trợ giúp pháp luật

Đề tài có thu thập được hạn chế các báo cáo hoặc thống kê về tư vấn hỗ trợ nạn nhân BLDG, các vụ khiếu nại tố tụng liên quan tới hôn nhân gia đình, trợ giúp pháp luật, hoạt động của các tổ hòa giải. Có thể đây là những nội dung chương trình nên hoàn thiện trong những năm tới.

Nhu cầu tìm hiểu luật về bình đẳng giới, hôn nhân gia đình, bạo lực gia đình

Nghiên cứu ghi nhận một tỷ lệ cao phụ nữ cho rằng họ chưa có nhu cầu tìm hiểu về pháp luật liên quan tới hôn nhân gia đình, bạo lực gia đình và bình đẳng giới. Tỷ lệ này dao động ở mức 70-76% phụ nữ, trong khi đó với nam giới tỷ lệ nào ở khoảng 24-30%. Tương tự là nhu cầu về trợ giúp pháp lý. Có thể thấy, nhóm không có nhu cầu tìm hiểu về luật và trợ giúp luật gần đúng bằng tỷ lệ những người chưa/không có trải nghiệm BLGD nghiêm trọng.
Bảng  2. Nhu cầu tìm hiểu pháp luật trong hai nhóm giới tính
Trước giờ chưa có nhu cầu tìm hiểu về Nam   Nữ  
pháp luật 18 24% 56 76%
  • luật hôn nhân và gia đình
19 27% 51 73%
  • luật phòng chống bạo lực GD
18 26% 50 74%
  • luật bình đẳng giới
22 30% 52 70%
Trước giờ chưa có nhu cầu về trợ giúp pháp luật hay tư pháp 24 29% 59 71%
 
Ngoài giới tính, có một số yếu tố liên quan tới mức độ “chưa có nhu cầu tìm hiểu luật và trợ giúp”. Trong cộng đồng DTTS, tỷ lệ này lên tới 91-92%, cao hơn hẳn nhóm dân tộc Kinh. Loại hình gia đình/hôn nhân cũng là yếu tố quan trọng có quan hệ tới nhu cầu tìm hiểu pháp luật và trợ giúp pháp lý. Mô hình này cũng giống như đối với biến số học vấn. Ở nhóm chưa hoàn thành tiểu học, tỷ lệ chưa có nhu cầu tìm hiểu pháp luật nằm ở khoảng 46-54% số người trong nhóm, so với mức 22-37% ở các nhóm khác. Với nhóm mức sống, tỷ lệ này không khác nhau nhiều giữa các nhóm và dao động trong khoảng 31-43%.
Nguồn trợ giúp khi có nhu cầu tư vấn về hôn nhân và gia đình có đa dạng với cả nam và nữ. Mức độ cao nhất là trưởng thôn, người đại diện chính quyền ở cấp cơ sở thấp nhất, sau đó là cán bộ HPN. Cán bộ tư pháp xã đứng khá cao ở vị trí thứ ba và sau đó là các tổ chức khác. Nói chung ý kiến của nam và nữ có thể coi là không chênh lệch nhiều.
Ý nghĩa của các nguồn trợ giúp tư vấn với các nhóm dân tộc khác với cách nhìn theo chiều giới tính. Với người nam dân tộc Kinh, thì vai trò của Trưởng thôn thấp hơn so với các HPN, tư pháp. Còn với các nhóm khác, thứ tự ưu tiên tìm hỗ trợ là Trưởng thôn, HPN, Tư pháp và cán bộ mặt trận. Phụ nữ người Kinh có ưu tiên khá cao cho cán bộ TBXH, và khoảng 10% phụ nữ dân tộc có nguồn trợ giúp khác (công an xã, bạn bè, người thân) ngoài các thiết chế (tổ chức, cá nhân) chính thức đã kể.

Tham gia tập huấn về luật về BĐG, hôn nhân gia đình và BLGD

Cuộc điều tra cho biết nói chung, khoảng hơn một nửa số người tham dự không nhớ đã đi học hay chưa từng tham dự một khóa tập huấn về bình đẳng giới. hôn nhân và gia đình và phòng chống BLGD. Với người Kinh thì gần 60% chưa tham dự, còn với người DTTS thì khoảng một nữa. Có thể thấy các cuộc tập huấn về hôn nhân và gia đình đến được với đa số phụ nữ, số người chưa đi học, không nhớ đã đi học chỉ có 37%. Có thể suy diễn khi tỷ lệ chưa được tập huấn khá cao như vậy, số người tương ứng có hiểu biết đúng về các hành vi phù hợp với pháp luật cũng sẽ thấp tương ứng.
Bảng  3. Mức độ tham gia các tập huấn về HNGĐ và BLGD
Không nhớ/chưa dự tập huấn Tổng: Kinh Nam: DT Nữ: DT Tổng DTTS
Bình đẳng giới 59% 58% 42% 48%
Hôn nhân và gia đình 59% 60% 37% 45%
Phòng chống bạo lực gia đình 65% 64% 45% 50%
 

Tiếp cận tài liệu thông tin pháp luât

Khi phân tích về khả năng tìm kiếm tài liệu về pháp luật nói chung, pháp luật về hôn nhân gia đình và BLGD, có thể thấy có một khoảng cách lớn về tiếp cận nguồn thông tin số (digital information). Trong khi hơn 40% người Kinh có thể dùng internet để tìm tài liệu, tỷ lệ này ở nam DTTS là 23%, và giảm mạnh xuống còn 9% ở nữ DTTS. Tỷ lệ trả lời chưa biết tìm chỗ nào ở nữ DTTS cũng cao nhất ở mức 41%, sau là 32% ở nam DTTS và xuống tiếp còn 25% ở nam người Kinh.

Thực tiễn trợ giúp pháp luật

Bức tranh thực hành trợ giúp pháp luật có thể hình dung qua số người dân thăm gặp và tham vấn các cơ quan tổ chức có trách nhiệm. Nhóm nghiên cứu chưa tiếp cận được danh bạ các cuộc tham vấn của các tổ chức này, mà các tổ chức này cũng không có quy định về ghi chép các cuộc tham vấn. Nhóm khảo sát đã dùng tiếp cận nghiên cứu là phỏng vấn người dân, tuy độ xác thực có thể hạn chế.
Từ cuộc điều tra, trong hai năm qua, không thấy ai ghi nhận đã gặp luật sư (không có văn phòng nào ở huyện) hay cán bộ tư pháp của Trung tâm trợ giúp pháp lý (ở huyện là nơi xa với các xã miền núi) để tham vấn. Hai cơ quan tổ chức được tiếp xúc tham vấn nhiều hơn cả là HPN và cán bộ tư pháp xã huyện. Công an xã hoặc huyện chỉ được người DTTS tham vấn (5%), còn người Kinh thì không. Với phụ nữ DTTS (5%), họ có tham vấn cán bộ lao động thương binh xã hội.
Bảng  4. Mức độ sử dụng dịch vụ của các cơ quan tổ chức địa phương về HNGD, BLGĐ
 Cơ quan tổ chức được tham vấn  Mức độ Kinh Nam Nữ Tổng DTTS
Gặp cán bộ HPN thôn hoặc xã Một lần 18% 11% 16% 15%
  Vài lần 0% 2% 17% 12%
Gặp cán bộ tư pháp xã hoặc huyện Một lần 0% 9% 4% 6%
  Vài lần 6% 2% 7% 6%
Gặp công an xã hoặc huyện Một lần 0% 2% 2% 2%
  Vài lần 0% 4% 3% 3%
Gặp cán bộ LD-TB-XH xã, huyện Một lần 0% 0% 2% 1%
  Vài lần 0% 0% 3% 2%
 
Bằng cách lọc ra ý kiến của những người đã tham vấn pháp luật (52) dù chỉ một lần về các vụ việc, kết quả phân tích cho thấy hầu hết các cuộc tham vấn được thực hiện ở mức độ chất lượng khá tốt. Tỷ lệ được bảo đảm hoàn toàn bí mật thông tin là 65%, 77% được quan tâm lắng nghe, 73% được khuyến khích tự quyết định tìm giải pháp và 79% được cung cấp đủ thông tin. Những chỉ tiêu này có tính chất nền tảng để có thể cải thiện tiếp tục với các mốc cao hơn khi có những chương trình dự án.
Bảng  5. Đánh giá chất lượng của các cuộc tham vấn ở các nhóm giới tính và dân tộc
Tính chất cuộc tham vấn Đánh giá Tổng Kinh Nam: DT Nữ: DT Tổng: DT Toàn bộ
Bảo đảm riêng tư, giữ bí mật chuyện riêng. Có phần đúng 33% 27% 13% 16% 17%
  Đúng 67% 64% 66% 65% 65%
Được quan tâm, lắng nghe, thấu hiểu. Có phần đúng 33% 18% 13% 14% 15%
  Đúng 67% 82% 76% 78% 77%
Được hỗ trợ để tự tìm ra các phương án . Có phần đúng 67% 27% 11% 14% 17%
  Đúng 33% 73% 76% 76% 73%
Bản thân mình tự quyết định vấn đề của mình Có phần đúng 67% 36% 11% 16% 19%
  Đúng 33% 55% 79% 73% 71%
Được cung cấp đầy đủ thông tin và nguồn. Có phần đúng 0% 27% 8% 12% 12%
  Đúng 100% 64% 82% 78% 79%
 
Có 191 người bày tỏ đã từng lưỡng lự hoặc không tham vấn với một trong những cá nhân tổ chức ví dụ cán bộ phụ nữ, tư pháp hay công an viên hoặc TBXH. Trong các lý do cản trở họ tìm kiếm hỗ trợ có những yếu tố nội tâm và yếu tố khách quan. Những cản trở nội tại lớn với hơn một nửa người DTTS  là không biết là có thể tìm được trợ giúp, không biết là có nó, và cản trở về ngôn ngữ, điều này tất nhiên không đúng với người Kinh. Quen chịu đựng bạo hành gia đình cũng là lý do khách quan lớn nhất mà hơn 40% người DTTS nhắc và 29% người Kinh nêu.
Bảng  6. Những yếu tố cản trở cộng đồng tiếp cận dịch vụ trợ giúp pháp luật
Lý do không tìm trợ giúp Mức độ đúng Tổng Kinh Nam Nữ Tổng DT Tổng chung
Không biết là người có hỗ Có phần đúng 12% 15% 25% 22% 21%
 trợ Đúng 24% 50% 51% 51% 48%
Không biết diễn đạt (bằng Có phần đúng 12% 23% 17% 19% 18%
 tiếng phổ thông) Đúng 12% 48% 47% 47% 44%
Chịu đựng quen bạo hành Có phần đúng 35% 15% 22% 20% 21%
 gia đình rồi. Đúng 29% 44% 41% 42% 41%
 
Trong các lý do khách quan cản trở tìm kiếm trợ giúp, nặng nề nhất với tất cả các nhóm (hơn nửa số người dân) là nỗi sợ chuyện riêng bị đem ra đàm tiếu. Những yếu tố về lo không được tôn trọng hoặc người tư vấn không biết lắng nghe hay không có chuyên môn có tỷ trọng đúng hoàn toàn là thấp và dao động từ 9-16%. Có thể đàm tiếu xã hội là một cơ chế cần tháo gỡ để giúp người dân
Các cuộc thảo luận nhóm ở cộng đồng xác nhận yếu tố tâm lý cá nhân là nỗi sợ tai tiếng, sợ bị xấu hổ và do vậy [khi bị đánh] không dám lên tiếng khi bị bạo lực, không đi tìm sự trợ giúp. Nếu nói cho mọi người trong bản nghe thì sợ xấu hổ, con cái lớn rồi nên lặng thinh cho yên ổn. Cán bộ HPN Kim Thủy nhận xét “các tổ hòa giải có sổ theo dõi BLGD nhưng đa số người phụ nữ thường cam chịu không nói ra”. Thảo luận nhóm thôn Cửa Nẹc, xã Ngân Thủy cho thấy hiểu biết pháp luật cũng được xác nhận là yếu tố cản trở tiếp cận hỗ trợ pháp luật, nhất là ở người nhiều tuổi. Thiếu hiểu biết còn do người dân không hiểu, hoặc nghe được khi phổ biến văn bản pháp luật bằng hệ thống loa truyền thanh thì nghe không hiểu.

Hoạt động hòa giải

Hoạt động hòa giải được tổ chức theo Luật Hòa giải ở Cơ Sở với các tổ hòa giải được thành lập ở hầu hết các địa bàn. UBND tỉnh Quảng bình cho biết hiện tại có 61.336 tổ đã thành lập và hoạt động với 9029 hòa giải viên với thành phần gồm bí thư chi bộ, già làng, trưởng bản, trưởng ban mặt trận, HND, HPN, Hội CCB, và người có uy tín. Báo cáo cho biết có 6136 hòa giải viên có trình độ chuyên môn về luật. Đội ngũ cán bộ tham gia công tác hòa giải được tổ chức ở ba cấp với 330 chuyên viên kiêm nhiệm phân bố ở Phòng phổ biến và giáo dục pháp luật Sở tư pháp- 3, Phòng tư pháp huyện -36 chuyen viên và công chức tư pháp hộ tịch UBND xã – 291. Hoạt động của các tổ hòa giải có thống kê, báo cáo lên cấp huyện, nhưng không tách bạch ví dụ không tách riêng các vụ về hôn nhân gia đình, hay BLGĐ. Ở Lệ Thủy, thống kê cho thấy các vụ việc mà các tổ hòa giải giải quyết đã giảm 3 lần từ 2014 đến 2018. Ở ba xã dự án, số vụ hòa giải không nhiều, có những năm cả ba xã không có vụ việc. Trong 5 năm chỉ có 20 vụ việc ở ba xã và tất cả các vụ đều được báo cáo là giải quyết thành công[vi]. Trong  năm 2018, HPN Lệ thủy cho biết đã tư vấn, giúp đỡ 22 trường hợp có tình trạng gây gỗ, bạo lực gia đình trong phạm vi toàn huyện.
Báo cáo của UBND tỉnh Quảng bình cho biết, trong 5 năm từ 2018 trở về trước, không có ai đề nghị tòa án công nhận kết quả hòa giải; nguyên nhân được giải thích cơ bản là do khoản lệ phí công nhận là 300.000VND. Trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, phòng chống bạo lực gia đình, cuộc điều tra ghi nhận ở vùng dự án không có ai nhắc tới tổ hòa giải như một cơ quan tổ chức được người dân tham vấn khi cần tư vấn./. 
 
[ii] Đây là ý kiến của một trong 8 phụ nữ nhóm 17 người Kinh tham gia điều tra. Trông cộng đồng DTTS, có ba nữ và một nam đồng ý như vậy. 
[iii] Tỷ lệ gia đình ly hôn ly thân thấp, nên cuộc điều tra này không đề cập vì quy mô nhỏ.
[iv] Tỷ lệ gia đình ly hôn ly thân thấp, nên cuộc điều tra này không đề cập vì quy mô nhỏ.
[v] HPN Lệ thủy trong báo cáo 2018 cho biết trong toàn huyện Hội đang duy trì 340 địa chỉ tin cậy (là nơi tạm lánh cho nạn nhân) tại cộng đồng , tăng 23 địa chỉ so với năm 2017.
[vi] UBND huyện Lệ thủy. Báo cáo hoạt động của Tổ hòa giải ở cơ sở huyện Lệ thủy, từ ngày 01/1/2014 đến 30/8/2018.