Thời gian qua, các tô chức tín dụng (TCTD) nhận được sự quan tâm, hỗ trợ của Bộ Tư pháp, Cơ quan Thi hành án dân sự các cấp trong việc tổ chức thi hành các Bản án/Quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án/Trọng tài liên quan đến hoạt động tài chính - ngân hàng (án tín dụng - ngân hàng) đã góp phần giúp các TCTD đạt được kết quả thực hiện Đề án tái cơ cấu các TCTD và xử lý nợ xấu.Tuy nhiên,quá trình thực hiện Đề án, nhất là việc xử lý trong khâu thi hành án còn nhiều khó khăn và vướng mắc. Chính vì vậy, Hiệp hội Ngân hàng (HHNH) trình bày tham luận với nội dung:
“Các giải pháp nhằm rút ngắn thời gian, nâng cao hiệu quả thi hành án Tín dụng - Ngân hàng”.
I. Vai trò của Hiệp hội đối với hoạt động tín dụng, ngân hàng:
HHNH là tổ chức xã hội nghề nghiệp tự nguyện của các TCTD. Được Thủ tướng Chính phủ thành lập tại Quyết định số 131/QĐ-TTg ngày 05 tháng 9 năm1994. Đến nay, trải qua gần27 năm hình thành và phát triển, HHNH đã có 73 Tổ chức hội viên gồm tất cả các Ngân hàng thương mại, Công ty tài chính, Tổ chức trung gian thanh toán và các tổ chức có liên quan, với tổng tài sản khoảng 13 triệu tỷ đồng,chiếm tỷ lệ 90% toàn ngành. Ngoài ra, HHNH còn là thành viên của Hiệp hội Ngân hàng ASEAN, đối tác của Hiệp hội Ngân hàng Châu Á và có quan hệ hợp tác với nhiều Hiệp hội Ngân hàng các nước cũng như nhiều Tổ chức quốc tế có uy tín.
Với trách nhiệm của mình thời gian qua, HHNH đã đồng hành cùng các TCTD nhằm chia sẻ khó khăn,bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội viên; Tham gia phản biện chính sách, thay mặt hội viên phản ảnh kịp thời vướng mắc, khó khăn đếncơ quan quản lý nhà nước, đặc biệt trong quá trình tái cơ cấu và xử lý nợ xấu; thường xuyên tổ chức tọa đàm, hội thảo góp ý về cơ chế chính sách, chuyển tải thông tin đến các cơ quanquản lý nhà nước, các cơ quan bảo vệ pháp luật…và phốihợpvới các đơn vị liên quan tháo gỡ từng bước khó khăn cho các TCTD trong việc thực thi pháp luật nhất là lĩnh vực thi hành án.
II. Vai trò của công tác thi hành án dân sự đối với hoạt động tín dụng, ngân hàng
Nhìn lại cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2008 - 2009 đã ảnh hưởng không nhỏ đến kinh tế Việt Nam, hậu quả để lại là lạm phát tăng cao và nợ xấu tại các TCTDvượt quá ngưỡng cho phép đến mức Thủ tướng Chính phủ cho phép thành lập Công ty Quản lý tài sản các TCTD Việt Nam (VAMC) và Quốc hội ban hành Nghị quyết 42/2017/QH14để hỗ trợ các TCTDxử lý nợ xấu. Kể từ đó đến nay được sự hỗ trợ của các cấp, các ngành trong đó có sự phối hợp chặt chẽ của Bộ Tư Pháp nói chung và Tổng cục thi hành án nói riêng, nợ xấu tại các TCTD từng bước được xử lý, tỷ lệ nợ xấu toàn hệ thống đã trở về mức an toàn.Đạt đươc kết quả đó có sự hỗ trợ tích cực của các Cơ quan thi hành án các cấp, nhiều vụ việc được giải quyết thông qua Tòa án các cấp, khi Bản án có hiệu lực,Cơ quan thi hành án đã phối hợp chặt chẽ với các TCTD thực hiện thi hành án một cách quyết liệt và hiệu quả, điều đó cho thấy thi hành án dân sự đóng vai trò hết sức quan trọng trong việcphát mại tài sản đảm bảo thu hồi nợ xấu. Tuy nhiên, kể từ đầu năm 2020 đến nay tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến hết sức phức tạp, Đảng và Chính phủ có nhiều giải pháp hỗ trợ người dân và doanh nghiệp song hệ quả của dịch bệnh dẫn tới khả năng nợ xấu tại các TCTD trong thời gian tới sẽ gia tăng, nhiều vụ việc sẽ được giải quyết tại Tòa án dân sự các cấp,theo đó công tác thi hành án dân sự càng có vai trò, ý nghĩa hết sức quan trọng trong hoạt động xử lý nợ xấu cũng như hoạt động tín dụng - ngân hàng nói chung của các TCTD.
III. Kết quả công tác thi hành án liên quan đến tổ chức tín dụng, ngân hàng
1. Một số thuận lợi
-Về thể chế: Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD (“Nghị quyết 42”) quy định trực tiếp về công tác thi hành án đối với TSBĐ của khoản nợ xấu, trên cơ sở đó Tổng Cục THADS đã ban hành văn bản 3022/TCTHADS-NV1 ngày 15/8/2017 hướng dẫn triển khai.
- Về công tác phối hợp : Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tư Pháp đã thống nhất ban hành Quy chế phối hợp số 01/QCLN/NHNNVN-BTP ngày 18/03/2021 trong đó quy định các nguyên tắc, phương thức và phạm vi phối hợp rất rõ ràng, đầy đủ, là căn cứ để tăng cường, nâng cao công tác phối hợp tín dụng - ngân hàng với thi hành án dân sự, góp phần thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao của mỗi Ngành. Định kỳ hoặc đột xuất, hàng năm Tổng Cục THADS xây dựng chương trình kiểm tra công tác thi hành án tín dụng - ngân hàng tại các các khu vực, địa bàn có nhiều vụ việc tồn đọng, gặp nhiều khó khăn, vướng mắc; qua đó trực tiếp chỉ đạo xử lý, tháo gỡ kịp thời.
- Các thuận lợi khác:
+ Sự vào cuộc hết sức trách nhiệm của các cấp ngành, đã tạo điều kiện cho Chính quyền địa phương đã tạo điều kiện cho công tác thi hành án tại các địa phương hoạt động có hiệu quả.
+ Việc xác minh tài sản thi hành án được tiến hành ngay từ giai đoạn giải quyết tranh chấp thông qua việc áp dụng các biện pháp tố tụnggóp phần tăng tính hiệu quả, hiệu lực trong việc tổ chức thi hành Bản án/Quyết định có hiệu lực pháp luật.
2. Kết quả thi hành án TDNH trong 05 năm gần đây
Qua các thông tin được nắm bắt, ghi nhận tại các TCTD cũng như ngành THADS, kết quả thi hành án tín dụng ngân hàng trong 05 năm gần đây đạt được kết quả cụ thể như sau: tính từ 01/10/2016 đến cuối tháng 9/2021, tổng số phải thi hành án tín dụng ngân hàng chiếm khoảng 3,0% về việc, gần 60% về tiền so với tổng số việc/tiền phải thi hành của toàn quốc. Toàn hệ thống cơ quan THADS đã thi hành xong 22.482 việc, thu được hơn
126.184 tỷ 752 triệu 376 nghìn đồng (
đạt tỷ lệ trung bình khoảng 21% về việc, 26 % về tiền). Thời gian đầu thực hiện Nghị quyết số 42 đã tác động tích cực đến kết quả thi hành án
[1]tuy nhiên, sau đó trong quá trình tổ chức thi hành gặp nhiều khó khăn, vướng mắc do nội dung của Nghị quyết số 42 có điểm quy định chưa thật rõ, mặc dù đã cố gắng tháo gỡ kịp thời, nhưng tỷ lệ thi hành có giảm (
năm 2018 có giảm 2,69% về việc và 5,34% về tiền năm 2019, số việc đã tăng 6,35% dù tỷ lệ về tiền vẫn thấp).
3. Khó khăn vướng mắc và nguyên nhân
Bên cạnh những thuận lợivà kết quả đạt được nêu trên, công tác thi hành án liên quan đến hoạt động tín dụng - ngân hàng còn tồn tại một số hạn chế, khó khăn vướng mắc. Cụ thể
3.1Về thể chế:
- Nhu cầu xử lý nợ xấu của các TCTD trong thời gian qua là rất lớn và có khả năng gia tăng do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19; trong khi đóNghị quyết 42 có hiệu lực 5 năm từ 15/08/2017 đến 15/08/2022 và chưa có cơ chế, chính sách chuyên biệt, chưa có quy định pháp lý chuyên ngành điều chỉnh việc xử lý khoản nợ, TSBĐ của khoản nợ xấu.
- Thực tiễn áp dụng Nghị quyết 42 cho thấy còn có sự chưa thống nhất trong việc áp dụng Nghị quyết của các Bộ, Ngành và địa phương trong đó có công tác thi hành án dân sự (như vấn đề về việc thanh toán các khoản thuế, phí, án phí... mà bên phải thi hành án phải nộp).
- Đối với ngành Thi hành án: Nguồn lực Chấp hành viên theo định biên công chức còn thiếu dẫn đến tình trạng quá tải, ảnh hưởng đến tiến độ xử lý các vụ việc, về lâu dài khó đáp ứng được khối lượng công việc phát sinh vì vậy cần tăng cường, đẩy mạnh vai trò của Thừa phát lại trong công tác thi hành án.
- Một số khó khăn, vướng mắc trong việc thi hành Luật Thi hành án dân sự:
+ Về định giá tài sản thi hành án :
Theo qui định tại Điều 98 Luật Thi hành án dân sự 2008thìviệc giới hạn tổ chức thẩm định giá phải trên địa bàn là không phù hợp với thông lệ trong thẩm định giá tài sản, theo đó bất cứ tổ chức định giá nào có uy tín, năng lực cũng có thể được tham gia thẩm định giá mà không phải phụ thuộc vào nơi đăng ký trụ sở trú đóng của họ. Việc giới hạn Tổ chức định giá chỉ trên địa bàn tỉnh làm ảnh hưởng lớn đến tính khách quan của việc xác định giá bán tài sản.
+ Đấu giá tài sản thi hành án: Theo quy định tại khoản 2 Điều 102 Luật thi hành án dân sự thì chỉ có người mua được tài sản bán đấu giá và Chấp hành viên có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản nếu có căn cứ chứng minh có vi phạm trong quá trình bán đấu giá tài sản. Quy định này đã tước bỏ/hạn chế quyền của tổ chức tín dụng trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong trường hợp có vi phạm pháp luật trong quá trình đấu giá tài sản.
3.2 Khó khăn, vướng mắc liên quan đến việc áp dụng pháp luật của Cơ quan THADS/Chấp hành viên:
+ Về việc xử lý nhiều tài sản bảo đảm cho một nghĩa vụ thi hành án: Việc nhận nhiều tài sản để cùng bảo đảm cho một nghĩa vụ của khách hàng tại các TCTD là hoạt động bình thường, phổ biến.Tuy nhiên, khi thi hành các Bản án/Quyết định này của Tòa án, một số Cơ quan Thi hành án dân sự, Chấp hành viên đưa ra quan điểm theo hướng yêu cầu TCTD phải phân chia tỷ lệ giá trị nghĩa vụ được bảo đảm của mỗi tài sản, mặc dù Khoản 2 Điều 20 Luật thi hành án dân sự và Điều 5 Nghị định 21/2021/NĐ-CP đãqui định rất rõ.
+ Về thứ tự xử lý tài sản khi phải ủy thác thi hành án cho nhiều cơ quan thi hành án: Trong nhiều trường hợp, cơ quan thi hành án không thực hiện ủy thác ngay sau khi thụ lý đơn yêu cầu thi hành án mà có quan điểm cho rằng cần phải xử lý xong tài sản tại địa bàn rồi mới ủy thác cho cơ quan thi hành án ở địa phương khác; hoặc chỉ ủy thác thi hành án đối với từng tài sản dẫn tới quá trình thi hành án bị kéo dài, gây ảnh hưởng đến tiến độ thu hồi nợ của các TCTD.
+Về xác định diện tích quyền sử dụng đất khi kê biên: khi tiến hành kê biên TSBĐ thi hành án là QSDĐ, Cơ quan Thi hành án dân sự sẽ thực hiện việc đo đạc lại diện tích tài sản. Tuy nhiên, khi xử lý, Chấp hành viên vẫn căn cứ kết quả đo đạc để đề nghị Ngân hàng phải trả lại giá trị phần diện tích tăng thêm cho bên bảo đảm, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của Ngân hàng. Trong khi đó khoản 5 Điều 98 Luật Đất đai thì diện tích tăng thêm khi đo đạc lại được xác định thuộc quyền sử dụng hợp pháp của bên bảo đảm.
+ Về việc chuyển tiền thu được từ thi hành án: Mặc dù Khoản 5 Điều 47 Luật thi hành án dân sự quy định rõ trong thời hạn 10 ngày kể từ khi thu được tiền, tài sản thi hành án, Chấp hành viên phải thực hiện thanh toán, trả tài sản thi hành án cho người được thi hành án. Tuy nhiên, nhiều Cơ quan thi hành án dân sự còn chậmthực hiện việc chuyển số tiền thi hành án về cho TCTD.
3.3 Khó khăn liên quan đến việc xét xử của Tòa án: Một số trường hợp Tòa án tuyên không rõ về mức lãi suất, phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm của tài sản thi hành án, chậm giải thích, sửa chữa bản án... dẫn đến khó khăn cho công tác thi hành án.
3.4 Về phát sinh tranh chấp đối với tài sản thi hành án:
Hiện nay, tại các TCTD phát sinh các tình huống: các Bản án/Quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án đã tuyên TCTD có quyền yêu cầu kê biên, phát mại TSBĐ để thu hồi nợ. Tuy nhiên, trong quá trình thi hành các Bản án/Quyết định này tiếp tục phát sinh tranh chấp đối với tài sản đã tuyên được bảo đảm thi hành án trong đó tập trung vào: (i) tranh chấp giữa các đồng sở hữu (vợ chồng, các thành viên hộ gia đình...) về tỷ lệ giá trị tài sản bảo đảm thi hành án; (ii) tranh chấp về yêu cầu trả lại TSBĐ giữa bên thứ ba với người phải thi hành án.
4. Nguyên nhân gây ra khó khăn vướng mắc trong công tác thi hành án tín dụng Ngân hàng:
4.1 Về nguyên nhân khách quan:
+ Quá trình vận động, phát triển của nền kinh tế - xã hội luôn có xu hướng đi trước cơ chế chính sách. Trong đó cơ chế, chính sách (chung và riêng) đối với 02 lĩnh vực thi hành án và tài chính - ngân hàng cũng không nằm ngoài quy luật này, nên do đó, các chính sách, quy định của Nhà nước trong lĩnh vực thi hành án tín dụng - ngân hàng đòi hỏi cần có thời gian để tổng kết kinh nghiệm và hoàn thiện.
+ Quy định pháp luật giữa các chuyên ngành khác nhau còn tồn tại sự khác biệt, xung đột.
+ Thông thường, Bên phải thi hành án (khách hàng nợ xấu tại các TCTD) thường có thái độ bất hợp tác, tìm mọi cách thức để trì hoãn việc thi hành án.
4.2 Về nguyên nhân chủ quan:
+ Mặc dù Nghị quyết 42 của Quốc Hôi được ban hành song việc triển khai, cơ chế chính sách còn chưa đồng bộ, thống nhất giữa các Cơ quan hành chính Trung ương, địa phương.
+ Việc hiểu và áp dụng pháp luật của Chấp hành viên chưa thống nhất.
+ Về phía TCTD còn tồn tại những thiếu sót, thậm chí vi phạm của cán bộ trong việc thẩm định cho vay và nhận TSBĐ.
IV. Một số giải pháp và kiến nghị
Đểnâng cao hiệu quả, chất lượng thi hành án tín dụng ngân hàng, HHNH tham gia, kiến nghị một số giải pháp sau đây:
1. Giải pháp trước mắt:
Việc hoàn thiện thể chế cần có lộ trình để thực hiện, do đó để công tác thi hành án cho các tổ chức tín dụng, ngân hàng trong thời gian tới đạt hiệu quả, trước mắt đề nghị:
- Đối với Tổng cục THADS: Tham mưu cho lãnh đạo Bộ Tư Pháp :
+ Trao đổi, thống nhất với Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và các cơ quan hữu quan đối với những trường hợp pháp luật quy định chưa rõ, còn nhiều quan điểm áp dụng khác nhau.
+ Phối hợp với Bộ Tài chính trong việc tháo gỡ khó khăn, vướng mắc liên quan đến các khoản thuế, phí còn nợ của bên bảo đảm trong việc chuyển nhượng tài sản khi áp dụng Nghị quyết số 42.
+ Tiếp tục phối hợp với Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Hội sở các Ngân hàng lớn để tổ chức các đoàn kiểm tra, phúc tra việc thi hành án liên quan đến TDNH tại những địa phương có lượng án TDNH lớn, khó khăn, vướng mắc khi cần thiết để kịp thời hướng dẫn, đôn đốc thi hành...
- Đối với các Cơ quan THADS: Tiếp tục bám sát hồ sơ, xây dựng kế hoạch chi tiết để giải quyết các vụ việc, nhất là các vụ việc còn tồn đọng, kéo dài. Mặt khác, chủ động phối hợp với các tổ chức tín dụng, ngân hàng, ban, ngành có liên quan tại địa phương, báo cáo Ban chỉ đạo THADS để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để giải quyết dứt điểm các vụ việc.
- Đối với các tổ chức tín dụng, ngân hàng: Phát huy vai trò trách nhiệm trong việc phối hợp với các cơ quan THADS trong việc xác minh tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; hỗ trợ cơ quan THADS trong việc tiếp nhận trông coi, bảo quản tài sản sau khi kê biên, tìm và giới thiệu khách hàng mua tài sản để đẩy nhanh tiến độ bán đấu giá; chủ động phối hợp cùng cơ quan THADS và Chấp hành viên tìm biện pháp giải quyết cụ thể đối với từng hồ sơ thi hành án. Đối với những trường hợp đương sự đã thi hành được phần lớn nghĩa vụ thi hành án theo án tuyên, cần có chính sách miễn, giảm một phần lãi suất để có hướng giải quyết xong vụ việc.
2. Giải pháp lâu dài:
- Hoàn thiện thể chế, tạo cơ sở pháp lý rõ ràng cho việc tổ chức thi hành án đạt hiệu quả, cụ thể: Đề xuất Chính phủ giao Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan nghiên cứu, sửa đổi Luật THADS theo hướng rút gọn các thủ tục về THADS, Đồng thời, nghiên cứu sửa đổi, hoàn thiện Luật Đất đai, Luật nhà ở, đẩy nhanh tiến độ xây dựng và ban hành Luật đăng ký tài sản, Nghị định về giao dịch bảo đảm,...
- Kiến nghị Bộ Tài chính cần ban hành hướng dẫn cụ thể để thực hiện việc thu thuế thu nhập doanh nghiệp, thu nhập cá nhân trong trường hợp chuyển nhượng tài sản bảo đảm để thu hồi nợ xấu, bảo đảm quyền lợi của bên mua tài sản bảo đảm.
- Kiến nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về thủ tục chuyển nhượng tài sản, xử lý tài sản khi tài sản bảo đảm là các dự án bất động sản có tài sản hình thành trong tương lai.
- Đề nghị Ngân hàng Nhà nước khẩn trương phối hợp các Bộ ngành trình Chínhphủ tổng kết Nghị quyết 42 trên cơ sở đó trình Quốc hội xem xét gia hạn Nghị quyết 42 có sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn hoặc nâng lên thành Luật X
ử lý nợ xấu.
- Về phía HHNH sẽ tiếp tục đồng hành với các TCTD để đề xuất, tham mưu với Ngân hàng Nhà nước nhằm thúc đẩy quá trình Luật hóa công tác xử lý nợ xấu của các TCTD trong đó có các cơ chế, chính sách về thi hành án tín dụng - ngân hàng.
[1]năm 2017, tỷ lệ thi hành đã tăng 2,41% về việc và 2,9% về tiền so với năm 2016