HIỂU BIẾT VÀ NHẬN THỨC VỀ LUẬT NGƯỜI CAO TUỔI
Sign In

HIỂU BIẾT VÀ NHẬN THỨC VỀ LUẬT NGƯỜI CAO TUỔI

Luật NCT được chính thức ban hành từ tháng 11 năm 2009 là cơ sở pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích cho người cao tuổi. Trên cơ sở đó, nhiều văn bản dưới Luật để hướng dẫn thực hiện cũng đã được xây dựng, trong đó Quyết định số 1781/QĐ-TTg ngày 22 tháng 11 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chương trình hành động quốc gia về người cao tuổi Việt Nam giai đoạn 2012 – 2020” được xem là đòn bẩy mạnh mẽ để các địa phương xây dựng chính sách về NCT với mục tiêu chung là phát huy vai trò của NCT và nâng cao chất lượng chăm sóc NCT phù hợp với tiềm năng và tình hình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi địa phương.
Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí mình đã tiến hành khảo sát 600 NCT tại thành phố Sa Đéc, huyện Cao Lãnh và huyện Hồng Ngự tỉnh Đồng Tháp để đánh giá sự hiểu biết, nhận thức về Luật NCT.
1. Về hiểu biết về Luật NCT
Bảng 3.1 trình bày kết quả khảo sát mức độ hiểu biết về Luật NCT của 600 NCT tại thành phố Sa Đéc, huyện Cao Lãnh và huyện Hồng Ngự tỉnh Đồng Tháp. Số liệu thống kê cho thấy, hơn ½ số người được hỏi (chiếm tỉ lệ 53,8%) cho rằng họ chưa từng nghe nói tới Luật NCT, trong đó huyện Cao Lãnh chiếm tỉ lệ cao nhất với 64,5% NCT trả lời chưa từng nghe, kế đến là huyện Hồng Ngự với 50,0% và thành phố Sa Đéc với 47%. Tỉ lệ NCT trả lời chỉ ‘nghe nói tới Luật NCT’ cũng chiếm khá cao với gần 1/3 (tỉ lệ 31,2%), tỉ lệ này chiếm khá cao ở huyện Hồng Ngự (39,5%), trong khi đó thành phố Sa Đéc là 28,0% và huyện Cao Lãnh là 26,0%.
Bảng 3.1. Mức độ hiểu biết về Luật Người cao tuổi
      Chung Sa Đéc Cao Lãnh Hồng Ngự
      % % % %
  Chưa từng nghe nói 53,8 47,0 64,5 50,0
Đã từng nghe nói 31,2 28,0 26,0 39,5
Có biết 11,8 21,5 7,0 7,0
Biết nhiều 3,2 3,5 2,5 3,5
Nguồn: Dữ liệu dự án Truyền thống “già cậy con” và luật NCT: rào cản và khuyến nghị tư pháp qua nghiên cứu thực trạng thực hiện luật NCT tại tỉnh Đồng Tháp
 
                     
Số lượng NCT trả lời có hiểu biết về Luật này chiếm một tỉ lệ khá khiêm tốn với khoảng 15%, trong đó chỉ 3,2% là hiểu biết cặn kẽ về Luật NCT. Khi so sánh giữa 03 địa bàn nghiên cứu, kết quả cũng cho thấy thành phố Sa Đéc có tỉ lệ NCT hiểu biết về Luật này cao nhất với 25%, trong đó 21,5% trả lời có hiểu biết tương đối và 3,5% trả lời biết nhiều; tiếp sau là huyện Hồng Ngự với 10,5% (gồm 7,0% có hiểu biết và 3,5% hiểu biết nhiều) và huyện Cao Lãnh với 9,5% (với tỉ lệ tương tự là 7,0% và 2,5%). Đây cũng là nhận định chung của các lãnh đạo làm công tác liên quan đến người cao tuổi:
Trước giờ chỉ nghe nói người cao tuổi thôi chứ không biết luật gì hết…” (TVĐ, sinh năm 1956, tổ hòa giải, Hồng Ngự);
“Bây giờ tôi mới biết cái luật đó, tôi mới đi xuống hôm qua tôi mở tủ tôi mới biết cái luật đó, người ta giữ cái cuốn đó thôi chứ mình không giữ. Nói chung, cái cuốn luật đó ở trên huyện cấp rồi anh chủ tịch anh bỏ trong tủ, mà tôi ít xuống ủy ban lắm” (D.H.L, sinh năm 1965, Hội người cao tuổi Sa Đéc).
Tuy nhiên, NCT ở tỉnh Đồng Tháp cũng có sự hiểu biết khái quát về Luật NCT như một NCT chia sẻ:
“…thì nghe từ trên đài về luật NCT. Người cao tuổi cũng được chăm sóc hoặc là có được quyết định ở chung nhà với con cháu hay không hay là ở riêng, tùy vào người cao tuổi quyết định với được vận động phát huy trước xã hội vậy đó. Được hưởng các chế dộ của nhà nước” (Nữ, 62 tuổi, Sa Đéc).
Để phân tích rõ hơn sự hiểu biết của NCT về vai trò của Luật này đối với đời sống của họ, Bảng 3.2 trình bày kết quả mô tả nhận định của NCT về sự cần thiết phải am hiểu Luật NCT đối với bản thân. Hiểu biết về Luật NCT là “thể hiện cách sống và làm việc theo pháp luật” và “sẽ giúp cho cuộc sống của tôi tốt hơn” là hai nhận định được phần lớn NCT tán đồng với tỉ lệ lần lượt là 68% (trong đó 44,5% đồng ý và 23,5% rất đồng ý) và 67,5% (46,7% và 20,8%), tỉ lệ NCT không tán đồng với các nhận định trên là 10,2% và 13,6%. Đối với nhận định ‘Luật NCT là rất cần đối với cuộc sống của tôi’cũng nhận được sự đồng tình rất cao của NCT với tỉ lệ trả lời đồng ý là 64% (41,7% đồng ý và 22,3% rất đồng ý) và không đồng ý là 11,4%. Nhìn chung, số liệu mô tả cho thấy NCT tuy chưa tìm hiểu nhiều về Luật NCT nhưng nhận thức khá rõ về sự tác động tích cực của Luật NCT đối với cuộc sống của bản thân họ. Các thông tín viên NCT chia sẻ:
“cô thấy luật người cao tuổi cũng tốt đó. Tức là trong quá trình nhà nước mình bảo hộ được người cao tuổi, lo lắng được cho người cao tuổi và các cháu các em theo cái luật này mà nó làm điều tốt. Thì cô nghĩ cái luật này tốt đó.” (Nữ, 58 tuổi, Sa Đéc);
“Thì có hữu ích cho người cao tuổi, nghĩa là con cháu trong gia đình nó cũng có hiểu biết cái đó được để chăm sóc cho người già, cha mẹ nữa. Thì luật người cao tuổi này nhà nước cũng khuyến cáo cho con cháu để sau này nó đến đáp được cho cha mẹ nó, có hữu ích hay là gì” (Nam, 67 tuổi, Sa Đéc).
Bảng 3.2. Nhận định về Luật NCT đối với bản thân
  Mức độ đồng ý TB
  Rất không đồng ý Không đồng ý Bình thường Đồng ý Rất đồng ý
  • Hiểu biết về Luật NCT sẽ giúp cho cuộc sống của tôi tốt hơn
8,3 5,3 18,8 46,7 20,8 3,66
  • Hiểu biết về Luật NCT là thể hiện cách sống và làm việc theo pháp luật
7,5 2,7 21,8 44,5 23,5 3,74
  • Luật NCT là rất cần đối với cuộc sống của tôi
8,2 3,2 24,7 41,7 22,3 3,67
Nguồn: Dữ liệu dự án Truyền thống “già cậy con” và luật NCT: rào cản và khuyến nghị tư pháp qua nghiên cứu thực trạng thực hiện luật NCT tại tỉnh Đồng Tháp
 
2. Về nhận thức về Luật NCT
Nhận thức về Luật NCT trong nghiên cứu này được đánh giá dựa trên hai yếu tố đó là 1) sự đánh giá của họ về tầm quan trọng của Luật NCT và 2) sự quan tâm của NCT đối với Luật này.
Đánh giá về tầm quan trọng của Luật NCT được đo lường thông qua 5 chỉ báo, chẳng hạn như: Ông/bà đánh giá như thế nào về các nhận định sau “Hiểu biết về Luật NCT sẽ giúp cho cuộc sống của người cao tuổi tốt hơn”, “Mọi người rất thích tìm hiểu về Luật NCT”, “NCT chỉ được chăm sóc tốt khi tất cả mọi người đều hiểu biết về luật này”, “Cần phải có các đợt tập huấn để người cao tuổi hiểu biết về luật này”, “Cần phổ biến Luật NCT trên các phương tiện truyền thông hằng tuần”. Để đo sự quan tâm của NCT đối với luật này, 04 chỉ báo cũng được dùng để đo lường đánh giá, như: “Người dân không quan tâm đến Luật NCT”, “Mặc dù có Luật NCT nhưng mọi người ở đây vẫn không chấp hành”, “Hầu như mọi người ở đây đều không biết về Luật NCT”, “Mọi người rất ít tham gia sinh hoạt của NCT” [xem chi tiết tại Phụ lục 1_ Phiếu thu thập thông tin].
Bảng 3.3 Tổng hợp giá trị Cronbach’s alpha cho các loại thang đo
Thang đo Cronbach's Alpha Số lượng
chỉ báo
Đánh giá về tầm quan trọng của Luật NCT 0,82 5
Sự quan tâm đối với Luật NCT 0,71 4
Nguồn: Dữ liệu dự án Truyền thống “già cậy con” và luật NCT: rào cản và khuyến nghị tư pháp qua nghiên cứu thực trạng thực hiện luật NCT tại tỉnh Đồng Tháp  
Thang đo đánh giá yếu tố “Tầm quan trọng của Luật NCT” được xây dựng trên cơ sở tính điểm trung bình cộng của 05 chỉ báo ghi nhận đánh giá của NCT về tầm quan trọng của luật NCT đối với cuộc sống của họ. Chỉ số đo lường độ tin cậy thang đo (Cronbach’s alpha) có kết quả là 0,82 cho thấy đây là thang đo lường tốt hay nói cách khác là các chỉ báo dùng để đo lường thang đo này có sự liên kết tốt với nhau [Bảng 3.3]. Để làm vững chắc hơn về độ tin cậy của thang đo này, phương pháp phân tích nhân tố khám phá (EFA) cũng được sử dụng để xác định khả năng rút trích nhân tố của 05 chỉ báo trên. Kết quả phân tích cho thấy cũng chỉ duy nhất 01 nhân tố được hình thành từ các chỉ báo trên [xem kết quả Cronbach’s alpha và phân tích nhân tố tại Phụ lục 2-3.3a]. Tương tự, thang đo đánh giá “Sự quan tâm đối với Luật NCT” có chỉ số alpha = 0,71 cho thấy đây là các thang đo có độ tin cậy tốt [Bảng 3.3]. Phương pháp phân tích nhân tố khám phá được sử dụng để kiểm tra tính duy nhất của thang đo này và kết quả phân tích cũng cho thấy chỉ có 01 nhân tố được hình thành từ tập hợp các chỉ báo [xem kết quả Cronbach’s alpha và phân tích nhân tố tại Phụ lục 2- 3.3b].
Bảng 3.4 Nhận thức về luật NCT
Thang đo Trung bình Giá trị phổ biến Độ lệch chuẩn (s)
Đánh giá về tầm quan trọng của Luật NCT 3,72 4,00 0,74
Sự quan tâm đối với Luật NCT 3,13 3,00 0,80
Nguồn: Dữ liệu dự án Truyền thống “già cậy con” và luật NCT: rào cản và khuyến nghị tư pháp qua nghiên cứu thực trạng thực hiện luật NCT tại tỉnh Đồng Tháp  
Bảng 3.4 tổng hợp kết quả đánh giá của 600 NCT tại thành phố Sa Đéc, huyện Cao Lãnh và huyện Hồng Ngự tỉnh Đồng Tháp về nhận thức của họ đối với luật NCT. Kết quả cho thấy NCT đánh giá khá cao tầm quan trọng của luật NCT đối với cuộc sống của họ (điểm trung bình là 3,72 trên tổng điểm 5,00 và phần đông người trả lời chọn mức đánh giá 4,00/5,00). Tuy nhiên, khi tìm hiểu sự quan tâm của NCT đối với luật này, kết quả cho thấy, dường như họ chưa thật sự quan tâm lắm đến việc tìm hiểu và tham gia thực thi luật NCT (điểm đánh giá trung bình là 3,13 trên tổng điểm 5,00 và phần đông người trả lời chọn mức đánh giá 3,00/5,00). Sự đánh giá này có thể được quan sát cụ thể hơn thông qua Biểu đồ 3.1 dưới đây:
Hầu như mọi người ở đây đều không biết về Luật NCT Người dân không quan tâm đến Luật NCT
Mọi người rất ít tham gia sinh hoạt của NCT Mặc dù có Luật NCT nhưng mọi người ở đây vẫn không chấp hành
Biểu đồ 3.1. Sự quan tâm đến luật NCT
Kết quả cho thấy hơn 1/3 tổng số NCT được hỏi đều đồng tình rằng mọi người xung quanh họ thì không biết về luật NCT (chiếm tỉ lệ 38,8%) và họ cũng không thật sự quan tâm đến luật này (chiếm tỉ lệ 33,7%); số lượng NCT không thể hiện rõ quan điểm đánh giá hai nhận định trên cũng chiếm tỉ lệ khá cao lần lượt là 30,3% và 27,3%. Khi tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này, một NCT chia sẻ:
“Luật thì người dân không nắm chắc lắm đâu, chỉ nắm được những nội dung lớn và nói chung. Không đạt tới 100% nổi đâu. Theo tui là do kinh tế gia đình, họ bận bịu qua. Khoảng 10% biết đến là cùng. Họ bận qua nên không đi dự được những buổi tuyên truyền nên họ chưa nắm rõ được luật NCT. Lao động tạo kinh tế thì đó là quan trọng nhất.Những gia đình gặp khó khăn chỉ lo về kinh tế thì họ ít quan tâm tới người cao tuổi; không phải là quên mà là do không có thời gian nhiều nên không chăm sóc được tâm tư nguyện vọng của người cao tuổi.” (THT, nam, 61 tuổi, huyện Cao Lãnh);
“Tôi thì thấy…nói thì họ nghe đó nhưng mà thực dụng thì không có thành ra mình cũng không để ý nên mình cũng … thấy nói thì hay lắm, nghe thì..nhưng mà không thực dụng nên mình không quan tâm. Theo văn bản thì hữu ích cho người cao tuổi lắm nhưng mà ra ngoài thực tế thì khác nên mình không quan tâm nhiều. Nên riết bỏ quên luôn.” (NVT, nam, 70 tuổi, Sa Đéc).
Việc tham gia vào các hoạt động dành cho NCT tại địa phương cũng nhận được sự đánh giá khá khiêm tốn với chỉ 34,5% người được hỏi nhận định rằng mọi người xung quanh có tham gia vào các hoạt động của NCT; tỉ lệ còn lại 27,3% cho rằng mọi người rất ít tham gia và 38,2% không thể hiện rõ quan điểm đánh giá. Một trong những nguyên nhân có thể lí giải cho vấn đề này đó là các hoạt động sinh hoạt dành cho NCT chưa thật sự được thực hiện một cách bài bản và thường xuyên tại địa phương. Kết quả khảo sát 600 NCT tại 03 địa bàn tỉnh Đồng Tháp cho thấy có đến 32,8% trả lời rằng “ở địa phương tôi không có nhiều sinh hoạt cho NCT” [xem kết quả tại Phụ lục 2- 3.4]. Hoạt động dành cho hội cao tuổi chủ yếu được tổ chức bởi Hội Người cao tuổi như tổ chức các câu lạc bộ dưỡng sinh, câu lạc bộ trồng cây thuốc nam, câu lạc bộ ông bà cháu; tổ chức các hoạt động mừng thọ, thăm hỏi, chăm sóc sức khỏe; ở các khu đô thị hoạt động của câu lạc bộ dưỡng sinh đang diễn ra rất sôi động và hiệu quả. Tuy nhiên, có sự tham gia không đồng đều vào các hoạt động của hội người cao tuổi. Một phần là do người cao tuổi chưa có nhu cầu tham gia và một phần do hội người cao tuổi có ít hoạt động như một người cao tuổi chia sẻ
“Nhu cầu lớn nhất của người cao tuổi là cả về vật chất lẫn tinh thần mà cái tinh thần cũng cần rất là nhiều, thí dụ như được tham gia sinh hoạt hội rồi được vui chơi giải trí, được tham gia các công tác từ thiện, cái hoạt động này mấy chú rất là thích nhưng mà mấy cái mô hình đó thì đối với vùng quê địa phương cũng rất là ít rất là hiếm” (HVL, nam, 66 tuổi, huyện Cao Lãnh)./.