Hoàn thiện pháp luật, chính sách và tổ chức thi hành pháp luật về nâng cao chất lượng và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực là người dân tộc thiểu số ở vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp – phương hướng, đề xuất
Sign In

Hoàn thiện pháp luật, chính sách và tổ chức thi hành pháp luật về nâng cao chất lượng và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực là người dân tộc thiểu số ở vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp – phương hướng, đề xuất

I. Hoàn thiện chính sách, pháp luật về nâng cao chất lượng và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực là người dân tộc thiểu số ở vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp – phương hướng, đề xuất
Chính sách, pháp luật thời gian qua đã tạo cơ sở chính trị, pháp lý cho việc nâng cao chất lượng và sử dụng hiệu quả CCVC trong lĩnh vực PLTP. Để tiếp tục thực hiện các mục tiêuphát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS, các đề xuất tại Báo cáo này được xây dựng với tinh thần kế thừa, đồng bộ với kết quả rà soát tổng thể các chính sách về đồng bào DTTS, trong đó đáng lưu ý là:

Đào tạo, quy hoạch, xây dựng đội ngũ cán bộ người DTTS, nhất là các DTTS tại chỗ. Bảo đảm tỷ lệ CBCCVC người DTTS phù hợp với tỷ lệ dân số là người DTTS ở từng địa phương.

Đổi mới phương thức cử tuyển học sinh DTTS học đại học gắn với địa chỉ sử dụng; đổi mới chế độ dự bị đại học theo hướng phải đạt trình độ văn hóa theo yêu cầu chung.

Xây dựng cơ chế tuyển dụng CCVC phù hợp theo hướng xét tuyển đặc cách đối với nhóm DTTS rất ít người, nhóm dân tộc còn khó khăn và thi tuyển giữa người DTTS với nhau để lựa chọn được người nổi trội hơn.
Thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh nhằm chuyển mạnh hệ thống đào tạo sang hoạt động theo cơ chế đào tạo đáp ứng nhu cầu của xã hội, tăng nhanh quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo.

1. Hoàn thiện pháp luậtvề nâng cao chất lượng và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực là người dân tộc thiểu số ở vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp

1.1. Về tiêu chuẩn công chức tư pháp-hộ tịch
Tại Thông tư số 13/2019/TT-BNV ngày 16/11/2019 hướng dẫn một số quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố, tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn nghiệp vụ của công chức cấp xã nói chung được xác định là: Tốt nghiệp đại học trở lên của ngành đào tạo phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của từng chức danh công chức cấp xã (Điều 1). Đồng thời, giao Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định cụ thể tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn nghiệp vụ từ trung cấp trở lên đối với công chức làm việc tại các xã: miền núi, vùng cao, biên giới, hải đảo, xã đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng DTTS, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
Trả lời kiến nghị của Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ đã có các Công văn 2363/BNV-CQĐP ngày 24/5/2021 và số 3089/BNV- CQĐP ngày 25/6/2021 đề nghị áp dụng Điều 72 Luật Hộ tịch năm 2014 về tiêu chuẩn trình độ đào tạo đối với chức danh Tư pháp - hộ tịch và bỏ quy định về chứng chỉ ngoại ngữ, tin học đối với công chức cấp xã theo Thông tư số 02/2021/TT-BNV ngày 11/6/2021 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ quy định mã số, tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ và xếp lương đối với các ngạch công chức chuyên ngành hành chính và công chức chuyên ngành văn thư.
Khi sửa đổi Thông tư số 13/2019/TT-BNV, các cơ quan nên nghiên cứu tổng thể các văn bản có liên quan để bảo đảm vừa bao quát, vừa thể hiện những đặc thù của ngành, lĩnh vực. Qua đó, tạo điều kiện cho việc sử dụng, bố trí công chức cấp xã là người DTTS.
1.2. Luật Công chứng năm 2014 quy định trường hợp không được bổ nhiệm công chứng viên, trong đó có người bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự (khoản 3 Điều 13). Trên thực tế, có những đối tượng có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi cũng không thể đáp ứng yêu cầu hành nghề công chứng là hoạt động vừa mang trách nhiệm pháp lý, vừa mang trách nhiệm xã hội.
Vì vậy, nên nghiên cứa sửa đổi quy định nói trên theo hướng sau: “Không bổ nhiệm công chứng viên đối với người bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi”.
1.3. Đề nghị sửa đổi tổng thể Nghị định số 55/2011/NĐ-CP về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ chức pháp chế. Trong đó lưu ý một số nội dung:
 Về việc bố trí công chức pháp chế chuyên trách ở các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh (Điều 9), nên quy định trách nhiệm của các cơ quan sử dụng công chức tư pháp, pháp luật bảo đảm bố trí việc làm tương ứng, phù hợp với sự thay đổi của cơ cấu tổ chức các Sở hiện nay.
Về người làm công tác pháp chế (Điều 11), nên làm rõ chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề của công chức, cán bộ và viên chức pháp chế (Điều 12) trong bối cảnh cải cách tiền lương một cách tổng thể.
Về việc thu hút người DTTS vào công vụ nói chung, trong đó có ngành tư pháp, nên làm rõ tính chất của hợp đồng làm việc được ký kết theo chế độ ưu đãi.
1.4. Sửa đổi Thông tư 338/2016/TT-BTC ngày 28/12/2016 của Bộ Tài chính quy định lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác xây dựng văn bản QPPL và hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng bảo đảm sự tương thích của các mức chi với lao động đặc thù trong lĩnh vực tư pháp, pháp luật. Từ đó, góp phần để công chức tập trung vào công việc chuyên môn vốn đòi hỏi sự đầu tư cao về trí tuệ, kiến thức, kỹ năng hành nghề, tránh bị phân tán bởi nhiều thủ tục hành chính không cần thiết và tránh sai phạm vì chính những bất cập của cơ chế tài chính.
1.5. Đề nghị Bộ Tư pháp ban hành Thông tư mới trên cơ sở sửa đổi Thông tư liên tịch số 08/2016/TTLT-BTP-BNV của Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ ngày 23/6/2016 quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức trợ giúp viên pháp lý theo hướng: quy định các tiêu chuẩn về trình độ đào tạo, bồi dưỡng của Trợ giúp viên pháp lý phù hợp với Luật Trợ giúp pháp lý; các chứng chỉ, bằng cấp, tiêu chuẩn phải thật sự cần thiết đối với công việc chuyên môn của Trợ giúp viên pháp lý, khả thi để thu hút NNL trong lĩnh vực này, nhất là tại các vùng đồng bào DTTS.
1.6. Đề nghị Bộ Tài chính ban hành Thông tư hướng dẫn việc trợ cấp cho CBCC cấp xã, người hoạt động không chuyên trách được cấp có thẩm quyền cử đi đào tạo, bồi dưỡng. Trong thời gian đào tạo, bồi dưỡng được hưởng 100% tiền lương và phụ cấp; được cấp 100% tiền học phí và tài liệu của khóa học; được hỗ trợ tiền ăn, tiền thuê nhà ở, tiền xăng xe đi, về cho mỗi kỳ học của khóa đào tạo trong trường hợp nơi đào tạo ở cách xa nhà (trên 20 km).
1.7. Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 5  Nghị định số 138/2020/NĐ-CP ngày 27 tháng 11 năm 2020 của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức theo hướng tăng thêm ưu đãi cho người DTTS và giao cho cơ quan quản lý công chức ở địa phương quyết định mức cộng điểm ưu tiên vào kết quả điểm vòng 2 (không quá 5 điểm) cho người dự tuyển là người DTTS. Cụ thể như sau:
“b) Người dân tộc thiểu số, sĩ quan quân đội, sĩ quan công an, quân nhân chuyên nghiệp phục viên, người làm công tác cơ yếu chuyển ngành, học viên tốt nghiệp đào tạo sĩ quan dự bị, tốt nghiệp đào tạo chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự cấp xã ngành quân sự cơ sở được phong quân hàm sĩ quan dự bị đã đăng ký ngạch sĩ quan dự bị, con liệt sĩ, con thương binh, con bệnh binh, con của người hưởng chính sách như thương binh, con của thương binh loại B, con đẻ của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học, con Anh hùng Lực lượng vũ trang, con Anh hùng Lao động: Được cộng 5 điểm vào kết quả điểm vòng 2.
c) Đối với người DTTS, ngoài điểm ưu tiên theo quy định tại điểm b khoản này, cơ quan quản lý công chức ở địa phương quyết định cộng tối đa thêm 5 điểm ưu tiên vào kết quả điểm vòng 2 theo tiêu chí như sau:
Cộng tối đa 5 điểm trong trường hợp địa bàn cấp tỉnh đáp ứng một trong ba tiêu chí: Có trên 20.000 (hai mươi nghìn) người dân tộc thiểu số sống tập trung thành cộng đồng làng, bản; Có dưới 5.000 (năm nghìn) người dân tộc thiểu số đang cần Nhà nước tập trung giúp đỡ, hỗ trợ phát triển; Có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống ở địa bàn xung yếu về an ninh, quốc phòng; địa bàn xen canh, xen cư; biên giới có đông đồng bào dân tộc thiểu số nước ta và nước láng giềng thường xuyên qua lại.
Đối với cấp huyện, cộng tối đa 5 điểm khi có một trong hai tiêu chí sau: Có ít nhất 5.000 (năm nghìn) người dân tộc thiểu số đang cần Nhà nước tập trung giúp đỡ, hỗ trợ phát triển; Có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống ở địa bàn xung yếu về an ninh, quốc phòng; địa bàn xen canh, xen cư; biên giới có đông đồng bào dân tộc thiểu số nước ta và nước láng giềng thường xuyên qua lại”.
Tương tự như vậy với việc tuyển dụng viên chức theo khoản 1 Điều 6 Nghị định số 115/2020/NĐ-CP ngày 25 tháng 9 năm 2020  về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức.
b) Người dân tộc thiểu số, sĩ quan quân đội, sĩ quan công an, quân nhân chuyên nghiệp phục viên, người làm công tác cơ yếu chuyên ngành, học viên tốt nghiệp đào tạo sĩ quan dự bị, tốt nghiệp đào tạo chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự cấp xã ngành quân sự cơ sở được phong quân hàm sĩ quan dự bị đã đăng ký ngạch sĩ quan dự bị, con liệt sĩ, con thương binh, con bệnh binh, con của người hưởng chính sách như thương binh, con của thương binh loại B, con đẻ của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học, con Anh hùng Lực lượng vũ trang, con Anh hùng Lao động: Được cộng 5 điểm vào kết quả điểm vòng 2.
c) Đối với người DTTS, ngoài điểm ưu tiên theo quy định tại điểm b khoản này, cơ quan quản lý công chức ở địa phương quyết định cộng tối đa thêm 5 điểm ưu tiên vào kết quả điểm vòng 2 theo tiêu chí như sau:
Cộng tối đa 5 điểm trong trường hợp địa bàn cấp tỉnh đáp ứng một trong ba tiêu chí: Có trên 20.000 (hai mươi nghìn) người dân tộc thiểu số sống tập trung thành cộng đồng làng, bản; Có dưới 5.000 (năm nghìn) người dân tộc thiểu số đang cần Nhà nước tập trung giúp đỡ, hỗ trợ phát triển; Có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống ở địa bàn xung yếu về an ninh, quốc phòng; địa bàn xen canh, xen cư; biên giới có đông đồng bào dân tộc thiểu số nước ta và nước láng giềng thường xuyên qua lại.
Đối với cấp huyện, cộng tối đa 5 điểm khi có một trong hai tiêu chí sau: Có ít nhất 5.000 (năm nghìn) người dân tộc thiểu số đang cần Nhà nước tập trung giúp đỡ, hỗ trợ phát triển; Có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống ở địa bàn xung yếu về an ninh, quốc phòng; địa bàn xen canh, xen cư; biên giới có đông đồng bào dân tộc thiểu số nước ta và nước láng giềng thường xuyên qua lại”.
1.8. Sửa đổi, bổ sung Điều 18 Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14 tháng 01 năm 2011 của Chính phủ về công tác dân tộctheo hướng tăng cường số lượng trợ giúp viên pháp lý là người DTTS và biết tiếng DTTS.Đối với báo cáo viên PBGDPL, bổ sung quy định về trách nhiệm và quyền hạn của UBND các địa phương phát huy sự tham gia PBGDPL của người biết tiếng DTTS, người có uy tín trong cộng đồng dân cư, già làng, trưởng bản, chức sắc, chức việc trong các tôn giáo ở vùng đồng bào DTTS. 

II. Hoàn thiện công tác tổ chức thực hiện pháp luật về nâng cao chất lượng và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực là người dân tộc thiểu số ở vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp

2.1. Lồng ghép nội dung về công tác dân tộc trong các Đề án, bảo đảm khả thi
Tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 52/NQ-CP ngày 15 tháng 6 năm 2016 của Chính phủ về đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số giai đoạn 2016 - 2020, định hướng đến năm 2030, có thể nhận thấy: Các địa phương đã ban hành đầy đủ Kế hoạch thực hiện kèm theo các chỉ tiêu cụ thể. Tuy nhiên, nhiều mục tiêu của Đề án chưa có số liệu cụ thể, được đánh giá theo định tính. Phần nhiều địa phương vẫn cho rằng thiếu cán bộ là người DTTS, thiếu nguồn cán bộ quy hoạch, cần nâng cao về số lượng và chất lượng đối với CBCC là người DTTS và cần cơ chế tuyển dụng riêng,chính sách phù hợpđối với người DTTS về công tác tại khu vực miền núi, vùng DTTS.
Công tác dân tộc nói chung và phát triển NNL người DTTS nói riêng là nội dung liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực. Vì vậy, cần đánh giá cụ thể từng chỉ tiêu và định rõ nguyên nhân, gắn với trách nhiệm cụ thể để khắc phục. Như vậy, tránh việc ban hành nhiều Đề án nhưng không khả thi.Nên lồng ghép đào tạo cán bộ là người DTTS trong Đề án đào tạo CBCC cấp cơ sở theo định hướng chung về đào tạo nhân lực các vùng, miền và nhóm đặc thù[1].
Hiện nay, chế độ, chính sách đối với CBCC được đào tạo, bồi dưỡng được quy định trong nhiều văn bản của các cơ quan nhà nước Trung ương. Trong đó, có sự khác biệt về đối tượng (CBCC các cấp; theo ngành, lĩnh vực; người DTTS; sinh viên thuộc diện cử tuyển sau khi tốt nghiệp có đăng ký tuyển dụng làm công chức xã …) và đồng thời, theo tiêu chí địa bàn (vùng có đồng bào DTTS, vùng kinh tế- xã hội khó khăn, khu vực biên giới...). Thực hành tiết kiệm và để thuận lợi khi triển khai, nên kết hợp các hoạt động khảo sát, đánh giá nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng; đồng thời, có hướng dẫn thống nhất của Bộ Tài chính về sử dụng kinh phí hỗ trợ từ Ngân sách trung ương cho ngân sách địa phương từ nguồn chi sự nghiệp đào tạo; về lồng ghép nguồn kinh phí đào tạo, bồi dưỡng CBCC theo Nghị định số 101/2017/NĐ-CP và Nghị định số 89/2021/NĐ-CP, kết hợp nguồn kinh phí từ các Chương trình, Đề án, Dự án quốc gia liên quan đang triển khai thực hiện trên địa bàn tương ứng.
2.2. Về cán bộ pháp chế và các chức danh trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp
Yêu cầu với đội ngũ cán bộ pháp chế là tính chuyên nghiệp, kỹ năng phân tích, dự báo xây dựng chính sách, áp dụng pháp luật. Từ đó, cần xác định vị trí việc làm của người làm công tác pháp chế chuyên trách. Đối với công chức là người DTTS, nên có quy định mở để các cơ quan sử dụng xem xét, áp dụng phù hợp.
Hiện nay, đa số các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh không còn Phòng Pháp chế. Một số nhiệm vụ về pháp luật và tư pháp (rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL, hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, theo dõi tình hình thi hành pháp luật, bồi thường Nhà nước…) vẫn do cơ quan tư pháp cấp tỉnh thực hiện nhưng không được bố trí biên chế. Nên có hướng dẫn về biên chế cho những vị trí việc làm này, kể cả người DTTS.
Như đã nêu, tiêu chuẩn về chất lượng CBCC, viên chức là những quy định mang tính áp dụng chung. Vì vậy, việc quan tâm, ưu tiên, hỗ trợ để phát triển NNL người DTTS phụ thuộc nhiều vào cơ quan quản lý, sử dụng. Từ đó, cần tăng cường trách nhiệm của các cấp ủy về công tác quy hoạch (trong đó có rà soát, dự nguồn quy hoạch chức danh lãnh đạo chủ chốt), đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức, các chức danh trong lĩnh vực tư pháp và pháp luật, nhất là lực lượng trẻ, người DTTS.
 2.3. Về cơ sở đào tạo, bồi dưỡng
Hiện thực hoá chủ trương xây dựng Trường Đại học Luật Hà Nội, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh thành các trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật và Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn về đào tạo cán bộ tư pháp, trong đó lưu ý vấn đề giảng dạy, học tập của người DTTS.
Cần nghiên cứu một cách đồng bộ các yếu tố từ học liệu, cơ sở vật chất đến con người, kết hợp cả học tập trung và trực tuyến trên diện rộng. Nên nghiên cứu chương trình, tài liệu bồi dưỡng riêng, phù hợp với đặc điểm của đội ngũ CBCC xã khu vực biên giới đất liền.
Chú trọng đánh giá chất lượng đào tạo, bồi dưỡng dựa trên tiêu chí thiết thực về tính đáp ứng với nhu cầu công việc.
Với đặc thù về nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng nhân lực PLTP, rất cần duy trì các trường luật thuộc Bộ Tư pháp, trong đó có Trường Cao đẳng Luật miền Bắc, Cao đẳng Luật miền Trung. Vai trò của các Trường Cao đẳng này trong bồi dưỡng nghiệp vụ tư pháp nên được làm rõ như những dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu.
2.4. Về chính sách cử tuyển
Để phát triển NNL người DTTS, nên hướng nghiệp học sinh DTTS sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở và các cấp học khác để tạo nguồn cán bộ gắn với nhu cầu sử dụng của địa phương, trong đó có công chức pháp luật và tư pháp; tăng tính dự báo trong công tác xây dựng kế hoạch đào tạo, tạo sự gắn kết giữa đào tạo và tuyển dụng, tránh việc sinh viên tốt nghiệp ra trường mà không có cơ hội việc làm. Có thể tăng chỉ tiêu và mức hỗ trợ cho các trường dân tộc nội trú, thực hiện cử tuyển học sinh nghèo DTTS ở cả vùng II, vùng I (vì vùng III rất ít hoặc không có con em đồng bào tốt nghiệp phổ thông trung học).Đặc biệt lưu ý 16 dân tộc rất ít người (dưới 10.000 người) ở 194 thôn, bản trên địa bàn 93 xã thuộc 37 huyện của 12 tỉnh.
2.5. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về CBCC, viên chức trong đó có người DTTS để các cơ quan chức năng, ngành tư pháp có căn cứ hoàn thiện chính sách cán bộ DTTS về tư pháp, pháp luật./.
 
[1]Quyết định số 579/QĐ-TTg ngày 19 tháng 4 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủphê duyệt Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020.