LUẬT TRỢ GIÚP PHÁP LÝ VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN LUẬT
Sign In

LUẬT TRỢ GIÚP PHÁP LÝ VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN LUẬT

Luật trợ giúp pháp lý sửa đổi 2017 có hiệu lực từ tháng 1 năm 2018 đã thay thế bản 2006. Theo nhiệm vụ của đề tài, các nội dung nghiên cứu được đặt ra  là tác động của Luật TGPL theo các chủ đề Luật bình đẳng giới, luật hôn nhân và gia đình, và luật phòng chống bạo lực gia đình.
Các nội dung nghiên cứu về hoạt động trợ giúp pháp lý có thể thấy rõ hơn khi xem xét sự thay đổi luật TGPL năm 2006 và phiên bản sửa đổi 2017. Điều 27 của Luật 2017 cho thấy có 4 loại hoạt động trợ giúp pháp lý là tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng hình sự, tham gia tố tụng dân sự và trợ giúp khác, theo đó chỉ có Luật sự và Trợ giúp viên pháp lý của TT TGP NN được thực hiện tất cả các loại hình. CTV của TT TGPL NN và tư vấn viên của các tổ chức khác chỉ được tham gia tư vấn pháp luật (xem Bảng 1).
Các tổ chức và các cá nhân có thẩm quyền được trợ giúp pháp lý được Sở tư pháp Quảng Bình công bố trên trang mạng của Sở. Số điện thoại đường dây nóng về TGPL của Sở và thời gian hoạt động cũng được công bố trên trang mạng[1]
Bảng 1. Các hoạt động trợ giúp pháp lý và thẩm quyền thực hiện
Tham khảo các Điều 27-31 Luật TGPL, 2017
Loại hoạt động trợ giúp Người được tham gia Nội dung trợ giúp
Tư vấn pháp luật
 
Luật sư, Trợ giúp viên pháp lý TT TGPL NN, Cộng tác viên của TT TGPL nhà nước, Tư vấn viên pháp luật của các tổ chức ngoài TT TGPL NN Hướng dẫn, giải đáp, đưa ra ý kiến, cung cấp thông tin pháp luật;
Giúp soạn thảo văn bản liên quan đến vụ việc trợ giúp pháp lý.
Tham gia tố tụng hình sự Luật sư, Trợ giúp viên pháp lý TT TGPL NN
 
Bào chữa cho người được trợ giúp pháp lý là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;
Bảo vệ quyền lợi của người được trợ giúp pháp lý là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự.
Tham gia tố tụng dân sự Luật sư, Trợ giúp viên pháp lý TT TGPL NN Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính
Đại diện ngoài tố tụng Luật sư, Trợ giúp viên pháp lý TT TGPL NN Đại diện ngoài tố tụng cho người được trợ giúp pháp lý khi họ không thể tự bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Hình thức trợ giúp pháp lý khác Luật sư, Trợ giúp viên pháp lý TT TGPL NN Giúp đỡ hoà giải, thực hiện những công việc liên quan đến thủ tục hành chính, khiếu nại

3.1. Sự thay đổi khái niệm trợ giúp pháp lý

So với phiên bản 2006, Luật trợ giúp pháp lý 2017 thay đổi cơ bản về hướng tác động. Trước kia, luật thiên về bảo vệ quyền và đảm bảo công bằng, công lý, phiên bản mới đặt vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân và tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật- nội dung cơ bản của khảo sát.
Bảng 2. So sánh khái niệm trợ giúp pháp lý phiên bản 2006 và 2017 của Luật trợ giúp pháp lý
Điều 3. Trợ giúp pháp lý
Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này, giúp người được trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp củamình, nâng caohiểu biếtpháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật. - Luật TGPL 2006
Điều 2. Trợ giúp pháp lý
Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý trong vụ việc trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật.- Luật TGPL 2017

3.2. Mở rộng đối tượng trợ giúp pháp lý

Phiên bản 2006, Điều 10 của Luật TGPL quy định 4 nhóm người được trợ giúp, trong đó có hai nhóm người nghèo và người DTTS, còn phiên bản 2017, ở Điều 7, Luật mở rộng ra 7 nhóm, trong đó vẫn còn các nhóm cũ, và các nhóm mới bao gồm trẻ em, những người khó khăn và tài chính, và hai nhóm người đang bị buộc tội là trẻ em 16-18 và người trong các hộ cận nghèo. Mục 7 (e) của Điều 7 nêu rõ nạn nhân bạo lực gia đình, khi không có điều kiện tài chính thuộc nhóm người được trợ giúp pháp lý theo Luật.
Ngành TGPL biết rõ nhóm khách hàng mà họ phục vụ. Theo Sở tư pháp[2], tỉnh Quảng Bình có 8 huyện, thị xã, thành phố với 159 xã, phường, thị trấn; dân số vào khoảng 882.505 người, trong đó có 24.499 người dân tộc thiểu số; 76.503 người nghèo và hơn 45.000 người khuyết tật (19.881 người khuyết tật được hưởng chính sách bảo trợ xã hội) là đối tượng được trợ giúp pháp lý (TGPL) miễn phí theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017.

3.3. Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước

Ở Quảng Bình, TT TGPL Nhà nước được tổ chức từ 1998, trước khi có luật TGPL phiên bản 1.Theo Điều 10 của Luật TGPL 2017, cơ quan trợ giúp của nhà nước là Trung tâm TGPL nhà nước và các chi nhánh.Theo Điều 11, Sở tư pháp Quảng Bình đã tổ chức các chi nhánh và công bố thông tin về các chi nhánh của TT TGPL nhà nước và các trợ giúp pháp lý viên[3].Số người trợ giúp viên có 9 người, trong đó có 5 nữ. Trong 5 nữ, chỉ có một Trợ giúp viên pháp lý, còn lại là viên chức pháp lý- là những người còn chưa đủ tiêu chuẩn và được công nhận theo luật. Cũng có thể thấy, thông tin về nhân sự của Trung tâm TGPL Nhà nước của Quảng Bình trên trang của Bộ tư pháp[4] với thông tin liên lạc chi tiết của từng nhân viên.
Theo Điều 47 Điều khoản thi hành, các trợ giúp viên pháp lý được tiếp tục hoạt động. Ở Quảng Bình, Sở Tư pháp cho biết số Chi nhánh của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước đã được xem xét và thu gọn. Với huyện Quảng Ninh, nhu cầu trợ giúp pháp lý được biết sẽ được TT TGPL tỉnh đặt tại Đồng Hới thực hiện thay vì trước kia là một chi nhánh ở huyện.
Theo Sở tư pháp QB, khi tổng kết 20 năm hoạt động, cũng vào thời điểm luật TGPL mới được thông qua[5], ở QB có 5 chi nhánh TGPL hoạt động ở các huyện. Trung tâm TGPL nhà nước QB đã ký hợp đồng cộng tác với 190 cộng tác viên; có 10 tổ chức hành nghề luật sư đăng ký tham gia TGPL. Ở các cơ sở có 58/159 xã, phường, thị trấn thành lập Câu lạc bộ TGPL.Số vụ việc được giải quyết trong 20 năm qua, hơn 35.000 vụ việc, trong đó gần 2.000 vụ việc tham gia tố tụng , phần nhiều liên quan tới đất đai, ví dụ tranh chấp đất đai, giải phóng mặt bằng. Như vậy, ở phạm vi tỉnh, trung bình một năm có 100 vụ TGPL liên quan tới tố tụng, nếu tính cho một huyện thì trung bình 20 vụ một năm- đây vừa là định mức cho một trợ giúp viên đạt chỉ tiêu tốt mà có kinh nghiệm từ 3- 5 năm theo quy định công bố 28/12/2018 của Bộ tư pháp[6].
Theo trang mạng của Sở tư pháp, năm 2019 TT TGPL NN tỉnh QB đã thụ lý, cử người tham gia tố tụng thực hiện TGPL 152 vụ việc cho 152 đối tượng[7]. Trong đó, trợ giúp viên pháp lý thực hiện 149 vụ việc (chiếm 98%), luật sư là cộng tác viên thực hiện 03 vụ việc (chiếm 2%). Trong 152 vụ việc, có 127 vụ việc thuộc lĩnh vực tố tụng hình sự; 20 vụ việc thuộc lĩnh vực tố tụng dân sự, hôn nhân và gia đình; 05 vụ việc thuộc lĩnh vực tố tụng hành chính. Các đối tượng được TGPL có 44 đối tượng là người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, 15 đối tượng là trẻ em, 18 đối tượng là người nghèo, 25 đối tượng là người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo, 16 đối tượng là người có công với cách mạng, 18 đối tượng là người dân tộc thiểu số cư trú tại vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn, 01 đối tượng là người cao tuổi có khó khăn về tài chính, 10 đối tượng là người khuyết tật có khó khăn về tài chính, 02 đối tượng là người bị nhiễm chất độc da cam có khó khăn về tài chính, 02 đối tượng là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là bị hại trong vụ án hình sự, 01 đối tượng là vợ của liệt sỹ có khó khăn về tài chính.
Ngày 27/12/2019, Cổng thông tin điện tử của chính quyền tình Quảng Bình cho biết trong năm, như một phần của Đề án 448 về chống tảo hôn và hôn nhân cận huyết Trung tâm TGPL Nhà nước tỉnh đã thực hiện trợ giúp pháp lý nhiều hơn số liệu của Sở Tư pháp (192 trường hợp), trong đó có các đối tượng là trẻ em, người từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, người dân tộc thiểu số. TT thực hiện nhiều hoạt động truyền thông như; lắp đặt Bảng thông tin về trợ giúp pháp lý tại UBND các xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn. Tại các điểm truyền thông, Trung tâm đã giới thiệu tuyên truyền, phổ biến chuyên đề pháp luật về trợ giúp pháp lý cho hơn 2.227 lượt người tham gia, cấp phát miễn phí nhiều tờ rơi, tờ gấp, sách bỏ tủ pháp luật cho người dân, trong đó có nhiều nội dung liên quan đến tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống.
Hiện tại, quy mô hoạt động TGPL dường như đã thu hẹp mạnh mẽ. Số chi nhánh TT TGPL giảm tư 5 xuống còn 3.Trong một cuộc trao đổi bút đàm, một văn phòng luật sư của tỉnh cho biết, Sở tư pháp hiện tại mới ký hợp đồng mới theo Luật TGPL 2017 với 3 văn phòng luật sư trong số 17 văn phòng luật sư và ba công ty luật đang hoạt động của tỉnh.

3.4. Các tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý

Điều 12 của Luật 2017 quy định các tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật có thể tham gia trợ giúp pháp lý và họ thực hiện hoạt động này thông qua hợp đồng hợp đồng trợ giúp pháp lý với Sở tư pháp.
Theo Điều 21 Luật TGPL 2017, không còn các chức danh các tư vấn viên pháp luật và cộng tác viên tư vấn pháp luật, mà chỉ có chức danh Trợ giúp viên pháp lý là viên chức nhà nước, làm việc tại Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, được Sở Tư pháp cấp giấy chứng nhận hoạt động. Ngoài trợ giúp viên pháp lý, theo điều 20 của Luật, những người tham gia trợ giúp pháp lý còn có luật sự, cộng tác viên của TT TGPL nhà nước, và tư vấn viên của các tổ chức tư vấn pháp luật. Mới đây, 28/4/2020, Bộ Tư pháp vừa công bố Quy tắc Nghề nghiệp Trợ giúp pháp lý[8], có hiệu lực từ 15/6/2020.Theo Cục trợ giúp pháp lý (Bộ tư pháp), các quy tắc nghề nghiệp được xây dựng trên các chuẩn mực tham khảo từ kinh nghiệm của Scotland và các quy tắc hoạt động luật sư quốc tế[9].
Với các văn phòng luật sư, có ba văn phòng được Sở tư pháp hiện tại đang ký hợp đồng về trợ giúp pháp lý theo luật TGPL 2017. Danh sách các luật sư được ký hợp đồng được công bố trên trang mạng của Sở[10].Theo Luật sư Hồ Lý Hải là một trong số được ký hợp đồng, sô vụ việc được luật sư trợ giúp năm 2019 dưới một chục vụ, trong đó chủ yếu là về đất đai.
Theo Luật TGPL 2006, ngoài TT TGPL NN, có các tổ chức tư vấn pháp luật thuộc tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp. Ở Luật sửa đổi, không còn ràng buộc này, và mở rộng diện tham gia cho mọi tổ chức tư vấn pháp luật tự nguyện đủ điều kiện quy định ở Điều 14. Như Điều 6 của Luật 2017 quy định “kinh phí cho hoạt động trợ giúp pháp lý của tổ chức tự nguyện thực hiện do tổ chức đó tự bảo đảm.”Được biết, đến nay chưa có hướng dẫn cụ thể về việc thành lập và đăng ký và chưa có các tổ chức kiểu mới này đăng ký thành lập.  Ở Quảng Bình, lãnh đạo Trung tâm tư vấn pháp luật của Hội Phụ nữ cho biết họ vẫn hoạt động như cũ khi chưa có hướng dẫn khác của Sở Tư pháp.
Khi tới thăm, tuy chưa có hợp đồng với Sở tư pháp, Trung tâm này hoạt động kiêm nhiệm với văn phòng và nhân lực của Ban Chính sách và pháp luật của HPN tỉnh. Báo cáo năm 2018 cho biết TT có 3 tư vấn viên pháp luật[11] ở trụ sở là cán bộ kiêm nhiệm của Ban Pháp luật chính sách thuộc tỉnh hội. Trung tâm còn có đội ngũ 22 cộng tác viên tư vấn pháp luật là cán bộ ở các sở ban ngành và cán bộ hội ở thành phố, huyện thị trong tỉnh. Năm 2018, báo cáo của TT tư vấn pháp luật HPN tỉnh QB cho viết đã giải quyết 8 vụ việc, trong đó có 5 vụ việc về hôn nhân gia đình, 2 vụ việc về BLGĐ, và 1 vụ việc về xâm hại tình dục trẻ em. Tất cả có 19 lượt người được tư vấn.
Tính cho tới thời điểm 18/6/2010 trên trang mạng của Sở tư pháp, phần nói về các tổ chức được thực hiện trợ giúp pháp lý không thấy tên các các tổ chức trợ giúp tự nguyện, kể cả Trung tâm tư vấn pháp luật của HPN tỉnh.

3.5. Trợ giúp pháp lý trong hôn nhân và gia đình

Trong hôn nhân và gia đình ở khu vực khảo sát, các vụ việc trong hôn nhân và gia đình chủ yếu được giải quyết bằng con đường không chính thức hoặc theo luật tục. Do ít thực hiện theo con đường chính thống, các hoạt động trợ giúp pháp lý về hôn nhân và gia đình cũng thưa thớt. Một ví dụ là xã Lâm thủy, theo cán bộ tư pháp, trong ba năm 2018-2020 không có yêu cầu trợ giúp pháp lý nào; cả xã có 2 vụ việc ly hôn ở tòa trong năm 2019, và cả hai vụ đều do nữ chủ động đứng đơn: một vụ do chồng rượu chè, cờ bạc và một vụ được nêu lý do là hai bên không hợp nhau. Cán bộ tư pháp ở đây cũng cho biết, với tảo hôn có quy định về xử phạt hành chính, nhưng không có trường hợp nào thực hiện. Cũng được biết các hộ nghèo, dân tộc thiểu số và các hộ chính sách, khuyết tật được miễn án phí khi tố tụng.

3.6. Trợ giúp pháp lý trong bạo lực gia đình

Pháp luật Việt nam bảo vệ sức khỏe và thân thể của công dân theo Bộ Luật dân sự 2015 quy định  ở Điều 33 về “Quyền sống, quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể”, cụ thể là ở Tiết (1”: “Cá nhân có quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, thân thể, quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật”. Hành vi này có thể xử phạt hành chính theo Điều 5 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống, chống bạo lực gia đình, với mức phạt lên tới hai hay ba triệu đồng vì hành vi “xâm hại hoặc thuê người khác xâm hại đến sức khỏe của người khác”. Theo Điều 155, 158 Bô luật Hình sự 2015, sửa đổi 2017, ngươì xâm hại có thể bị tù với các mức khác nhau, ví dụ với các mức độ thương tổn cơ thể, ví dụ từ 31% trở lên. Mức phạt tù cao nhất có thể tới 5 năm.
Trên thực tế, cán bộ các tổ chức chính quyền và đoàn thể cũng như các người đã gặp đều cho thấy, chưa có trường hợp nào, các thành viên trong cộng đồng vận tới các quy định pháp luật này, cũng như tìm đến trợ giúp pháp lý để thực hiện các hành động pháp lý liên quan.
Các Ban hòa giải ở các thôn bản được tổ chức ở các thôn bản thường có vai trò trong giải quyết các va chạm giữa các thành viên trong gia đình và cộng đồng, mà cũng rất ít các vụ việc liên quan tới bạo lực gia đình. Ban hòa giải có thành phần bao gồm đại diện lãnh đạo đảng (bí thư chi bộ thôn, chính quyền (trưởng thôn), người phụ trách an ninh (công an viên hay thôn đội) và các đoàn thể như HPN và đoàn thanh niên, như là một ví dụ, thành phần của Tổ Hòa giải ở Bản Khe Sung (Ngân Thủy). Ở bản này, từ năm 2017 đến hiện tại, trong 44 hộ, chỉ có ba vụ hòa giải, mỗi năm một vụ của ba năm gần đây. Các vụ này có hai liên quan tới phân chia ranh giới đất rẫy, một vụ liên quan tới tai nạn xe máy, không có vụ nào liên quan hôn nhân gia đình, hay bạo lực gia đình. Trưởng bản thuần Vân Kiều này cho biết, chỉ có hai hộ thỉnh thoảng có lời qua lại giữa hai vợ chồng, thường sau khi người chồng đi uống rượu về “đập chắc[12]” nhưng họ tự giải quyết với nhau.
Cán bộ tư pháp ở xã Ngân thủy, ví dụ, cho biết tổ hòa giải có mặt và hoạt động ở tất cả 6 thôn bản trong xã. Theo chương trình hoạt động của các tổ hòa giải thì mỗi năm họ có thể tổ chức hội thi, nhưng do chi phí cỡ 2-5 triệu đồng cho một sự kiện vượt khả năng của ngân sách địa phương, nên ngành tư pháp thường không đề xuất. Tổ hòa giải hoạt động có ngân sách xã yểm trợ: với một cuộc hòa giải thành công, tổ được hưởng phụ cấp 50.000đ. Kinh phí này được xã dự án là 3 triệu đồng một năm cho cả xã.
Cuộc thảo luận ở Bản Xà Khía (Lâm Thủy) cho thấy có một dạng hòa giải theo luật tục. Khi người chồng cư xử tệ với vợ, ví dụ mắng chửi, đánh đập, người phụ nữ có thể “bỏ chạy” về bên ngoại. Khi đó người chồng, có thể cùng với các bậc bề trên, như cha mẹ chú bác, có thể mang lễ qua bên ngoại xin lỗi. Được kể lễ gồm hai chai rượu, một chai là bày tỏ xin lỗi họ nhà vợ, và một chai xin lỗi vợ. Khi lễ được nhận là việc xin lỗi được chấp nhận, nhà trai đưa con dâu về lại nhà.

3.7. Truyền thông và giáo dục pháp luật

Ở cấp huyện, hoạt động truyền thông và giáo dục pháp luật do nhiều ngành thực hiện. Đầu mối quản lý kinh phí là Hội đồng phổ biến pháp luật.  Kinh phí phổ biến pháp luật do phòng Tài chính quản lý được phân bổ theo yêu cầu của các ngành và tổ chức đoàn thể. Các ngành được nêu là đã đề nghị cấp kinh phí cho các sự kiện truyền thông là tư pháp, văn hóa, kiểm lâm, công an và HPN.
Nguồn tài liệu truyền thông có đa dạng, ví dụ tài liệu in, băng đĩa hoặc file ghi âm ghi hình được nhận từ ngành tư pháp cấp trên. Các đơn vị có thể nhận từ các trang mạng chính thức của ngành tư pháp của của ngành mình. Trên các trang mạng của UBND các cấp huyện và của tỉnh cũng có những tài liệu truyền thông có thể được sử dụng.
Phòng Tư pháp, ví dụ ở huyện Lệ thủy, cho biết do kinh phí để truyền thông có hạn, các hoạt động truyền thông thường được lồng ghép khi giao ban, trong các hội nghị khác nhau. Các chương trình phát thanh và truyền hình của huyện và xã cũng được coi là những kênh truyền thông và giáo dục pháp luật, bao gồm cả hệ thống loa phát thanh thôn bản. Các tệp tin ghi âm tỏ ra là được dùng hữu hiệu khi các cán bộ có thể gửi cho nhau qua điện thoại để dùng truyền thông qua các loa truyền thanh thôn bản .
Hộp 1. Chương trình đối tác SNV – HPN nhằm thúc đẩy bình đẳng giới
Ở khu vực hai huyện dự án Quảng Ninh và Lệ Thủy, tổ chức SNV đang có những hoạt động tích cực xây dựng năng lực cho cán bộ của HPN cấp tỉnh để thực hiện chương trình thúc đẩy bình đằng giới, phòng chống bạo lực gia đình trong nông nghiệp. Lãnh đạo HPN huyện Quảng Ninh cho biết hai cán bộ của Ban Chính sách và pháp luật của tỉnh hội đã được đào tạo thành cán bộ nguồn để tập huấn và thực hiện các hoạt động của chương trình này nhằm bảo đảm thực hiện cả ba luật bình đẳng giới, PCBL GĐ và hôn nhân và gia đình, nhưng chỉ ở các xã được chọn làm dự án, chủ yếu ở đồng bằng.
Trong chương trình của mình, SNV làm việc với các HTX nông nghiệp để chọn ra khoảng một chục gia đình nòng cốt từ các xã viện, đào tạo các thúc đẩy viên,khoảng năm sáu người một xã. Họ khảo sát tình trạng ban đầu và cùng lập kế hoạch thay đổi ở mỗi gia đình nòng cốt theo các nội dung về chia sẻ việc nhà, cùng tham gia các quyết định, nhất là tài chính trong gia đình. Các gia đình nòng cốt theo dõi những thay đổi và ghi chép, rồi cùng chia sẻ kết quả với cộng đồng. Các hoạt động truyền thông lớn của chương trình là các ngành hội truyền thông, có cả triển lãm ảnh dạng photovoice” phản ảnh sự thay đổi ở các gia đình nòng cốt, theo các chuyên đề với khoảng một ngàn người tham gia một sự kiện.
Nhận xét về tính bền vững của chương trình, HPN huyện Quảng Ninh cho biết năng lực cán bộ hội được cải thiện rõ rệt. Trong các gia đình ở các cộng đồng dự án đã có những thay đổi tích cực có thể quan sát được. Tuy vậy, việc duy trì và mở rộng kết quả của chương trình là một thách thức do HPN không có kinh phí để tổ chức các hoạt động như vậy về lâu dài ở vùng dự án, cũng như ở các địa bàn khác.

3.8. Tiếp cận thông tin pháp luật

Với phụ nữ Vân Kiều, tiếp cận thông tin pháp luật có thể có nhiều kênh, nhưng tìm thông tin trực tiếp hỗ trợ pháp lý đơn giản nhất là qua internet. Với kênh này việc tiếp cận các thiết bị internet cầm tay, ví dụ smart phone là điều kiện quan trọng.
Các nhóm thảo luận ở các thôn cho cảm nhận về mức độ khác nhau trong việc sở hữu smart phone. Có nhóm hầu hết mọi người đều có, nhưng cũng có nhóm đa số không có hoặc dùng điện thoại “cục gạch” không tiếp cận được internet.
Phụ nữ khi có smartphone họ đều biết dùng để tìm thông tin cho nhu cầu của mình ví dụ giá cả thị trường, bài hát giải trí. Nếu cần thiết, họ cũng có thể đưa ra các câu hỏi để tìm thông tin trợ giúp pháp lý. Chủ tịch HPN xã Ngân Thủy cho biết “người dân biết nhiều về các chính sách chế độ qua các kênh thông tin và họ chủ động đi hỏi đề nghị giải quyết”. Tuy nhiên chị nhận xét “điều này chủ yếu phổ biến ở người Kinh” những người tiếp xúc nhiều với TV, internet và có quan hệ xã hội rộng.
Nghiên cứu này ghi nhận các đoàn thể phụ nữ xã và huyện đã có những tài khoản riêng ở mạng xã hội, ví dụ HPN xã Trường Sơn, hay huyện Quảng Ninh[13]. Họ có thể dùng các kênh này để truyền thông theo các chủ đề liên quan tới nội dung bình đẳng giới, hôn nhân và gia đình, và bạo lực gia đình./.
 
[11]Báo cáo 10/2018 của TT tư vấn pháp luật HPN tỉnh QB cho biết ba tư vấn viên pháp luật đã được Sở Tư pháp cấp thẻ từ tháng 11/2013.
[12] Từ địa phương- nghĩa là “đánh nhau’.