TÁC ĐỘNG CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP PHÁP LÝ TỚI LUẬT BÌNH ĐẲNG GIỚI, LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH VÀ LUẬT PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH
Sign In

TÁC ĐỘNG CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP PHÁP LÝ TỚI LUẬT BÌNH ĐẲNG GIỚI, LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH VÀ LUẬT PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH

Một cuộc đánh giá định tính tác động của Luật Trợ giúp pháp lý với hệ quả của ba luật liên quan tới bình đẳng giới là Luật bình đẳng giới, Luật Hôn nhân và gia đình và Luật phòng chống bạo lực gia đình và đưa ra những khuyến nghị chính sách tương ứng dựa vào bằng chứng đã được thực hiện bởi Quỹ Phát triển Nông thôn và Giảm nghèo huyện Quảng Ninh (RDPR) trong khuôn khổ dự án “Thúc đẩy tiếp cận công lý về hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới và phòng chống bạo lực gia đình cùng cộng đồng người nghèo và dân tộc thiểu số " do thực hiện với tài trợ của Chương trình sáng kiến tư pháp (JIFF) trong hai năm 2019-2020.
Địa bàn khảo sát là bốn trong 5 xã dự án là các địa bàn có cộng đồng Vân Kiều cư trú thuộc huyện Quảng Ninh (Trường Sơn và Trường Xuân) và Lệ thủy (Kim Thủy và Ngân Thủy). Ngoài các nguồn thứ cấp, thông tin cho đề tài được thu thập và phân tích theo tiếp cận định tính qua các cuộc thảo luận nhóm tập trung với nữ và nam, các cuộc phỏng vấn linh hoạt với các cán bộ quản lý các ngành liên quan và các cuộc phỏng vấn sâu với phụ nữ trong các hoàn cảnh có bất bình đẳng giới và bạo lực gia đình.
Được biết nghèo đói làm tăng rủi ro của bạo lực đối với phụ nữ mà trừ xã Trường Xuân thuộc khu vực II, các xã tham gia nghiên cứu đều thuộc khu vực III, có nghĩa là thuộc nhóm các xã thuộc khu vực miền núi đặc biệt khó khăn, có tỷ lệ hộ nghèo đói cao. Ở khu vực dự án, tỷ lệ nghèo và cận nghèo kéo dài ở mức cao, tốc độ giảm hầu như không đáng kể, đặc biệt ở các thôn bản thuần Vân Kiều. Những yếu tố quan trọng đưa tới nghèo đói là thiếu đất sản xuất, với phụ nữ là họ không tiếp cận được thị trường lao động do học vấn thấp và ràng buộc với trách nhiệm (đi liền lao động không trả lương) chăm sóc trẻ em và người thân. Nhiều gia đình người nghèo thiếu các phương tiện thuộc nhóm nhu cầu cơ bản với phụ nữ như nước sạch và nhà vệ sinh.
Ở các cộng đồng tham gia khảo sát, mặc dù có nhiều cải thiện về bình đẳng giới qua các thế hệ, hiện tại phụ nữ chịu bất bình đẳng về nhiều mặt. Họ tham gia không bình đẳng trong bộ máy chính quyền, và ít có cơ hội tham gia thị trường lao động. Phụ nữ tham gia sinh hoạt cộng đồng phổ biến hơn nam giơi do giá trị giờ làm việc của họ “rẻ”. Hiện tượng tảo hôn và hôn nhân không đăng ký với pháp luật, kể cả khi chưa làm xong thủ tục ly hôn, khá phổ biến.Hầu hết phụ nữ báo cáo về tình trạng bạo lực với phụ nữ, cả thể chất và tinh thần. Luật tục và phong tục tập quán có nhiều điều bất bình đẳng với phụ nữ sau khi kết hôn thực tế hoặc chính thức.

1. Thực thi Luật TGPL và các luật liên quan về giới, hôn nhân và gia đình và phòng chống BLGĐ

Cuộc khảo sát ghi nhận hoạt động TGPL, bao trùm nhiều bộ luật, nhưng với các luật bình đẳng giới, hôn nhân và gia đình và phòng chống bạo lực, có tác động ở những mức độ khác nhau. Với tính chất định tính, quy mô và thời gian của cuộc khảo sát này, những đề xuất chính sách có tính chất gợi mở cho những cuộc thảo luận ở các diễn đàn về bình đẳng giới, hôn nhân và gia đình, và phòng chống BLGĐ.
Luật TGPL trợ giúp pháp lý 2006 khuyến khích các đoàn thể, trong đó có HPN, tổ chức các trung tâm tư vấn pháp luật, trong khi đó Luật 2017 khuyến khích các thành lập các tổ chức TGPL tự nguyện, ngoài nhà nước,  nhưng chưa có hướng dẫn thực hiện. Các vụ việc TGPL theo  luật bình đẳng giới, hầu như không có, nhu cầu trợ giúp theo luật hôn nhân và gia đình chủ yếu là các vụ ly hôn, và liên quan tới luật phòng chống BLGD, các hoạt động TGPL thực hiện ở dạng không chính thức qua các tổ hòa giải ở cơ sở và hỗ trợ phụ nữ tạm lánh ở các “địa chỉ tin cậy”.
Luật TGPL được phê duyệt năm 2017, mới có hiệu lực từ đầu năm 2018, và đang được ngành tư pháp địa phương triển khai thực hiện, vì vậy còn quá sớm để có thể đưa ra những khuyến nghị điều chỉnh luật.Tuy vậy, có thể đưa ra đề nghị liên quan thực hiện luật trong quan hệ tới các luật liên quan bình đẳng giới và dân tộc thiểu số. Hiện tại, những kết quả thực hiện TGPL hàng năm của Trung tâm TGPL NN và các cơ quan có cùng nhiệm vụ còn được tập hợp theo các đạo luật hình sự , dân sự, ví dụ những vụ việc liên quan tới xét xử về hôn nhân hay bạo lực gia đình.
Hiện tại các thông tin ngành tòa án công bố và ly hôn thường không tách bạch nguyên nhân riêng biệt ví dụ như bạo lực gia đình (có thể chi tiết về bạo lực thể chất, tình dục, tâm lý, và xã hội hoặc hỗn hợp),ngoại tình, bất đồng về lối sống, xung động giữa các thế hệ (ví dụ con dâu-mẹ chồng), một bên bỏ đi mất liên lạc. Cũng nên có thông tin về phía chủ động đứng đơn ly hôn, ví dụ nam chủ động đứng tên, nữ chủ động đứng tên, hoặc cả hai. Cũng nên có thông tin tách bạch cho cộng đồng DTTS và khu vực nông thôn-đô thị. Thông tin chi tiết hơn như vậy giúp theo dõi sự cải thiện bình đẳng giới, hay tiến bộ về hôn nhân gia đình và phòng chống BLGĐ, và dự án nên đưa nội dung này để vận động ngành tòa án thực hành quản lý thông tin, giúp công dân tiếp cận thông tin tốt hơn.
Cuộc khảo sát ghi nhận ở các địa phương đang diễn ra tiến trình cải cách tổ chức chính quyền, trong đó bao gồm cả bộ máy của ngành tư pháp; số trung tâm TGPL và số nhân viên đang giảm đáng kể. Tuy vậy, vẫn có thể bảo đảm duy trì hiệu quả của hoạt động TGPL, thông qua thúc đẩy hiệu quả của hoạt giáo dục pháp luật và phát huy hệ thống hòa giải cũng như vai trò hỗ trợ của các tổ chức đoàn thể ở cộng đồng và chính quyền cấp thôn bản. Bản thân kết quả cải thiện bình đẳng giới, thể hiện qua các chỉ báo giảm thiểu các vụ việc tư pháp liên quan tới hôn nhân và gia đình và bạo lục gia đình có khả năng giúp giảm tải mạnh mẽ cho ngành TGPL. Hướng về mục đích này, có thể có những hướng nên xem xét: a) truyền thông cải thiện hiểu biết của nam và nữ, từ vị thành niên trở đi về ba đạo luật liên quan; b) nâng cao năng lực tư vấn hòa giải ở cấp cộng đồng, nhất là thông qua các tổ chức cộng đồng hình thành qua các mô hình của các đoàn thể, như HPN, và các tổ hòa giải; c) mở rộng mạng lưới các tổ chức TGPL hoạt động tự nguyện theo nguồn kinh phí tự trang trải.
Ở các cộng đồng được khảo sát, bên cạnh hôn nhân được đăng ký với chính quyền theo luật, còn có hôn nhân thực tế, không được đăng ký với chính quyền, nhưng được thực hiện và được thừa nhân ở cộng đồng theo luật tục. Cuộc khảo sát ghi nhận nam nữ dân tộc Vân Kiều không đăng ký kết hôn vì nhiều lý khác nhau, nhưng được cộng đồng thừa nhận theo trình tự mà luật tục quy định qua đám hỏi, xin dâu, đám cưới. Trong trường hợp hôn nhân thực tế, nhưng chưa đăng ký, quyền lợi của người phụ nữ được bình đẳng vói nam giới không được luật pháp bảo vệ. Việc bảo vệ quyền của người phụ nữ có thể đặt ra khi pháp luật quy những quy định về hôn nhân thực tế và quyền của phụ nữ trong hoàn cảnh này, ví dụ về quyền nhận con, về trách nhiệm của người cha nuôi con khi ly hôn, hoặc phân chia tài sản khi ly hôn.
Ghi nhận những liên hệ của các luật bình đẳng giới, PCBLGD với luật hình sự và dân sự, cũng như xử phạt hành chính, cuộc khảo sát ghi nhận các chương trình truyền thông thường bỏ qua những liên hệ này, cụ thể là không liên hệ những hình phạt mà luật hình sự hoặc luật dân sự với việc xâm hại nhân phẩm, hoặc gây thương tích cho công dân, dù đó là người thân trong gia đình. Việc liên hệ những điều cấm trong các đạo luật HNGĐ, phòng chống BLGD với các hình phạt mà Luật dân sự cũng như luật hình sự có tác động răn đe, thúc đẩy việc phòng ngừa BLGD hiệu quả. Cũng lưu ý về hình thức phạt tiền, được nhận định là không khuyến khích phụ nữ tố cáo các hình vi bạo lực, vì phạt tiền lấy đi tài sản chung của gia đình; hình thức phạt lao động công ích nên được đề xuất trong luật hoặc hương ước thay cho hình thức phạt tiền.
HPN đã tổ chức và thực hiện rộng khắp hệ thống địa chỉ tin cậy để góp phần bảo đảm an toàn cho phụ nữ là nạn nhân các vụ BLGD. Các địa chỉ tin cậy hiện tại ở cộng đồng là ở ngay tại nhà của lãnh đạo chi hội phụ nữ thôn bản. Lựa chọn này, tuy có lợi ích về chi phí không tốn kém, nhưng không đảm bảo được yêu cầu giữ bí mật và bảo đảm an toàn cho người phụ nữ đi tạm lánh. Các đoàn thể tổ chức các “địa chỉ an toàn” nên xem xét  để đưa ra các biện pháp bảo đảm bí mật và tương ứng là sự an toàn cho người lánh nạn.
Về phong tục tập quán, trong cộng đồng DTTS, có những có những quy định luật tục không bình đẳng với phụ nữ, ví dụ họ có thể bị phạt khi sinh nở không ở nhà hay bệnh xá; phụ nữ bị ràng buộc với họ nhà chồngnhư một dạng sở hữu, cả khi người chồng chết. Các chương trình thúc đẩy bình đẳng giới nên thảo luận các quy định luật tục này để vận động điều chỉnh cho phù hợp với chuẩn mực về bình đẳng của luật pháp. Khảo sát này ghi nhận rượu là một tác nhân khởi đầu cho những sự cố bạo lực gia đình. Các chương trình phòng chống BLGĐ, có thể tổ chức thảo luận để cộng đồng có những quy ước về bán rượu với những hạn chế, ví dụ về thời gian bán, yêu cầu về thanh toán, hoặc hạn chế tuổi của người được mua rượu và số lượng một lần mua.
Do phụ nữ là đa số trong các sinh hoạt cộng đồng, tham gia các hoạt động truyền thông, phổ biến pháp luật, việc thu hút phái nam, người lớn và thanh niên, tham gia các hoạt động truyền thông là một điều cần điều chỉnh.

2. Chiến lược và các chương trình quốc gia liên quan bình đẳng giới và phòng chống BLGD

Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới 2011-2020 có Mục tiêu 2 đề cập tới“Giảm khoảng cách giới trong lĩnh vực kinh tế, lao động, việc làm; tăng cường sự tiếp cận của phụ nữ nghèo ở nông thôn, phụ nữ người dân tộc thiểu số đối với các nguồn lực kinh tế, thị trường lao động.” Nghiên cứu này phát hiện những rào cản lớn với phụ nữ trẻ trong việc tham gia thị trường lao động, trong khi với các gia đình trẻ không có ruông đất ngày càng nhiều. Vì vậy, mục tiêu này nên đặt ra chỉ tiêu về khoảng cách giữa nam và nữ dưới 25 tuổi trong việc tham gia thị trường lao động ở trong và ngoàinước.
Mục tiêu 6 của chiến lược đề cập tới việc “Bảo đảm bình đẳng giới trong đời sống gia đình, từng bước xóa bỏ bạo lực trên cơ sở giới.”Mục tiêu này có chỉ tiêu về thời gian tham gia công việc gia đình của nữ so với nam, tuy vậy các hoạt động của các chương trình ở vùng dự án chưa thấy giải quyết chỉ tiêu này. Ở vùng ngoài dự án, HPN nữ tỉnh trong chương trình với SNV có những hoạt động phù hợp, nhưng điều nên làm là đo đạc cụ thể là chỉ tiêu này.Mục tiêu này cũng có chỉ tiêu 2 đề cập “mức độ phát hiện và tư vấn hỗ trợ nạn nhân BLGĐ về pháp lý và sức khỏe, và chăm sóc tại các cơ sở trợ giúp và cơ sở tư vấn về phòng, chống BLGD.” Chỉ tiêu này nên được bổ xung chỉ số phản ánh “cái gốc” hơn của vấn đề là mức độ giảm số vụ bạo lực gia đình các loại (thể chất, tinh thần, tình dục) tiến tới xóa bỏ chúng, và chương trình cần có các hoạt động hướng tới các kết quả này.
Ở khu vực dự án, Ban dân tộc tỉnh Quảng Bình đang thực hiện Đề án “Hỗ trợ hoạt động bình đẳng giới vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2018 - 2025” và đề án phòng chống tảo hôn và hôn nhân cận huyết.  Khi thực hiện dự án trong chương trình JIFF tài trợ, để cải thiện tính bền vững, RDPR nên hợp tác chia sẻ kinh nghiệm, tài liệu và phối hợp lồng ghép dự án với các Đề án này và tìm hiểu khả năng tiếp nhận từ đề án này các bài học về xây dựng năng lực, truyền thông, xây dựng dịch vụ tư vấn hỗ trợ về bình đẳng giới, hôn nhân và gia đình, và phòng chống BLGĐ./.