I. TÌNH HÌNH TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG, TRỌNG TÀI, HÒA GIẢI THƯƠNG MẠI
1. Về hoạt động hành nghề công chứng
Trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện có 122 tổ chức hành nghề công chứng (112 Văn phòng công chứng và 10 Phòng công chứng), với 445 công chứng viên đanghành nghề tại 30 quận, huyện, thị xã đáp ứng nhu cầu công chứng của các tổ chức, cá nhân trên địa bàn thành phố. Hoạt động công chứng trong thời gian qua đã đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô, bảo đảm an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch, đáp ứng nhu cầu của nhân dân, tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi và tin cậy cho hoạt động đầu tư, kinh doanh, thương mại trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần quan trọng vào tiến trình cải cách hành chính và cải cách tư pháp. Đây cũng là bước đi cụ thể thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị năm 2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Hằng năm, 122 tổ chức hành nghề công chứng thực hiện ký chứng nhận trên 500.000 hợp đồng, giao dịch; chứng thực từ 3,5 đến hơn 4 triệu bản sao, doanhthu hơn 350 tỷ đồng, nộp ngân sách trên 30 tỷ đồng
. Kết quả hoạt động của các tổ chức đã phản ánh đúng thực tế là hoạt động công chứng trong những năm gần đây đã được người dân tin tưởng, lựa chọn sử dụng ngày càng tăng bên cạnh hoạt động chứng nhận giao dịch về đất đai, nhà ở do UBND cấp xã thực hiện.
* Công tác quản lý Nhà nước
Công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động công chứng được Thành phố chú trọng tăng cường. Sở Tư pháp thường xuyên chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức liên quan tiến hành định kỳ và đột xuất theo phản ánh của tổ chức, cá nhân, cũng như các phương tiện truyền thông. Qua công tác thanh tra, kiểm tra đã phát hiện các vi phạm của các tổ chức, kịp thời chấn chỉnh và xử lý, đề nghị xử lý vi phạm, trong 05 năm (2015, 2016, 2017, 2018 và 2019) đã ban hành 64 quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với tổng mức tiền phạt 392 triệu đồng.
Số lượng tổ chức hành nghề công chứng và công chứng viên trên địa bàn thành phố nhiều và trải rộng, nhưng đội ngũ làm công tác quản lý còn thiếu về số lượng, yếu về năng lực, kinh nghiệm, nên công tác quản lý Nhà nước còn gặp nhiều khó khăn; quy định về các biện pháp quản lý nhà nước, chế tài xử lý vi phạm trong hoạt động hành nghề công chứng còn chưa đủ mạnh: chưa có quy định về đình chỉ, tạm đình chỉ hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng khi vi phạm.
Hàng năm, Sở Tư pháp phối hợp với Hội công chứng viên thành phố tổ chức nhiều buổi tập huấn, nhất là kỹ năng về phát hiện giấy tờ, tài liệu giả và trao đổi, tháo gỡ những khó khăn trong quá trình hành nghề cho tổ chức và các công chứng viên. Lãnh đạo UBND Thành phố trực tiếp trao đổi, đối thoại với công chứng viên để định hướng, tháo gỡ ngay những vướng mắc, bất cập trong hoạt động hành nghề của công chứng viên. Sở Tư pháp cũng thường xuyên phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường, Văn phòng đăng ký đất đai, ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng thương mại tổ chức hướng dẫn, trao đổi, tháo gỡ những khó khăn của tổ chức hành nghề công chứng trong hoạt động đăng ký biện pháp bảo đảm, đăng ký biến động theo quy định của pháp luật đất đai, công chứng. Tổ chức tọa đàm tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng, Văn phòng đăng ký đất đai và các chi nhánh cùng các tổ chức hành nghề công chứng được trao đổi, tháo gỡ khó khăn.
Thực hiện quy định của Nghị định số 102/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về đăng ký biện pháp bảo đảm, Thông tư số 07/2019/TT-BTP ngày 25/11/2019 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn một số nội dung về đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, trên cơ sở tham mưu của Sở Tư pháp ngày 27/5/2020 UBND Thành phố ban hành quyết định số 2147/QĐ-UBND về quy chế phối hợp quản lý nhà nước về đăng ký thế chấp quyền quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất trên địa bàn thành phố. Bên cạnh đó, để tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong quản lý nhà nước đối với tổ chức hành nghề công chứng, công chứng viên trên địa bàn thành phố nhằm phát hiện và xử lý kịp thời những vi phạm trong hoạt động hành nghề công chứng Sở Tư pháp đã tham mưu UBND Thành phố ban hành Quyết định số 518/QĐ-UBND ngày 25/01/2021 về quy chế phối hợp quản lý hoạt động hành nghề trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp trên địa bàn thành phố;Sở Tư pháp ký Quy chế phối hợp quản lý hoạt động công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội ngày 18/7/2020 với Hội Công chứng viên thành phố.
Bên cạnh một số kết quả tích cực đạt được trong hoạt động công chứng, còn có những khó khăn, vướng mắc và hạn chế sau:
- Một số công chứng viên còn chưa chủ động, tích cực trong việc nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng hành nghề cũng như giữ gìn phẩm chất đạo đức và ứng xử nghề nghiệpnên mặc dù số lượng công chứng viên trên địa bàn thành phố lớn nhất nhì cả nước nhưng chất lượng của công chứng viên còn hạn chế.Trong những năm gần đây, số lượng các hợp đồng, giao dịch công chứng bị cơ quan Tòa án tuyên hủy và vô hiệu ngày càng nhiều; cơ quan quản lý và cơ quan tiến hành tố tụng nhận được nhiều phản ánh, đơn thư liên quan đến hoạt động hành nghề công chứng. Một số tổ chức hành nghềvì mục tiêu lợi nhuận đã có những hành vi cạnh tranh không lành mạnh: tiếp nhận yêu cầu và ký chứng nhận công chứng ngoài trụ sở không có lý do chính đáng; hạ thù lao công chứng, thậm chí thu phí công chứng dưới mức quy định; ký văn bản công chứng khi hồ sơ của người yêu cầu công chứng chưa đầy đủ theo quy định; ký chứng thực bản sao khi không có bản chính để đối chiếu; phối hợp chia thù lao với tổ chức tín dụng... Bên cạnh đó, công tác giám sát, xử lý kỷ luật của Hội công chứng viên thành phố còn chưa được thường xuyên cũng có ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý hoạt động hành nghề công chứng trên địa bàn thành phố.
- Việc triển khai thực hiện Luật số 28/2018/QH14 ngày 15/6/2018 sửa đổi, bổ sung một số điều của 11 Luật có liên quan đến quy hoạch, trong đó có Luật Công chứng năm 2014, trong đó vấn đề thành lập mới các tổ chức hành nghề công chứng cũng dẫn đến khó khăn, thách thức trong quản lý nhà nước vì vừa phải bảo đảm đúng tinh thần của Luật không còn quy hoạch về công chứng trên các đơn vị hành chính cấp huyện, vừa phải đảm bảo định hướng tổ chức hành nghề công chứng phát triển gắn với dân cư, đáp ứng đầy đủ nhu cầu của cá nhân, tổ chức để tránh tình trạng tập trung nhiều tổ chức hành nghề trên một khu vực.
2. Về hoạt động Trọng tài thương mại và Hòa giải thương mại
2.1. Trọng tài thương mại
Hiện nay, trên địa bàn thành phố Hà Nội có 10 Trung tâm trọng tài thương mại với trên 260 trọng tài viên đang hoạt động, trong đó có 31 trọng tài nước ngoài
[1]. Trong các năm2019, 2020 và 2021, các Trung tâmtiếp nhận trung bình mỗi năm trên6.100 vụ việc; ban hành hơn4.360 phán quyết, trong đó có 08 phán quyết trọng tài bị cơ quan Tòa án tuyên hủy; tổng số tiền thu được trên 79,7 tỷ đồng, nộp thuế và nghĩa vụ tài chínhgần 30 tỷ đồng.
* Những khó khăn, vướng mắc liên quan đến pháp luật về hợp đồng và pháp luật giải quyết tranh chấp dân sự bằng phương thức tố tụng ngoài Tòa án:
- Việc xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp (Luật Trọng tài thương mại và Luật Nhà ở); việc xác định cơ quan thi hành án có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Hội đồng trọng tài; khái niệm về “Trọng tài nước ngoài” chưa rõ ràng… dẫn đến việc xác định thẩm quyền của trọng tài gặp khó khăn;hoặc gây tốn kém về thời gian, chi phí cho cơ quan thi hành án dân sự trong việc ủy thác thi hành án và bên phải thi hành án…
- Nội dung hủy phán quyết trọng tài: điểm đ khoản 2 Điều 68 Luật Trọng tài thương mại quy định:
“Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”.
Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/3/2014của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Trọng tài thương mại (Nghị quyết) quy định:
“Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” là phán quyết vi phạm các nguyên tắc xử sự cơ bản có hiệu lực bao trùm đối với việc xây dựng và thực hiện pháp luật Việt Nam.Tuy Nghị quyết đã giải thích về các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam nhưng không rõ ràng, gây khó khăn trong việc áp dụng. Cụ thể Nghị quyết đã đưa ra thuật ngữ
“các nguyên tắc xử sự cơ bản có hiệu lực bao trùm đối với việc xây dựng và thực hiện pháp luật Việt Nam” nhưng không có hướng dẫn bổ sung thế nào là các nguyên tắc xử sự cơ bản có hiệu lực bao trùm đối với việc xây dựng và thực hiện pháp luật Việt Nam.
- Đối với quy định hủy phán quyết trọng tài:khoản 10 Điều 71 Luật Trọng tài thương mại quy định
“Quyết định của Toà án là quyết định cuối cùng và có hiệu lực thi hành”. Quy định này nhằm rút ngắn thủ tục thời gian Tòa án giải quyết việc hủy phán quyết trọng tài do chỉ có 1 cấp và là cuối cùng. Tuy nhiên, thời gian qua có một số quyết định của Tòa án về việc hủy phán quyết trọng tài chưa thực sự thuyết phục và có đầy đủ căn cứ nhưng không có cơ chế để xem xét lại, ảnh hưởng đến uy tín của Tòa án và trọng tài, không đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp.
- Ngoài ra, hiện đang còn nhiều tranh cãi về thẩm quyền của Trọng tài đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài liên quan đến quyền đối với tài sản là bất động sản tại Việt Nam vì theo Điều 470 BLTTDS năm 2015 thì các tranh chấp này thuộc thẩm quyền riêng biệt của Tòa án Việt Nam.
Có ý kiến cho rằng các tranh chấp liên quan đến quyền đối với tài sản là bất động sản có trên lãnh thổ Việt Nam là các tranh chấp thương mại, thuộc phạm vi điều chỉnh theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 2 Luật Trọng tài thương mại nên trọng tài đương nhiên có thẩm quyền giải quyết các loại tranh chấp này nếu các bên có thỏa thuận đưa ra giải quyết tranh chấp tại trọng tài. Tuy nhiên, có ý kiến khác lại cho rằng chỉ có Tòa án Việt Nam mới có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp này.
2.2. Hòa giải thương mại
Thực hiện Nghị định số 22/2017/NĐ-CP ngày 24/02/2017 của Chính phủ về Hòa giải thương mại, thành phố Hà Nội hiện có 08 Trung tâm Hòa giải thương mại (67 hòa giải viên) và 94 hòa giải viên thương mại vụ việc đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp.Do đây là loại hình hoạt động tương đối mới, chủ thể thực hiện hòa giải chủ yếu là các tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động trọng tài, luật sư đăng ký hoạt động. Hằng năm có phát sinh vụ việc, tuy nhiên kết quả hòa giải thành rất hạn chế.
3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ, CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG CÔNG CHỨNG, TRỌNG TÀI VÀ HÒA GIẢI THƯƠNG MẠI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Hoạt động công chứng
a) Tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật
Hoàn thiện các quy định của pháp luật có liên quan đến hoạt động hành nghề công chứng:hiện tại Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Hôn nhân và Gia đìnhcòn chưa rõ ràng, cụ thể, được hiểu chưa thống nhất về cùng một nội dung (hộ gia đình, thừa kế…); việc hướng dẫn, giải thích pháp luật liên quan đến hoạt động công chứng còn chưa đầy đủ khiến cho việc vận dụng, áp dụng pháp luật trong hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ công chứng gặp khó khăn. Trên thực tế có nhiều văn bản công chứng đã được chứng nhận nhưng không thể phát sinh giá trị thi hành, mặc dù đã được chứng nhận theo đúng quy định của pháp luật về công chứng, đặc biệt trong lĩnh vực đất đai, nhà ở.
Tiếp tục hoàn thiện quy định của pháp luật về công chứng: đây chính là công cụ để tổ chức hành nghề và công chứng viên áp dụng khi thực hiện thủ tục công chứng. Như quy định về việc thay đổi tên gọi của Văn phòng công chứng trong trường hợp thay đổi trụ sở hoặc Trưởng Văn phòng công chứng theo khoản 3 Điều 22 Luật Công chứng là không hợp lý, bởi tên gọi là tài sản, là thương hiệu của Văn phòng công chứng được nhiều người biết đến. Việc thay đổi tên sẽ ảnh hưởng đến thương hiệu đã xây dựng của Văn phòng công chứng, cũng như gây khó khăn cho người dân trong việc xác định Văn phòng công chứng mà mình đã từng công chứng. Mặt khác, hầu hết trụ sở Văn phòng công chứng đều được thuê, nên khi bên cho thuê chấm dứt hợp đồng thì Văn phòng đó sẽ phải thay đổi tên gọi (đồng thời với việc thay đổi tên gọi thì Văn phòng công chứng sẽ phải thực hiện thay đổi biển hiệu, con dấu, in ấn lại hóa đơn,... làm tốn kém kinh phí và thời gian). Bên cạnh đó, là quy định khá máy móc, cứng nhắc về việc chỉ áp dụng một loại hình hoạt động đối với tổ chức hành nghề công chứng (công ty hợp danh); gây rất nhiều khó khăn cho việc chủ động hành nghề của công chứng viên.
Cần thiết phải bổ sung những chế tài mạnh hơn nữa đối với tổ chức hành nghề công chứng và công chứng viên như: tạm đình chỉ có thời hạn đối với tổ chức hành nghề công chứng; đề cao và quy định trách nhiệmcụ thể của Trưởng Văn phòng công chứng trong hoạt động hành nghề đối với công chứng viên thuộc Văn phòng; công chứng viên bị miễn nhiệm vì bất cứ lý do gì cũng phải tập sự, thi sát hạch lại…
Bên cạnh đó, do lực lượng thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra chuyên ngành ở địa phương và cả ở trung ương mỏng nên cần nghiên cứu bổ sung cơ chế, tiêu chí để người dân tham gia giám sát hoạt động hành nghề công chứng.
b) Đối với tổ chức hành nghề công chứng: phải có trách nhiệm đối với hoạt động hành nghề của công chứng viên thuộc tổ chức mình, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc và giám sát công chứng viên thực hiện quy định của pháp luật trong hoạt động công chứng; tạo điều kiện để công chứng viên được tham gia tập huấn, bồi dưỡng nâng cao kiến thức nghề nghiệp; đầu tư cơ sở vật chất, trang bị máy móc phát hiện giấy tờ, tài liệu giả; tham gia bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên theo quy định…
c) Đối với công chứng viên: phải nghiêm túc tuân thủ quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động nghề nghiệp cũng như quy tắc đạo đức hành nghề; không ngừng tự nâng cao trình độ chuyên môn, kiến thức xã hội phục vụ cho hoạt động hành nghề của bản thân.
d) Đối với tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên: ngoài việc tăng cường tập huấn, bồi dưỡng nâng cao chuyên môn cho công chứng viên phải tăng cường giám sát hoạt động hành nghề của công chứng viên, kịp thời uốn nắn, chấn chỉnh những vi phạm, đồng thời phải có trách nhiệm đối với thành viên của mình trong việc hỗ trợ tham gia tố tụng liên quan đến hợp đồng, giao dịch đã công chứng bị đề nghị tuyên hủy, vô hiệu.
đ) Đối với cơ quan quản lý: tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nhằm phát hiện và kịp thời xử lý hoặc kiến nghị xử lý các vi phạm; việc thanh tra, kiểm tra phải đảm bảo thực hiện đúng các trình tự, thủ tục quy định của pháp luật và bảo đảm hoạt động bình thường của các tổ chức hành nghề công chứng là đối tượng thanh tra, kiểm tra.Chỉ đạo, hướng dẫn kịp thời về nghiệp vụ công chứng khi có quy định mới hoặc vấn đề thực tiễn hoạt động nghề phát sinh cần thống nhất cho các tổ chức hành nghề công chứng và công chứng viên.
Bên cạnh đó, cần phải xây dựng được cơ sở dữ liệu về công chứng, thông tin về dữ liệu ngăn chặn tài sản trên địa bàn cấp tỉnh và trongphạm vi cả nước.Có cơ chế phối hợp để xử lý triệt để các ổ nhóm, đối tượng làm giấy tờ, tài liệu giả để thực hiện hợp đồng, giao dịch. Để hoạt động công chứng ổn định, hiệu quả, chất lượng, các cơ quan, đơn vị có liên quan đến hoạt động công chứng phải có trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ tổ chức hành nghề công chứng, công chứng viên trong hoạt động nghề nghiệp như: xác minh, niêm yết thông tin, giám định và xác định chủ thể liên quan tham gia hợp đồng, giao dịch. Ngoài ra, cần có chế tài xử lý nghiêm khắc hơn nữa đối với các trường hợp người yêu cầu công chứng cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật; sử dụng giấy tờ, văn bản giả mạo hoặc bị tẩy xóa, sửa chữa trái pháp luật để yêu cầu công chứng; thông báo, thông tin rộng rãi kết quả xử lý, thủ đoạn làm giả...
3.2. Hoạt động Trọng tài thương mại
Từ những vướng mắc liên quan đến pháp luật về hợp đồng và pháp luật giải quyết tranh chấp dân sự bằng phương thức tố tụng ngoài Tòa án, chúng tôi kiến nghị Bộ Tư pháp trình Chính phủ sửa đổi Luật Trọng tài thương mại năm 2010 để khắc phục những bất cập, hạn chế trong việc giải quyết tranh chấp dân sự bằng phương thức trọng tài thương mại, trong đó có nội dung bổ sung thêm cơ chế giám đốc thẩm các quyết định của Tòa án.
Vì còn tồn tại nhiều ý kiến khác nhau trong việc phân định thẩm quyền của trọng tài, Tòa án, để tránh rủi ro cho các bên khi lựa chọn phương cơ quan giải quyết tranh chấp, tạo cơ sở cho việc xác định thẩm quyền trọng tài, Bộ Tư pháp và TANDTC cần có hướng dẫn, giải thích rõ về những tranh chấp nào thuộc thẩm quyền của trọng tài, tranh chấp nào thuộc thẩm quyền của Tòa án.
Bên cạnh đó, để tăng cường năng lực của đội ngũ trọng tài viên, theo chúng tôi cần triển khai thực hiện quy định tại Điều 22 Luật Trọng tài thương mại
(thành lập Hiệp hội trọng tài)làm tiền đề để xây dựngquy tắc đạo đức nghề nghiệp của trọng tài viên, quy tắc xung đột lợi ích để bảo đảm tính độc lập và khách quan của trọng tài; bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ tố tụng trọng tài cũng như chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn tố tụng trọng tài trong nước và quốc tế. Đề nghị Bộ Tư pháp nghiên cứu, bổ sung môn học Luật trọng tài như là một môn học chính thức trong chương trình đào tạo cử nhân luật nhằm hình thành một đội ngũ trọng tài, luật sư có thể trợ giúp doanh nghiệp khi tham gia tố tụng trọng tài quốc tế.
Ngoài ra, nhằm tránh tình trạng hiểu và áp dụng không chính xác pháp luật, đồng thời tăng cường hiệu quả quản lý đối với việc giải quyết các yêu cầu có liên quan đến trọng tài thương mại, đề nghị TANDTCnghiên cứu xây dựng, áp dụng mô hình cơ quan Tòa án chuyên trách và đội ngũ thẩm phán chuyên sâu về lĩnh vực trọng tài.
[1] Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) là tổ chức trọng tài nhiều kinh nghiệm, có số lượng trọng tài viên đông đảo (139 trọng tài viên Việt Nam, 31 trọng tài viên nước ngoài); là đơn vị dẫn đầu về tổng trị giá tranh chấp, số tiền thu được và số tiền nộp thuế hàng năm.