HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VỚI VIỆC BẢO ĐẢM THỰC THI BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH VÀ TÍNH NGHIÊM MINH CỦA PHÁP LUẬT
Sign In

HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VỚI VIỆC BẢO ĐẢM THỰC THI BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH VÀ TÍNH NGHIÊM MINH CỦA PHÁP LUẬT

I. VÀI NÉT VỀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VIỆT NAM
Thi hành án được hiểu là việc đưa các bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành trên thực tế. Bản án, quyết định là văn bản pháp lý của Tòa án tuyên tại phiên tòa, giải quyết các vấn đề trong vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, hành chính,… Tuy nhiên, trên thực tế công tác THADS hiện nay không chỉ bao gồm việc thi hành các bản án, quyết định của Tòa án mà cả cácquyết định của Trọng tài, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh cũng cần được thi hành. Vì vậy, quan điểm tiếp cận theo nghĩa rộng thì Thi hành án là thủ tục tổ tụng tư pháp do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tiến hành để thi hành bản án, quyết định của Tòa án hoặc quyết định của cơ quan Nhà nước, tổ chức khác do pháp luật quy định nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp cả các cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Với cách tiếp cận trên, THADS xuất phát và gắn liền với hoạt động xét xử của Tòa án, trọng tài, hội đồng xử lí vụ việc cạnh tranh, là hai mặt của quá trình bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; là tiền đề của THADS; là khâu tiếp nối với xét xử làm cho bản án, quyết định có hiệu lực trên thực tế. Do vậy, có thể hiểu THADS là một dạng hoạt động tư pháp trong việc thực hiện bản án, quyết định dân sự của Tòa án và các quyết định của các cơ quan, tổ chức khác được đưa ra thi hành theo quy định của pháp luật[1].Thông qua THADS,  quyền, nghĩa vụ theo bản án, quyết định được hiện thực hóa, thực thi trên thực tế.
THADS có đặc điểm: (i)THADS là một dạng hoạt độngtư pháp của nhà nước, do cơ quan, người có thẩm quyền được pháp luật quy định thực hiện, bảo đảm hiệu lực thực tế của các bản án, quyết định về dân sự của Tòa án bằng các biện pháp cưỡng chế nhà nước. Tính quyền lực nhà nước trong THADS được thể hiện ở việc cơ quan, tổ chức THADS có quyền ra quyết định THADS, buộc các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan phải tuần thủ, nghiêm chỉnh chấp hành. Trong trường hợp không tự nguyện THADS thì có quyền áp dụng các biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế THADS, buộc người phải THADS phải chấp hành bản án, quyết định dân sự có hiệu lực thi hành; (ii) THADS chủ yếu là thi hành các quyết định của Tòa án mang tính chất tải sản - đặc trưng của quan hệ dân sự, vì vậy, quyền tự định đoạt của đương sự luôn được tôn trọng trong suốt quá trình thi hành án. Người được thi hành án trong THADS luôn giữ vai trò chủ động, có quyền quyết định việc có đưa ra yêu cầu thi hành án hay không. Nhà nước tôn trọng quyền thỏa thuận, tự định đoạt của các bên trong khuôn khổ pháp luật (đưa ra quyết định vào thời điểm nào trong thời hiệu; yêu cầu thi hành án một phần hay toàn bộ quyết định của bản án; các bên có quyền thỏa thuận với nhau về thời gian, địa điểm, phương thức thi hành án,v.v); (iii) Cơ quan thi hành án có thể lựa chọn biện pháp thích hợp để việc thi hành án được nhanh chóng, đạt hiệu quả trên cơ sở thỏa thuận của các đương sự; (iv) THADS là giai đoạn kế tiếp sau giai đoạn xét xử, có mối quan hệ mật thiết, đan xen với các giai đoạn tố tụng trước đó, nhưng có tính độc lập tương đối thể hiện ở chỗ hoạt động này được bắt đầu bằng quyết định thi hành án của người có thẩm quyền. Những quyết định này mang tính bắt buộc chấp hành đối với tất cả chủ thể có trách nhiệm và nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án; (v) THADS và các giai đoạn tố tụng trước đó có mối quan hệ nhân quả với nhau. Nếu bản án, quyết định của Tòa án tuyên rõ ràng, cụ thể thì việc thi hành án sẽ dễ dàng, nhanh chóng. Ngược lại, nếu bản án, quyết định đó không rõ ràng, không khách quan, thiếu tính khả thi Ngây khó khăn cho việc thi hành án. Đồng thời, việc thi hành án nhanh chóng, kịp thời sẽ có tác động tích cực trở lại đối với hoạt động xét xử , góp phần củng cố, tăng cường uy tín của cơ quan xét xử .
THADS có vai trò: (i) Bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước, quyền và lợi ích của nhà nước, tổ chức, cá nhân, thực thi công lý, góp phần xây dựng một xã hội trật tự, kỷ cương và ổn định; (ii) Góp phần hoàn thiện những khiếm khuyết của các quy định của pháp luật trên cơ sở đó kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật, đồng thời kiểm tra lại quá trình xét xử trước đó để rút kinh nghiệm, năng cao chất lượng và hiệu quả công tác xét xử; (iii) Thúc đẩy và giải phóng các nguồn lực để thúc đẩy sự phát triển kinh tế góp phần tháo gỡ khó khăn, khơi thông, thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh thông qua hoạt động thu hồi nợ, giảm nợ xấu và mở rộng tín dụng, bảo vệ quyền chủ nợ và thu hồi nợ của các tổ chức tín dụng hay nâng cao an sinh xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động thông qua việc xử lý kịp thời những vi phạm pháp luật; (iv)THADS có tác dụng quan trọng trong việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, năng cao ý thức chấp hành pháp luật cho người dân, nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, tạo niềm tin của của người sân vào tính nghiêm minh của pháp luật, củng cố quyền lực nhà nước.
II. HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VỚI VIỆC BẢO ĐẢM THỰC THI BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH
Xác định rõ vị trí, vai trò của công tác THADS nên thời gian qua, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm, tạo chế đồng bộ để bảo đảm thực thi bản án, quyết định:
1.Luôn quan tâm để hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự, tạo nền tảng pháp lý cho việc tổ chức thực thi bản án, quyết định
(i) Bảo đảm cho việc thi hành các bản án, quyết định của Tòa án, quyết định được thể hiện rõ trong Hiến pháp, trong đó Điều 106 Hiến pháp năm 2013 nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã quy định: “Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”.
(ii) Các nội dung quan trọng liên quan đến trình tự thủ tục, bảo đảm quyền của các bên được thể chế hóa bằng Luật do Quốc hội ban hành, như:
+ Luật THADS quy định về Nguyên tắc, trình tự, thủ tục thi hành bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Toà án, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của Trọng tài thương mại (sau đây gọi chung là bản án, quyết định); Hệ thống tổ chức thi hành án dân sự và Chấp hành viên; Quyền, nghĩa vụ của người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động thi hành án dân sự.
+ Các nội dung liên quan đến quyền, nghĩa vụ của bên được quy định ở các Luật nội dung như Bộ luật dân sự; Luật đất đai, Luật hôn nhân và gia đình,v.v.
+ Chế tài xử lý vi phạm được quy định ở nhiều văn bản quan trọng, đặc biệt quy định trong Bộ Luật hình sự.
+ Cơ chế kiểm soát hoạt động THADS cũng được quy định tương đối đầy đủ, cụ thể trong Luật Tổ chức Quốc hội, Luật mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật THADS, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, theo đó cơ chế kiểm soát được thực hiện bằng phương thức kiểm soát nội bộ (của cơ quan cấp trên với cơ quan cấp dưới, kiểm soát chéo, kiểm soát nội bộ) và kiểm soát bên ngoài Hệ thống THADS như hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân, hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội, của cơ quan, tổ chức, cá nhân ngoài nhà nước.
+ Các văn bản dưới luật chỉ quy định rõ thêm các nội dung đã được các đạo Luật do Quốc hội ban hành.
2. Thành lập một hệ thống cơ quan chuyên trách để bảo đảm tổ chức thực hiện nghiêm, có hiệu quả bản án, quyết định
Theo quy định tại Luật Tổ chức Chính phủ, Luật THADS, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về THADS. Chính phủ giao Bộ Tư pháp trách nhiệm giúp Chính phủ quản lý toàn diện các mặt của hoạt động THADS, từ ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản điều chỉnh hoạt động THADS đến quản lý hệ thống tổ chức, biên chế và hoạt động của cơ quan THADS, hướng dẫn, chỉ đạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho Chấp hành viên và công chức khác làm công tác THADS; đảm bảo cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động cho cơ quan THADS...
Để Bộ Tư pháp thực hiện chức năng, nhiệm vụ trên, Chính phủ đã thành lập Tổng cục Thi hành án dân sự là cơ quan trực thuộc Bộ Tư pháp, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước về công tác thi hành án dân sự và thi hành án hành chính trong phạm vi cả nước; thực hiện quản lý chuyên ngành về thi hành án dân sự và thi hành án hành chính theo quy định của pháp luật.Tổng cục THADS được tổ chức thành hệ thống dọc từ Trung ương đến cấp huyện, bảo đảm nguyên tắc tập trung thống nhất, gồm 03 cấp: Cơ quan quản lý THADS (Lãnh đạo Tổng cục và các đơn vị trực thuộc Tổng cục ở Trung ương); cơ quan THADS ở địa phương có Cục THADS cấp tỉnh, Chi cục THADS cấp huyện).
3. Có sự tham gia vào cuộc của Hệ thống chính trị, các cơ quan báp chí, phương tiện thông tin đại chúng để góp phần làm cho bản án, quyết định được thi hành trên thực tế
(i) Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm, đề ra các chủ trương chính sách quan trọng, tạo tiền đề cho việc hoàn thiện thể chế, củng cố tổ chức, hoạt động của Hệ thống THADS.
(ii) Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thường xuyên giám sát đối với hoạt động THADS.
(iii) Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam; Trung ương đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh cũng thường xuyên giáo dục, thuyết phục động viên hội viên thực hiện nghiêm pháp luật về THADS và tổ chức thi hành bản án, quyết định; tham gia bảo vệ quyền lợi cho hội viên của mình.
(iv) Các cơ quan báo chí, phương tiện thông tin đại chúng thường xuyên giám sát, phản biện để bảo đảm việc THADS thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, Bản án, quyết định.
III. HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VỚI VIỆC BẢO ĐẢM TÍNH NGHIÊM MINH CỦA PHÁP LUẬT
1.Các bên được bảo đảm thực hiện quyền của mình
Trong quá trình xét xử, các bên đương sự được quyền thỏa thuận giải quyết các tranh chấp, ví dụ Điều 10 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định về hòa giải trong tố tụng dân sự như sau: “Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này”.
Không những các bên được quyền thỏa thuận trong quá trình xét xử mà trong suốt quá trình thi hành án các bên cũng được quyền thỏa thuận thi hành án. Điều 6 Luật THADS quy định: “1. Đương sự có quyền thỏa thuận về việc thi hành án, nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Kết quả thi hành án theo thỏa thuận được công nhận. Theo yêu cầu của đương sự, Chấp hành viên có trách nhiệm chứng kiến việc thỏa thuận về thi hành án. 2. Trường hợp đương sự không thực hiện đúng thỏa thuận thì có quyền yêu cầu cơ quan THADS thi hành phần nghĩa vụ chưa được thi hành theo nội dung bản án, quyết định”.
Điều 5 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định: Trường hợp đương sự thỏa thuận trước khi yêu cầu thi hành án hoặc đã yêu cầu nhưng cơ quan THADS chưa ra quyết định thi hành án thì thỏa thuận đó phải lập thành văn bản nêu rõ thời gian, địa điểm, nội dung thỏa thuận, có chữ ký hoặc điểm chỉ của các bên tham gia thỏa thuận. Đương sự có nghĩa vụ tự thực hiện đúng nội dung đã thỏa thuận. Trường hợp cơ quan THADS đã ra quyết định thi hành án, đương sự vẫn có quyền tự thỏa thuận. Thỏa thuận phải thể hiện rõ thời gian, địa điểm, nội dung thỏa thuận, thời hạn thực hiện thỏa thuận, hậu quả pháp lý đối với việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nội dung đã thỏa thuận, có chữ ký hoặc điểm chỉ của các bên tham gia. Trường hợp cơ quan THADS đang tổ chức thi hành án mà đương sự thỏa thuận về việc không yêu cầu cơ quan THADS thi hành một phần hoặc toàn bộ quyết định thi hành án thì thủ trưởng cơ quan THADS ra quyết định đình chỉ thi hành án đối với nội dung thỏa thuận không yêu cầu thi hành, trừ trường hợp thỏa thuận vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội, không đúng với thực tế, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba hoặc nhằm trốn tránh phí thi hành án. Khi đương sự có yêu cầu, chấp hành viên có trách nhiệm chứng kiến và ký tên vào văn bản thỏa thuận. Trường hợp thỏa thuận vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội, không đúng với thực tế, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba hoặc nhằm trốn tránh phí thi hành án thì chấp hành viên có quyền từ chối nhưng phải lập biên bản và nêu rõ lý do. Người yêu cầu chấp hành viên chứng kiến việc thỏa thuận ngoài trụ sở cơ quan THADS mà phát sinh chi phí thì phải thanh toán các chi phí hợp lý cho cơ quan THADS.
Như vậy, đương sự có quyền thỏa thuận trước khi yêu cầu thi hành án hoặc đã yêu cầu nhưng cơ quan THADS chưa ra quyết định thi hành án hoặc cơ quan thi hành án dân sự đang tổ chức thi hành án. Trường hợp thỏa thuận về việc không yêu cầu cơ quan THADS thi hành một phần hoặc toàn bộ quyết định thi hành án được thực hiện sau khi tài sản đã được bán hoặc giao cho người khác nhận để thi hành án thì phải được sự đồng ý của người mua được tài sản hoặc người nhận tài sản để thi hành án.
2. Chấp hành viên chỉ tuân theo pháp luật, bản án, quyết định trong quá trình tổ chức THADS
Điều 17 Luật THADS quy định: “Chấp hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định theo quy định tại Điều 2 của Luật này. Chấp hành viên có ba ngạch là Chấp hành viên sơ cấp, Chấp hành viên trung cấp và Chấp hành viên cao cấp”.
Việc tổ chức thi hành bản án, quyết định cũng chính là việc tổ chức thực hiện pháp luật, do đó, các cơ quan nhà nước phải tuân thủ quy định của hiến pháp, pháp luật, thực hiện đúng nội dung bản án, quyết định đã có hiệu lực; bảo đảm tính công bằng, nghiêm minh; tôn trọng tối đa quyền của các bên. Chấp hành viên là người được Nhà nước trao quyền lực tổ chức thi hành bản án, quyết định và chỉ thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật được quy định tại Điều 20 Luật THADS.Không chủ thể nào được can thiệp vào hoạt động thi hành án của Chấp hành viên.
3. Yêu cầu tôn trọng bản án, quyết định đối với mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân
Cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan trong phạm vi trách nhiệm của mình chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án (Điều 4 Luật THADS). Trách nhiệm của các tổ chức có liên quan cũng được quy định cụ thể bởi Luật THADS, cụ thể:
- Trách nhiệm của Kho bạc nhà nước, ngân hàng và tổ chức tín dụng khác trong thi hành án dân sự được quy định tại Điều 176 Luật THADS, gồm:
+ Cung cấp đúng, đầy đủ, kịp thời thông tin, số liệu về tài khoản của người phải thi hành án theo yêu cầu của Chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự.
+ Thực hiện nghiêm chỉnh, kịp thời yêu cầu của Chấp hành viên về phong tỏa tài khoản, phong tỏa tài sản; khấu trừ tiền trong tài khoản; giải tỏa việc phong tỏa tài khoản, phong tỏa tài sản của người phải thi hành án.
+ Thực hiện đầy đủ yêu cầu khác của Chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự theo quy định của Luật này.
- Trách nhiệm của Bảo hiểm xã hội trong thi hành án dân sự được quy định tại Điều 177 Luật THADS, gồm:
+ Cung cấp đúng, đầy đủ, kịp thời thông tin, số liệu về các khoản thu nhập của người phải thi hành án đang được chi trả qua Bảo hiểm xã hội theo yêu cầu của Chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự.
+ Thực hiện nghiêm chỉnh, kịp thời yêu cầu của Chấp hành viên về khấu trừ thu nhập của người phải thi hành án để thi hành án.
+ Thực hiện đầy đủ yêu cầu khác của Chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự theo quy định của Luật này.
- Trách nhiệm của cơ quan đăng ký tài sản, đăng ký giao dịch bảo đảm trong thi hành án dân sự được quy định tại Điều 178 Luật THADS, gồm:
+ Tạm dừng hoặc dừng việc thực hiện các yêu cầu liên quan đến các giao dịch đối với tài sản của người phải thi hành án đăng ký tại cơ quan đăng ký tài sản, đăng ký giao dịch bảo đảm ngay sau khi nhận được yêu cầu của Chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự.
+ Thực hiện việc đăng ký quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất cho người mua được tài sản, người được thi hành án nhận tài sản để trừ vào số tiền được thi hành án.
+ Thu hồi, sửa đổi, hủy các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đất, giấy tờ đăng ký giao dịch bảo đảm đã cấp cho người phải thi hành án; thực hiện việc cấp mới các giấy tờ theo quy định của pháp luật.
- Trách nhiệm của cơ quan ra bản án, quyết định trong thi hành án được quy định tại Điều 179 Luật THADS gồm:
+ Bảo đảm bản án, quyết định đã tuyên chính xác, rõ ràng, cụ thể, phù hợp với thực tế.
+ Có văn bản giải thích những nội dung mà bản án, quyết định tuyên chưa rõ trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu của đương sự hoặc của cơ quan thi hành án dân sự.
Trường hợp vụ việc phức tạp thì thời hạn trả lời không quá 30 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức được giao theo dõi, quản lý người đang chấp hành án hình sự được quy định tại Điều 180 Luật THADS, theo đó, cơ quan, tổ chức được giao theo dõi, quản lý người đang chấp hành án hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với cơ quan THADS về các việc sau đây:
+ Giáo dục người đang chấp hành án hình sự thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ dân sự theo bản án, quyết định của Tòa án;
+ Cung cấp cho cơ quan THADS thông tin liên quan về người phải thi hành nghĩa vụ về dân sự đang chấp hành án hình sự; thực hiện việc thông báo giấy tờ về thi hành án dân sự cho người phải thi hành án đang chấp hành án hình sự;
+ Phối hợp với cơ quan THADS thu tiền thi hành án theo quy định của Luật này;
+ Kịp thời thông báo cho cơ quan THADS về nơi cư trú của người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt tù, được đặc xá, được miễn chấp hành hình phạt tù.
4. Trách nhiệm pháp lý có liên quan trong quá trình thi hành án
Cơ quan THADS, Chấp hành viên tuân thủ pháp luật trong tổ chức thi hành án, nếu vi phạm quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục thi hành án thì tùy vào tính chất, mức độ sẽ bị xem xét xử lý trách nhiệm hành chính bằng các hình thức kỷ luật, trách nhiệm dân sự hoặc thậm chí trách nhiệm hình sự.
Chấp hành viên là công chức nhà nước, do đó nếu Chấp hành viên có hành vi vi phạm trong quá trình tổ chức thi hành án, nếu mức vi phạm thuộc phạm vi trách nhiệm hành chính thì sẽ bị xem xét các hình thức kỷ luật hành chính theo quy định củaLuật Cán bộ, công chức năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2019, gồm:
Điều 79 Luật Cán bộ công chức sửa đổi, bổ sung năm 2019 quy định các hình thức kỷ luật đối với công chức như sau: Công chức vi phạm quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm phải chịu một trong những hình thức kỷ luật sau đây: a) Khiển trách; b) Cảnh cáo; c) Hạ bậc lương; d) Giáng chức; đ) Cách chức; e) Buộc thôi việc. 2. Hình thức giáng chức, cách chức chỉ áp dụng đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý; hình thức hạ bậc lương chỉ áp dụng đối với công chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý”.
Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại về dân sự, Điều 13 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Cá nhân, pháp nhân có quyền dân sự bị xâm phạm được bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác”.
Về trách nhiệm hình sự, Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã quy định nhiều loại tội phạm liên quan đến hoạt động THADS, ví dụ:
Điều 379. Tội không thi hành án: “1. Người nào có thẩm quyền mà cố ý không ra quyết định thi hành án hoặc không thi hành quyết định thi hành bản án, quyết định của Tòa án thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:a) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm;b) Dẫn đến người bị kết án, người phải chấp hành án bỏ trốn;c) Dẫn đến hết thời hiệu thi hành án;d) Dẫn đến người bị kết án, người phải chấp hành án, người có nghĩa vụ thi hành án tẩu tán tài sản và không thi hành được nghĩa vụ thi hành án với số tiền từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng...”.
Điều 380. Tội không chấp hành án: “1. Người nào có điều kiện mà không chấp hành bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mặc dù đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:a) Chống lại chấp hành viên hoặc người đang thi hành công vụ;b) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt;c) Tẩu tán tài sản.3. Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”.
Điều 381. Tội cản trở việc thi hành án: “1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý cản trở việc thi hành án thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:a) Dẫn đến người bị kết án, người phải chấp hành án bỏ trốn;b) Dẫn đến hết thời hiệu thi hành án;c) Dẫn đến người bị kết án, người phải chấp hành án, người có nghĩa vụ thi hành án tẩu tán tài sản và không thi hành được nghĩa vụ thi hành án với số tiền từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;d) Gây thiệt hại từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng...”.
5. Nghiêm minh nhưng phải bảo đảm tính nhân văn trong hoạt động THADS
Bản án, quyết định được thi hành bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật nhưng cũng có trường hợp ngoại lệ, thể hiện bản chất nhân văn của pháp luật Việt Nam như không tổ chức cưỡng chế vào ngày nghỉ, ngày lễ, ngày tết; một số loại tài sản cá nhân không được kê biên như: số lương thực đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người phải thi hành án và gia đình trong thời gian chưa có thu nhập, thu hoạch mới; số thuốc cần dùng để phòng, chữa bệnh của người phải thi hành án và gia đình; vật dụng cần thiết của người tàn tật, vật dụng dùng để chăm sóc người ốm; đồ dùng thờ cúng thông thường theo tập quán ở địa phương; công cụ lao động cần thiết, có giá trị không lớn được dùng làm phương tiện sinh sống chủ yếu hoặc duy nhất của người phải thi hành án và gia đình; đồ dùng sinh hoạt cần thiết cho người phải thi hành án và gia đình (khoản 2 Điều 87 Luật THADS).
Tài sản của người phải thi hành án là doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ không bị kê biên gồm: số thuốc phục vụ việc phòng, chữa bệnh cho người lao động; lương thực, thực phẩm, dụng cụ và tài sản khác phục vụ bữa ăn cho người lao động; nhà trẻ, trường học, cơ sở y tế và thiết bị, phương tiện, tài sản khác thuộc các cơ sở này, nếu không phải là tài sản để kinh doanh; trang thiết bị, phương tiện, công cụ bảo đảm an toàn lao động, phòng, chống cháy nổ, phòng, chống ô nhiễm môi trường (khoản 3 Điều 87 Luật THADS).
Việc kê biên nhà ở là nơi ở duy nhất của người phải thi hành án và gia đình chỉ được thực hiện sau khi xác định người đó không có các tài sản khác hoặc có nhưng không đủ để thi hành án, trừ trường hợp người phải thi hành án đồng ý kê biên nhà ở để thi hành án. Trường hợp kê biên hoặc đương sự tự nguyện giao nhà ở là tài sản duy nhất nhưng số tiền thu được không đủ để thanh toán các nghĩa vụ thi hành án mà người phải thi hành án không còn đủ tiền để thuê nhà ở hoặc tạo lập nơi ở mới thì nếu xét thấy sau khi thanh toán các khoản nghĩa vụ thi hành án mà người phải thi hành án không còn đủ tiền để thuê nhà hoặc tạo lập nơi ở mới thì trước khi làm thủ tục chi trả cho người được thi hành án, Chấp hành viên trích lại từ số tiền bán tài sản một khoản tiền để người phải thi hành án thuê nhà phù hợp với giá thuê nhà trung bình tại địa phương trong thời hạn 01 năm. Nghĩa vụ thi hành án còn lại được tiếp tục thực hiện theo quy định của Luật THADS (khoản 5 Điều 115 Luật THADS).
Để bảo đảm quyền con người trong việc sử dụng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước, pháp luật THADS cũng quy định cấm tổ chức cưỡng chế trong những thời gian nhất định, ví dụ: không tổ chức cưỡng chế thi hành án trong thời gian từ 22 giờ đến 06 giờ sáng ngày hôm sau, các ngày nghỉ, ngày lễ theo quy định của pháp luật và các trường hợp đặc biệt khác do Chính phủ quy định (khoản 2 Điều 46 Luật THADS)./.
 
[1]Điều 1 LuậtThihànhándânsự năm 2008 (đượcsửađổi, bổ sung năm 2014) quyđịnh: “Luậtnàyquyđịnhnguyêntắc, trìnhtự, thủtụcthihànhbảnán, quyếtđịnhdânsự, hìnhphạttiền, tịchthutàisản, truythutiền, tàisảnthulợibấtchính, xửlývậtchứng, tàisản, ánphívàquyếtđịnhdânsựtrongbảnán, quyếtđịnhhìnhsự, phầntàisảntrongbảnán, quyếtđịnhhànhchínhcủaTòaán, quyếtđịnhcủaTòaángiảiquyếtphásản, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của ChủtịchỦy ban CạnhtranhQuốcgia, Hội đồng xử lý vụ việc hạnchế cạnh tranh, quyết định giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốcgia, Hội đồng giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh[3] cóliênquanđếntàisảncủabênphảithihànhvàphánquyết, quyếtđịnhcủaTrọngtàithươngmại (sauđâygọichunglàbảnán, quyếtđịnh)”.