TĂNG CƯỜNGHIỆU QUẢ CÔNG TÁC BỔ TRỢ TƯ PHÁP ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP TRONG THỜI GIAN TỚI TẠI VIỆT NAM
Sign In

TĂNG CƯỜNGHIỆU QUẢ CÔNG TÁC BỔ TRỢ TƯ PHÁP ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP TRONG THỜI GIAN TỚI TẠI VIỆT NAM

Trong những năm qua, Bộ Tư pháp đã chủ động tổ chức thực hiện có hiệu quả Chiến lược cải cách tư pháp và đã đạt những kết quả đáng ghi nhận trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, trong đó nổi bật là việc hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp.Có thể nói, việc hoàn thiện thể chế trong các lĩnh vực bổ trợ tư pháp đã tạo hành lang pháp lý cho việc xã hội hóa các hoạt động bổ trợ tư pháp, góp phần vào việc nâng cao chất lượng dịch vụ pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân, tổ chức trong thực hiện các quan hệ dân sự, kinh tế, tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho việc thúc đẩy các hoạt động đầu tư, kinh doanh, thương mại trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Hoạt động công chứng và trọng tài thương mại, hòa giải thương mại là các hoạt động được coi là hoạt động bổ trợ tư pháp. Trong đó, công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự bằng văn bản, tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc theo yêu cầu tự nguyện của cá nhân, tổ chức. Hoạt đông công chứng thời gian qua đã góp phần nâng cao tính an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch, bảo vệ quyền lợi chính đáng của cá nhân, tổ chức, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Việc thành lập các Văn phòng công chứngđã giảm tải cho các Phòng công chứng, tạo sự cạnh tranh lành mạnh,thúc đẩy các tổ chức hành nghề công chứng đổi mớiphong cách làm việc theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại và hiệu quả. Người dân, tổ chức có nhiều sự lựa chọn trong việc chứng nhận các hợp đồng, giao dịch, giá trị của hoạt động công chứng trong xã hội được nâng cao.
Trọng tài thương mại và hòa giải thương mại đều là phương thức giải quyết tranh chấp ngoài tòa án, do các bên thoả thuận để giải quyết các tranh chấp thương mại.Trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu và khu vực ngày càng sâu rộng của Việt Nam, rủi ro tranh chấp thương mại ngày càng gia tăng, thì trọng tài thương mại và hòa giải thương mại nổi lên là phương thức giải quyết tranh chấp với nhiều ưu điểm, sẽ là xu hướng trong thời gian tới.
A. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
I. Lĩnh vực công chứng
Trên cơ sở triển khai thực hiện Luật Công chứng năm 2006, nhằm tiếp tục thực hiện chủ trương xã hội hóa mạnh mẽ hơn nữa hoạt động công chứng, ngày 20/6/2014, Luật Công chứng (sửa đổi) đã được Quốc hội thông qua. Luật Công chứng năm 2014 đã bổ sung nhiều điểm mới so với Luật Công chứng năm 2006, đặc biệt là những quy định thể chế chủ trương đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động công chứng theo hướng sâu, rộng hơn. Nếu như việc xã hội hóa hoạt động công chứng theo Luật Công chứng năm 2006 chỉ dừng lại ở việc xã hội hóa về mặt tổ chức là cho phép thành lập các Văn phòng công chứng thì Luật Công chứng năm 2014 một lần nữa khẳng định chủ trương đẩy mạnh việc xã hội hóa trong hoạt động công chứng, thể hiện ở các điểm: (i) khẳng định cần đẩy mạnh việc phát triển các Văn phòng công chứng, hạn chế thành lập các phòng công chứng hay nói cách khác là chỉ được thành lập các Phòng công chứng tại những địa bàn chưa có điều kiện phát triển được Văn phòng công chứng (khoản 2 Điều 18) và từng bước chuyển đổi các Phòng công chứng thành Văn phòng công chứng. (ii) Đối với việc của công chứng cũng được xã hội hóa thêm một bước, theo đó, cùng với Ủy ban nhân dân cấp xã, cấp huyện thì công chứng viên được giao thêm việc chứng nhận bản dịch, chứng thực bản sao từ bản chính, chữ ký cá nhân trong giấy tờ, văn bản. (iii) Vai trò tự quản của các Hội công chứng được phát huy hơn bằng việc quy định thành lập Hội công chứng toàn quốc, thúc đẩy việc thành lập Hội công chứng ở địa phương và quy định các công chứng viên phải là thành viên của Hội công chứng.
Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 2104/QĐ-TTg ngày 29/12/2012 về việc phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đến năm 2020” nhằm thực hiện việc phát triển mạng lưới tổ chức hành nghề công chứng rộng khắp và phân bổ hợp lý gắn với địa bàn dân cư trên toàn quốc, tạo điều kiện tốt nhất cho người dân thực hiện công chứng; chỉ đạo địa phương về việc từng bước chuyển giao các hợp đồng, giao dịch từ Ủy ban nhân dân cấp xã sang các tổ chức hành nghề công chứng thực hiện đã tăng cường tính an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
Thực tiễn đã khẳng định chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng là hết sức đúng đắn, tạo điều kiện cho việc phát triển tổ chức và hoạt động công chứng của Việt Nam theo hướng chuyên nghiệp hóa, phù hợp với chuẩn mực và thông lệ của hoạt động công chứng khu vực và thế giới, góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thu hút đầu tư nước ngoài. Các hiện tượng tiêu cực trong công chứng trước đây (tình trạng có biểu hiện gây khó khăn, phiền hà cho người yêu cầu công chứng, quá tải của các công chứng viên) đều được giải quyết, đáp ứng đầu đủ yêu cầu của tổ chức, cá nhân.Mặt khác, việc phân cấp cho Uỷ ban nhân dân cấp huyện, cấp xã thực hiện chứng thực bản sao, chữ ký tạo điều kiện cho người dân có yêu cầu chứng thực tiết kiệm được thời gian, công sức.
Sau khi Luật Công chứng năm 2014 được ban hành, Bộ Tư pháp và các bộ, ngành luôn quan tâm, thường xuyên nghiên cứu, rà soát các văn bản, kịp thời sửa đổi, bổ sung hoặc tham mưu sửa đổi, bổ sung văn bản pháp luật, văn bản hướng dẫn để thực hiện có hiệu quả quy định của Luật Công chứng và các luật có liên quan đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Nhờ đó, tính đến thời điểm hiện nay, hệ thống chính sách, pháp luật, chiến lược phát triển nghề công chứng cơ bản đã đầy đủ và hoàn thiện với 02 Nghị định, 01 Nghị quyết, 01 Quyết định và 03 Thông tư đang có hiệu lực thi hành[1].
Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp cũng phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư tham mưu ban hành Luật sửa đổi, bổ sung 11 Luật có liên quan đến hoạt động công chứng, đồng thời kịp thời ban hành nhiều văn bản chỉ đạo và hướng dẫn tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện Luật Công chứng.
Theo quy định của Luật Công chứng, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công chứng, giao và phân cấp cho Bộ Tư pháp và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện.
Ở Trung ương, Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm xây dựng, ban hành hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về công chứng; xây dựng, trình Chính phủ ban hành chính sách phát triển nghề công chứng; tuyên truyền, phổ biến pháp luật về công chứng, chính sách phát triển nghề công chứng; bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm công chứng viên; phê duyệt Điều lệ của tổ chức xã hội - nghề nghiệp toàn quốc của công chứng viên sau khi thống nhất ý kiến với Bộ Nội vụ; đình chỉ thi hành và yêu cầu sửa đổi những văn bản, quy định của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên trái với quy định của Hiến pháp, Luật Công chứng và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan; kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo về hoạt động công chứng theo thẩm quyền; định kỳ hằng năm báo cáo Chính phủ về hoạt động công chứng; quản lý và thực hiện hợp tác quốc tế về hoạt động công chứng...
Ở địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về công chứng tại địa phương, trong đó tập trung vào các nội dung sau: Tổ chức thi hành, tuyên truyền, phổ biến pháp luật về công chứng, chính sách phát triển nghề công chứng; thực hiện các biện pháp phát triển tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn phù hợp với Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; quyết định thành lập Phòng công chứng, bảo đảm cơ sở vật chất và phương tiện làm việc cho các Phòng công chứng; quyết định việc giải thể hoặc chuyển đổi Phòng công chứng theo quy định của Luật Công chứng; ban hành tiêu chí xét duyệt hồ sơ đề nghị thành lập Văn phòng công chứng; quyết định cho phép thành lập, thay đổi và thu hồi quyết định cho phép thành lập Văn phòng công chứng, cho phép chuyển nhượng, hợp nhất, sáp nhập Văn phòng công chứng; ban hành mức trần thù lao công chứng tại địa phương; kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm và giải quyết khiếu nại, tố cáo về công chứng theo thẩm quyền; phối hợp với Bộ Tư pháp trong công tác kiểm tra, thanh tra về công chứng; báo cáo Bộ Tư pháp về hoạt động công chứng tại địa phương.
Triển khai Luật Công chứng và các văn bản hướng dẫn thi hành, đến nay, cả nước có 3.011 công chứng viên (gồm 383 công chứng viên của Phòng Công chứng và 2.628 công chứng viên của Văn phòng công chứng); có 1.295tổ chức hành nghề công chứng, trong đó có 120 Phòng công chứng và 1.175 Văn phòng công chứng. Tại 63/63 địa phương đều có Văn phòng công chứng theo chủ trương xã hội hóa.
Hiệp Hội Công chứng viên Việt Nam được thành lập vào tháng 1/2019 và đã có 59/63 Hội công chứng viên[2]được thành lập (tăng 15 lần so với thời điểm thực hiện Luật Công chứng năm 2006, đạt tỷ lệ 93%)[3].
Với tư cách là thành viên của Liên minh công chứng quốc tế (UINL) từ tháng 10/2013, công chứng Việt Nam đã chủ động, tích cực thực hiện các nghĩa vụ thành viên bao gồm: đăng cai tổ chức Hội nghị thường niên lần 6 của Ủy ban Châu Á, tổ chức Hội thảo quốc tế UINL tại Việt Nam với chủ đề “Công chứng và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”, làm việc với Đoàn kiểm tra đối với công chứng Việt Nam của Ủy ban hợp tác công chứng quốc tế, làm nhiệm vụ Chủ tịch năm 2016 Ủy ban các vấn đề Châu Á thuộc UINL, tham dự các Hội nghị toàn thể, hội nghị chuyên đề của UINL và Ủy ban Châu Á, tham gia bầu Chủ tịch UINL và các chức danh lãnh đạo nhiệm kỳ 2016-2019, bầu chủ tịch luân phiên Ủy ban Châu Á...
II. Lĩnh vực trọng tài thương mại, hòa giải thương mại
1. Về trọng tài thương mại
Luật Trọng tài thương mại năm 2010 được ban hành đã cơ bản phù hợp với thông lệ quốc tế, tiếp cận, kế thừa những nguyên tắc cơ bản nhất về việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trên thế giới và của Luật mẫu UNCITRAL, khắc phục những điểm hạn chế của Pháp lệnh trọng tài 2003 với những quy định mở, tạo điều kiện thuận lợi cho trọng tài viên, hoạt động trọng tài đáp ứng nhu cầu thực tiễn việc giải quyết tranh chấp thương mại, phù hợp với xu thế kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế.
Các quy định của Luật Trọng tài thương mại đã góp phần nâng cao nhận thức của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp về vai trò, tính hiệu quả của phương thức giải quyết trọng tài, góp phần tạo sự chuyển biến cơ bản về tổ chức và hoạt động trọng tài thương mại ở nước ta, đặc biệt là các cơ quan Tòa án nhân dân, cơ quan thi hành án dân sự các cấp đã có sự quan tâm, hỗ trợ hiệu quả đối với tổ chức và hoạt động trọng tài. Hoạt động trọng tài đã có bước khởi sắc, số lượng vụ tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài tăng dần qua các năm, loại tranh chấp được Trung tâm trọng tài giải quyết cũng đa dạng hơn, giải quyết các tranh chấp thương mại nhanh chóng, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp, giảm tải cho hoạt động xét xử của Tòa án, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam.
Thực hiện quy định của Luật Trọng tài thương mại, Bộ Tư pháp đã tham mưu, trình Chính phủ ban hành và ban hành theo thẩm quyền 01 Nghị định và 03 Thông tư[4].Bên cạnh đó, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/3/2014 của hướng dẫn thi hành một số quy định Luật Trọng tài thương mại. Việc kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành nói trên đã nhanh chóng đảm bảo tổ chức, hoạt động của các Trung tâm trọng tài đi vào hoạt động ổn định, tháo gỡ được các khó khăn, vướng mắc, góp phần đưa quy định của Luật Trọng tài thương mại sớm đi vào thực tiễn cuộc sống.
Sau 10 năm triển khai thi hành Luật Trọng tài thương mại, với nhiều cơ chế, chính sách, biện pháp đã được ban hành, thực hiện, nhận thức của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp về vai trò, tính hiệu quả của phương thức giải quyết trọng tài đã được nâng lên một bước mới, từ đó đã có sự chuyển biến cơ bản về tổ chức và hoạt động trọng tài ở nước ta, đặc biệt là các cơ quan Tòa án nhân dân, cơ quan thi hành án dân sự các cấp đã có sự quan tâm, hỗ trợ hiệu quả đối với tổ chức và hoạt động trọng tài. Hoạt động trọng tài đã có bước khởi sắc, số lượng vụ tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài tăng dần qua các năm[5], loại tranh chấp được Trung tâm trọng tài giải quyết cũng đa dạng hơn.Với những kết quả đã đạt được, hoạt động trọng tài trong thời gian qua đã đóng góp tích cực trong công cuộc cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế thông qua việc giải quyết các tranh chấp thương mại nhanh chóng, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp, giảm tải cho hoạt động xét xử của Tòa án, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam.
2. Về lĩnh vực hòa giải thương mại
Nghị định số 22/2017/NĐ-CP ngày 24/2/2017 của Chính phủ về hòa giải thương mại là văn bản pháp luật quy định đầy đủ về phương thức hòa giải thương mại ngoài tòa án nhằm đáp ứng nhu cầu về giải quyết tranh chấp đầu tư, kinh doanh, thương mại trong nước và quốc tế. Với việc ban hành Nghị định số 22/2017/NĐ-CP thì hòa giải thương mại chính thức được coi là một phương thức giải quyết tranh chấp thay thế ngoài tòa tại Việt Nam cùng với trọng tài thương mại.
Các nội dung chính của Nghị định số 22/2017/NĐ-CP bao gồm phạm vi hòa giải thương mại, thỏa thuận hòa giải thương mại, nguyên tắc, trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thương mại, hòa giải viên thương mại, tổ chức hòa giải thương mại, chi nhánh, văn phòng đại diện của tổ chức hòa giải thương mại nước ngoài tại Việt Nam; kết quả hòa giải thành, công nhận kết quả hòa giải thành theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Trong trường hợp hòa giải không thành các bên có quyền yêu cầu trọng tài hoặc tòa án giải quyết tranh chấp theo quy định của pháp luật.
Mặc dù chỉ ở tầm Nghị định nhưng Nghị định số 22/2017/NĐ-CP về cơ bản đã tiếp cận các quy định về hòa giải của các nước tiên tiến trên thế giới và Luật mẫu UNCITRAL, cụ thể như sau:
Thứ nhất, đánh giá và xác định đúng vị trí, vai trò của hòa giải viên là cầu nối, bên trung gian của tranh chấp, không phải là bên giải quyết tranh chấp, qua đó, đưa hòa giải về đúng vị trí, vai trò của phương thức này nhằm phát huy tính ưu việt của phương thức hòa giải so với trọng tài và Tòa án.
Thứ hai, quy định điều kiện trở thành hòa giải viên thương mại, thành lập trung tâm hòa giải thương mại đơn giản, dễ dàng, không coi hòa giải là một hoạt động kinh doanh và một nghề độc lập, cấm kiêm nhiệm, nhờ đó, tạo điều kiện và khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia hòa giải. 
Thứ ba, quy định trình tự, thủ tục hòa giải hoàn toàn do các bên thỏa thuận quyết định, đảm bảo tính linh hoạt và quyền tự chủ của các bên, cho phép các bên có thể thỏa thuận về cách giải quyết vụ việc vào bất kỳ thời điểm nào trong quá trình hòa giải nhằm tối ưu hóa việc sử dụng hòa giải làm phương thức giải quyết tranh chấp.
Thứ tư, đơn giản hóa các quy định về quản lý nhà nước đối với hoạt động hòa giải nhằm tránh sự can thiệp không cần thiết cho hoạt động mang tính tương đối độc lập này.
Thứ năm, quy định về hoạt động của tổ chức hòa giải thương mại nước ngoài tại Việt Nam phù hợp với cam kết quốc tế.
Nhằm cụ thể hóa các quy định của Nghị định số 22/2017/NĐ-CP, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư 02/2018/TT-BTP ngày 26/2/2018 hướng dẫn thi hành Nghị định và phối hợp với Bộ, ngành, địa phương đã thực hiện nhiều giải pháp hữu hiệu để truyên truyền, phổ biến và triển khai sâu rộng văn bản này trong cả nước.
Triển khai Luật Trọng tài thương mại, Nghị định số 22/2017/NĐ-CP ngày 24/2/2017 của Chính phủ về hòa giải thương mại, đến nay, cả nước đã có hơn 700 Trọng tài viên thương mại với 35 Trung tâm trọng tài, trong đó có 8 Trung tâm trọng tài được bổ sung chức năng hòa giải thương mại; 15 Trung tâm hòa giải thương mạivới hơn 150 hòa giải viên.
Bộ Tư pháp đã tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm tổ chức các khóa tập huấn về kỹ năng hành nghề, đạo đức nghề nghiệp cho các trọng tài viên, hòa giải viên thương mại tổ chức khảo sát về trọng tài, hòa giải tại một số địa phương có hoạt động kinh doanh, đầu tư thương mại phát triển để đề xuất các cơ chế, chính sách phát triển hoạt động trọng tài, hòa giải thương mại, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong hội nhập quốc tế. Các Trung tâm trọng tài, hòa giải thương mại cũng đã thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kỹ năng tư vấn, kỹ năng giải quyết tranh chấp thương mại... cho các trọng tài viên, hòa giải viên thương mại của tổ chức mình.
III. MỘT SỐ TỒN TẠI, HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN
3.1.Một số tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những kết quả đã đạt được nêu trên, trong bối cảnh đất nước bước sang giai đoạn mới, đẩy mạnh cải cách tư pháp, phát triển kinh tế - xã hội và các ngành dịch vụ theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, công tác xã hội hóa hoạt động bổ trợ tư pháp còn tồn tại một số tồn tại, hạn chế như sau:
- Số lượng, chất lượng công chứng viên, trọng tài viên, hòa giải viên đã có sự phát triển nhưng chưa đồng đều.Một số trọng tài viên, hòa giải viên chưa được trang bị đầy đủ kiến thức thương mại quốc tế; yếu về kỹ năng nghề nghiệp trong việc giải quyết tranh chấp, nhất là các vụ việc tranh chấp đầu tư quốc tế.
- Việc phân bổ các Văn phòng công chứng cũng chủ yếu tập trung tại những tỉnh, thành phố có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển. Bên cạnh đó, các Văn phòng công chứng dù hoạt động theo loại hình công ty hợp danh nhưng trên thực tế có không ít Văn phòng công chứng chỉ có 01 công chứng viên hành nghề thực tế, công chứng viên hợp danh còn lại thực chất là “đi thuê”; tổ chức của một số Văn phòng công chứng còn thiếu tính ổn định, bền vững.
- Số lượng Trung tâm trọng tài, trung tâm hòa giải thương mại được thành lập nhiều nhưng số Trung tâm thường xuyên có vụ việc giải quyết chiếm rất ít, thậm chí có Trung tâm từ khi thành lập cho đến nay chưa ban hành một phán quyết trọng tài nào. Theo số liệu thống kê, số vụ tranh chấp giải quyết bằng trọng tài tại Việt Nam mới chỉ chiếm chưa đến 1% trên tổng số vụ tranh chấp thương mại được tòa án thụ lý, xét xử hàng năm.
- Hoạt động hành nghề công chứng còn có những sai sót, vi phạm, có tình trạng công chứng “khống”, công chứng “treo”, cạnh tranh không lành mạnh.
 - Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động công chứng, trọng tài thương mại, hòa giải thương mại còn ở mức độ thấp, chưa bắt kịp tiến bộ và ứng dụng công nghệ thông tin trong bối cảnh nền kinh tế đang chuyển đổi số.
3.2. Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế
- Quy định của pháp luật về công chứng, trọng tài thương mại và hoà giải thương mại còn thiếu hoặc chưa phù hợp với thực tiễn, đặc thù của  các nghề bổ trợ tư pháp. Nhất là Luật trọng tài thương mại được ban hành từ năm 2010, đến nay đã có nhiều điểm lạc hậu, không còn phù hợp với sự phát triển của kinh tế - xã hội;
- Nhận thức về vị trí, vai trò của nghề công chứng, trọng tài thương mại, hòa giải thương mại còn chưa đầy đủ, phần lớn doanh nghiệp của Việt Nam chưa có thói quen sử dụng trọng tài, hòa giải trong việc giải quyết tranh chấp của mình, chưa có niềm tin vào vai trò của trọng tài, hòa giải viên và khả năng thực thi các phán quyết của trọng tài, hòa giải viên trong thực tế. Vẫn còn cách hiểu coi đây là các hoạt động kinh doanh thông thường, dẫn đến yêu cầu cắt giảm các điều kiện, tiêu chuẩn hành nghề.
- Một bộ phận công chứng viên, trọng tài, hòa giải viên còn chưa nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò của nghề, từ đó thiếu rèn luyện về chuyên môn, về đạo đức nghề nghiệp.
Đánh giá chung:
Chủ trương, chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước trong thời gian qua đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động bổ trợ tư pháp phát triển và đạt được nhiều kết quả nổi bật, trong đó, hoạt động công chứng và hoạt động trọng tài thương mại, hòa giải thương mại cũng đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận:
- Nhận thức của các cơ quan quản lý, xã hội về vị trí vai trò của hoạt động công chứng, trọng tài thương mại, hòa giải thương mại đã có nhiều chuyển biến tích cực, từ đó tạo nền tảng thúc đẩy các hoạt động này phát triển, đồng thời đã xây dựng, phát triển đội công chứng viên, trọng tài thương mại, hòa giải thương mại từng bước đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, hội nhập quốc tế, nâng cao trách nhiệm đối với xã hội.
-Chính sách pháp luật từng bước được hoàn thiện, bám sát chủ trương đổi mới theo yêu cầu của Chiến lược cải cách tư pháp; thúc đẩy thành lập và phát huy vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên; huy động đội ngũ chuyên gia tham gia hoạt động trọng tài thương mại, hòa giải thương mại…
- Mạng lưới các tổ chức hành nghề công chứng phát triển rộng khắp trên phạm vi cả nước, từ năm 2008 (tính từ thời điểm có Văn phòng công chứng), mới chỉ có 43/128 Văn phòng công chứng thì đến nay, cả nước có 1.186 tổ chức hành nghề công chứng, bao gồm 118 Phòng công chứng và 1.068 Văn phòng công chứng, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của xã hội.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu và khu vực ngày càng sâu rộng của Việt Nam, thì việc phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng của tổ chức, cá nhân hành nghề công chứng, trọng tài thương mại, hòa giải thương mại trong thời gian qua đã làm giảm tải công việc và chi phí của nhà nước, tăng cường tiếp cận công lý của người dân, bảo đảm an toàn pháp lý và thúc đẩy các giao dịch trong hoạt động kinh tế, dân sự.
 
PHẦN THỨ BA
QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU, GIẢI PHÁPTĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ CÔNG TÁC BỔ TRỢ TƯ PHÁP ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP TRONG THỜI GIAN TỚI TẠI VIỆT NAM
 

I. Quan điểm
1. Thể chế đầy đủ nội dung tinh thần của Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng về xây dựng bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; cải cách tư pháp, bảo đảm pháp chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực bổ trợ tư pháp.
2. Tiếp tục hoàn thiện thể chế pháp luật, chính sách và chú trọng công tác theo dõi thi hành pháp luật về các lĩnh vực bổ trợ tư pháp phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng về quản lý, phát triển hoạt động bổ trợ tư pháp để hỗ trợ đắc lực cho các cơ quan tư pháp và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, cải cách tư pháp, cải cách hành chính của đất nước.
3. Bảo đảm các nguồn lực về vật chất, nhân lực, tài chính, điều kiện phương tiện làm việc, đặc biệt là trong bối cảnh tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số; huy động các nguồn lực xã hội để phát triển các nghề bổ trợ tư pháp; bảo đảm chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng hợp lý và nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước, người đứng đầu các tổ chức xã hội - nghề nghiệp về bổ trợ tư pháp cũng như tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này.
2. Quan điểm đối với một số lĩnh vực cụ thể
2.2. Lĩnh vực công chứng
- Phát triển nghề công chứng ổn định, bền vững nhằm tạo thuận lợi cho cá nhân, tổ chức tiếp cận dịch vụ công chứng, bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên tham gia hợp đồng, giao dịch, phòng ngừa tranh chấp, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức; đổi mới hoạt động công chứng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và cải cách tư pháp, đưa hoạt động công chứng Việt Nam hội nhập với khu vực và thế giới.
- Phát triển,nâng cao chất lượng, đạo đức hành nghề của đội ngũ công chứng viênđáp ứng yêu cầu thực tiễn, vừa tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa nhưng vẫn bảo đảm cung cấp dịch vụ công chứng đầy đủ, kịp thời tại các vùng địa bàn khó khăn.
2.5. Lĩnh vực trọng tài thương mại, hòa giải thương mại
- Thể chế hóa quan điểm, đường lối chủ trương của Đảng về chiến lược cải cách tư pháp, hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài; tòa án hỗ trợ bằng quyết định công nhận việc giải quyết đó.
- Đảm bảo phù hợp với quy định của Hiến pháp, các luật, bộ luật có liên quan; thống nhất, đồng bộ với các văn bản quy phạm pháp luật.
- Nângcao chất lượng và hỗ trợ phát triển phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, hòa giải thương mại đưa ra giải pháp hữu hiệu nhằm tăng cường năng lực của trọng tài, hòa giải thương mại Việt Nam để từng bước đáp ứng yêu cầu giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế, nâng cao uy tín trọng tài trong nước, thúc đẩy nhucầusửdụngdịchvụtrọngtàitrongviệcgiảiquyếtcáctranhchấpthươngmại, đầu tư nhất là tranh chấp đầu tư có yếu tố nước ngoài nhằm bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của người dân và doanh nghiệp, giảm tải công tác xét xử của Tòa ánqua đó góp phần cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh doanh nghiệp, cạnh tranh quốc gia, hội nhập quốc tế.
- Tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về trọng tài, hòa giải thương mại, áp dụng phù hợp với thực tiễn tại Việt Nam.
III. Mục tiêu
1.Tiếp tục hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách điều chỉnh hoạt động bổ trợ tư pháp,gắn với việc hoàn thiện, cải cách các quy định về tố tụng dân sự, tố tụng hình sự để phù hợp với những vấn đề mới phát sinh trong đời sống kinh tế xã hội do cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang tạo ra.
2.Tập trung xây dựng đội ngũ hành nghề bổ trợ tư pháp đủ mạnh cả về số lượng và chất lượng, hoạt động chuyên nghiệp, tuân thủ đạo đức nghề nghiệp, bảo đảm sự phát triển bền vững, đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng lớn của tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp.
3. Tiếp tục nâng cao nhận thức đúng đắn của các cấp, các ngành về vị trí, vai trò của hoạt động bổ trợ tư pháp, không đồng nhất các nghề bổ trợ tư pháp với các nghề kinh doanh thông thường, qua đó tăng cường cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có liên quan đến hoạt động bổ trợ tư pháp.
4.Tăng cường nguồn lực, nâng cao năng lực bộ máy cơ quan quản lý nhà nước, đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện công tác quản lý nước về bổ trợ tư pháp từ Trung ương đến địa phương; đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật trong các lĩnh vực bổ trợ tư pháp.
5.Xác định rõ trách nhiệm tự quản của các tổ chức xã hội – nghề nghiệp trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp theo đúng nguyên tắc các tổ chức này thực hiện trách nhiệm tự quản theo quy định của pháp luật nhưng phải dưới sự quản lý của nhà nước. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động tự quản.
6.Xây dựng cơ chế, giải pháp huy động tối đa các nguồn lực xã hội để phát triển lĩnh vực bổ trợ tư pháp.
IV. Nhiệm vụ và giải pháp
Để thực hiện được các mục tiêu đã đề ra trong thời gian tới, cần tập trung thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp cụ thể như sau:
1. Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp
1.1. Lĩnh vực công chứng
Luật sửa đổi, bổ sung Luật Công chứng kiến được đưa vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2022-2024, theo đó dự kiến đề xuất sửa đổi Luật theo hướng sau:
- Tiếp tục thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về cải cách tư pháp, cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh trong hoạt động công chứng.
- Thiết lập thể chế pháp lý điều chỉnh cả hoạt động công chứng và chứng thực, xác định đúng vai trò, khái niệm, bản chất và phạm vi hoạt động công chứng - chứng thực để xác lập thể chế pháp lý đồng bộ, hiệu quả cho cả hai hoạt động này, thiết lập mối quan hệ tương tác, hỗ trợ lẫn nhau thay vì tách rời và không có sự phối hợp như trong thời gian qua.
- Phát triển đội ngũ công chứng viên đáp ứng yêu cầu thực tiễn (số lượng và chất lượng) để vừa tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa nhưng vẫn bảo đảm cung cấp dịch vụ công chứng đầy đủ, kịp thời tại các vùng địa bàn khó khăn;
Phát triển các tổ chức hành nghề công chứng đáp ứng yêu cầu về số lượng và phân bổ hợp lý, nhất là tại các vùng địa bàn khó khăn; xác định mô hình tổ chức hành nghề công chứng phù hợp với điều kiện mới.
- Tiếp tục thực hiện việc công chứng bắt buộc đối với những giao dịch quan trọng trong đời sống xã hội nhằm bảo đảm giá trị pháp lý, tăng cường sự quản lý nhà nước; bảo đảm sự phù hợp giữa các quy định của Luật Công chứng với các đạo luật có liên quan như Luật Đất đai, Luật Hôn nhân gia đình, Luật Nhà ở…
-Tăng cường quản lý nhà nước về công chứng, chứng thực thông qua việc xác định đúng đối tượng trọng tâm của công tác quản lý nhà nước về công chứng, chứng thực để có các giải pháp, công cụ quản lý phù hợp, hiệu quả nhằm bảo đảm phát triển hoạt động công chứng, chứng thực đúng định hướng; phát huy trách nhiệm tự quản của tổ chức xã hội – nghề nghiệp của công chứng viên phù hợp với quy định của pháp luật và thông lệ quốc tế.
- Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động công chứng để thực hiện chuyển đổi số trong hoạt động công chứng theo lộ trình phù hợp.
1.2. Lĩnh vực trọng tài thương mại, hòa giải thương mại
-Tiếptục triển khai có hiệu quả các quy định của Luật Trọng tài thương mại, Nghị định số 22/2017/NĐ-CP ngày 24/2/2017 và các văn bản quy định chi tiết thi hành, góp phần thực hiện có hiệu quả và kịpthờinhữngnộidungcó liênquancủaChiếnlượccảicáchtư pháp, Chiếnlượchộinhậpkinhtếquốctế, cũngnhư nhữngchủtrương, chínhsách, địnhhướngquantrọngcủa Đảngvềcảicáchhànhchính, pháttriểnkinhtế - xã hộicủa đấtnước, từng bước đưahoạt độngtrọngtài, hòa giải củaViệtNamxích lạigầnhơnnữavới trọng tài, hòa giải thương mại trên thế giới.
- Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Trọng tài thương mại 2010 phù hợp thực tiễn Việt Nam phù hợp với luật mẫu được UNCITRAL công nhận. Sửa đổi, bổ sung Nghị định số 22/2017/NĐ-CP ngày 24/2/2017 của Chính phủ về hòa giải thương mại; sớm nghiên cứu xây dựng Luật Hòa giải thương mại với các nội dung và nguyên tắc chủ đạo theo mô hình Luật mẫu UNCITRAL và phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
- Đẩy mạnh việctuyêntruyền, phổbiến phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, hòa giải thươn mại nhằmnângcaonhậnthứccủacá nhân, cơ quan, tổchức, đặcbiệtlà cộng đồngdoanhnghiệpvềvaitrò, tínhhiệuquảcủatrọngtài, hòa giảitrongviệcgiảiquyếtcáctranhchấpthươngmại.
- Đề nghịTòa án nhân dân tối cao chỉ đạo, quán triệt và hướng dẫn Tòa án nhân dân các địa phương quan tâm, hỗ trợ hoạt động trọng tài trong việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, việc xem xét hủy phán quyết trọng tài đã được quy định trọng Luật Trọng tài thương mại; tăng cường việc tuyên truyền, đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng về kiến thức pháp luật trong nước và quốc tế liên quan đến hoạt động trọng tài thương mại cho đội ngũ thẩm phán; nghiên cứu, xây dựng các án lệ của Tòa án trong hoạt động trọng tài thương mại.
- Đề nghị Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn, chỉ đạo cơ quan kiểm sát các địa phương tăng cường công tác giám sát việc thực hiện các quy định của Luật Trọng tài thương mại về xem xét hủy phán quyết trọng tài của cơ quan Tòa án.
2. Nâng cao năng lực cán bộ làm công tác quản lý nhà nước
- Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về bổ trợ tư pháp ở Trung ương và địa phương từ khâu tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng đến bổ nhiệm…
- Bảo đảm sự ổn định của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về bổ trợ tư pháp ở Trung ương và địa phương bởi đây là đội ngũ trực tiếp làm công tác tham mưu và đòi hỏi kinh nghiệm thực tiễn cao.
- Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về bổ trợ tư pháp ở Trung ương và địa phương, bao gồm cả hoạt động biệt phái, cử đi thực tế tại cơ sở; trong đó chú trọng đến đào tạo các kỹ năng trong hoạt động quản lý như: kỹ năng nghiên cứu hồ sơ, các tình huống trong quá trình thanh tra; chứng cứ trong hoạt động thanh tra; xử lý vi phạm hành chính; trình tự giải quyết khiếu nại hành chính; trình tự giải quyết khiếu nại, tố cáo và soạn thảo văn bản trong hoạt động thanh tra...
- Tăng cường sự kiểm tra, giám sát đối với đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về bổ trợ tư pháp ở Trung ương và địa phương.
3. Một số giải pháp phát triển nghề bổ trợ tư pháp, nâng cao năng lực đội ngũ công chứng viên, trọng tài viên, hòa giải viên
- Rà soát, quy hoạch, quản lý các cơ sở đào tạo đại học chuyên ngành luật, bảo đảm chất lượng đầu ra của các cơ sở này;
- Tiếp tục đổi mới chương trình đào tạo các nghề bổ trợ tư pháp theo hướng gắn kết với đào tạo các chức danh tư pháp khác, bổ sung việc bồi dưỡng lý luận chính trị, nâng cao nhận thức nghề nghiệp, đạo đức nghề nghiệp cho học viên.
- Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động công chứng, trọng tài thương mại, hòa giải thương mại, đáp ứng yêu cầu của việc xây dựng Chính phủ điện tử và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư./.
 
[1] Nghị định số 29/2015/NĐ-CP ngày 15/3/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng; Nghị định số 82/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã; Nghị quyết số 172/NQ-CP ngày 19/11/2020 của Chính phủ về chính sách phát triển nghề công chứng; Quyết định số 27/2012/QĐ-TTg ngày 11/6/2012 của Thủ tướng Chính phủ quy định chế độ phụ cấp trách nhiệm theo nghề đối với Chấp hành viên, Công chứng viên, Thẩm tra viên và Thư ký thi hành án; Thông tư số 04/2015/TT-BTP ngày 15/4/2015 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn tập sự hành nghề công chứng; Thông tư số 01/2021/TT-BTP ngày 03/02/2021 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Công chứng (thay thế Thông tư số 06/2015/TT-BTP ngày 15/6/2015 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng); Thông tư số 257/2016/TT-BTC ngày 11/11/2016 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý, sử dụng phí công chứng; phí chứng thực; phí thẩm định tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề công chứng; phí thẩm định điều kiện hoạt động Văn phòng công chứng; lệ phí cấp thẻ công chứng viên, được sửa đổi, bổ sung một số điều bởi Thông tư số 111/2017/TT-BTC ngày 20/10/2017 của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
[2] Các tỉnh chưa thành lập được Hội công chứng viên gồm: Quảng Trị, Hà Nam, Điện Biên, Kon Tum.
[3] Trước ngày Luật Công chứng năm 2015 có hiệu lực, cả nước chỉ có 04 Hội công chứng viên gồm: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Hải Dương, thành phố Đà Nẵng
[4]Nghị định số 63/2011/NĐ-CP ngày 28/7/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trọng tài thương mại; ban hành theo thẩm quyền Thông tư số 12/2012/TT-BTP ngày 07/11/2012 ban hành một số biểu mẫu về tổ chức và hoạt động trọng tài thương mại; phối hợp với cơ quan, tổ chức có liên quan trong việc ban hành Thông tư số 42/2013/TT-BTC ngày 11/4/2013 của Bộ Tài chính quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý lệ phí trong lĩnh vực hoạt động trọng tài thương mại, Thông tư số 222/2016/TT-BTC ngày 10/11/2016 của Bộ Tài chính quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thẩm định tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề trong lĩnh vực trọng tài thương mại
[5].Theo thống kê, trong 10 năm (từ 2011-2020) các Trung tâm trọng tài đã ban hành gần 2.900 phán quyết trọng tài.