CHỦ TRƯƠNG NÂNG TẦM HỢP TÁC ĐA PHƯƠNG VÀ NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC CỦA HỢP TÁC ĐA PHƯƠNG TRONG LĨNH VỰC PHÁP LUẬT VÀ TƯ PHÁP
Sign In

CHỦ TRƯƠNG NÂNG TẦM HỢP TÁC ĐA PHƯƠNG VÀ NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC CỦA HỢP TÁC ĐA PHƯƠNG TRONG LĨNH VỰC PHÁP LUẬT VÀ TƯ PHÁP

Đối ngoại đa phương là một bộ phận quan trọng của Đối ngoại Việt Nam. Đứng trước yêu cầu phải thể hiện tầm vóc toàn diện và sâu rộng so với các thời kỳ trước, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 25-CT/TW về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030. Đây là văn bản chỉ đạo đầu tiên của Đảng ta về công tác đối ngoại đa phương của đất nước, đưa đối ngoại đa phương thành một nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, trong đó có lĩnh vực pháp luật và tư pháp.

Tổng quan về công tác đối ngoại đa phương
  1. Đối ngoại đa phương đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt nền móng ngay từ ngày đầu thành lập nước và đã đạt nhiều thành tựu to lớn, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thời kỳ 1945-1975, đối ngoại đa phương đã góp phần khẳng định vị thế của một nước Việt Nam độc lập, thống nhất với những quyền dân tộc cơ bản trên trường quốc tế, hình thành mặt trận quốc tế rộng rãi chưa từng có để ủng hộ và hỗ trợ Việt Nam đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Những cuộc đàm phán đa phương với các cường quốc tại Giơ-ne-vơ năm 1954, các vòng đàm phán Pa-ri kéo dài từ năm 1968 đến đầu năm 1973 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam là những dấu son nổi bật của đối ngoại nước ta nói chung và đối ngoại đa phương nói riêng.
  2. Bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa (từ năm 1975 đến nay), đối ngoại đa phương Việt Nam đã trưởng thành mạnh mẽ, triển khai toàn diện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, an ninh, kinh tế - phát triển, xã hội và văn hóa, ngày càng tích cực, chủ động, đa dạng về cấp độ, phương thức và đã đạt được những thành tựu to lớn, đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc phá thế bao vây cấm vận, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, duy trì môi trường hòa bình, ổn định, tăng cường và làm sâu sắc hơn các mối quan hệ song phương, nâng cao vị thế đất nước, thu hút mọi nguồn lực phục vụ phát triển đất nước. 
  3. Việc nước ta trở thành thành viên của Liên hợp quốc ngày 20-9-1977 có ý nghĩa chính trị - pháp lý quan trọng, khẳng định vị trí đầy đủ của một nước Việt Nam độc lập, thống nhất trên trường quốc tế, mở ra thời kỳ mới cho triển khai hoạt động đối ngoại nói chung và đối ngoại đa phương nói riêng. Ở tầm khu vực, việc gia nhập ASEAN năm 1995 có ý nghĩa mở đường cho tiến trình hội nhập khu vực và đến nay, nước ta đã tham gia hầu hết các cơ chế khu vực then chốt, nổi bật là Diễn đàn hợp tác kinh tế khu vực châu Á - Thái Bình Dương (APEC). Ở tầm liên khu vực, nước ta đã tham gia sáng lập Hội nghị Á - (ASEM) năm 1996, tổ chức thành công Hội nghị Cấp cao Pháp ngữ năm 1997 và Hội nghị Cấp cao ASEM năm 2004. Việc trở thành thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2007 là mốc quan trọng ghi dấu tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta ở quy mô toàn cầu.  
  4. Với chủ trương hội nhập quốc tế toàn diện, ta tham gia và đóng góp ngày càng tích cực, chủ động, đa dạng về cấp độ, hình thức, phương thức, đối tác và có nhiều chuyển biến về chất lượng. Năng lực chủ trì, điều hành và vai trò dẫn dắt của Việt Nam ngày càng được khẳng định, đặc biệt với việc đảm nhận thành công các trọng trách quốc tế như Chủ tịch ASEAN năm 2010, thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008 - 2009 và chủ nhà Năm APEC 2006 và 2017. Kể từ năm 2014, ta cử lực lượng quân đội tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, đánh dấu một bước nâng tầm hội nhập và đóng góp của ta đối với nỗ lực quốc tế duy trì hòa bình và an ninh thế giới.
  5. Đối ngoại đa phương, nhất là tại các diễn đàn chủ chốt như ASEAN, Liên hợp quốc và phong trào Không liên kết, luôn ở tuyến đầu trong nỗ lực bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, duy trì môi trường hòa bình và ổn định phục vụ phát triển. Việc vận dụng luật pháp quốc tế, chuẩn mực chung và đấu tranh pháp lý, công luận là những công cụ then chốt để thực hiện những mục tiêu đó. Ta cũng bước đầu tham gia hình thành các cơ chế hợp tác, xây dựng luật lệ, chuẩn mực chung, như việc thúc đẩy triển khai Tuyên bố về ứng xử các bên ở Biển Đông (DOC), xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).
  6. Đến nay, nước ta tích cực tham gia một mạng lưới rộng lớn của hầu hết các cơ chế hợp tác, liên kết kinh tế đa phương từ cấp độ toàn cầu (WTO, WB, IMF…), liên khu vực (ASEM, APEC, FEALAC…), khu vực (ASEAN, ADB…) cho đến mạng lưới các hiệp định thương mại tự do với hầu hết các trung tâm kinh tế - thương mại hàng đầu thế giới. Việc ta tham gia mạng lưới liên kết kinh tế đa phương như vậy đã góp từng bước mở cửa, gắn nền kinh tế và thị trường trong nước với khu vực và thế giới, tiếp thu những nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế, thu hút nguồn lực cho phát triển, tạo thêm động lực xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế tahị trường định hướng xã hội chủ nghĩa... Hợp tác đa phương trong các lĩnh vực văn hóa, an sinh xã hội, lao động, thông tin - truyền thông, môi trường, du lịch... ngày càng được mở rộng trên tinh thần áp dụng một cách chọn lọc các tiêu chí, tiêu chuẩn khu vực và quốc tế phù hợp với các điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam, qua đó giúp hình thành bản sắc văn hóa Việt Nam thời kỳ hội nhập, thúc đẩy tiến bộ xã hội, phát triển thị trường lao động và hệ thống an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo và thực hiện các Mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc… Hội nhập khu vực và quốc tế về khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, y tế đóng vai trò quan trọng đối với việc phát triển nền khoa học, giáo dục tiên tiến, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thông tin và y tế quốc gia đáp ứng nhu cầu của người dân, tiến tới thu hẹp khoảng cách phát triển với khu vực và thế giới trong các lĩnh vực này.
  7. Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng định hướng công tác đốingoại đa phương là “Chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và Liên hợp quốc”. Nghị quyết 22-NQ/TW ngày 10-4-2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế cũng nêu rõ nhiệm vụ “chủ động và tích cực tham gia các thể chế đa phương, góp phần xây dựng trật tự chính trị và kinh tế công bằng, dân chủ, ngăn ngừa chiến tranh, xung đột, củng cố hòa bình, đẩy mạnh hợp tác cùng có lợi”. Đối ngoại đa phương Việt Nam đứng trước yêu cầu phải thể hiện tầm vóc toàn diện và sâu rộng so với các thời kỳ trước, chuyển mạnh sang “chủ động đóng góp xây dựng, định hình luật chơi chung”, thể hiện tinh thần “thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”, đồng thời tiếp tục nỗ lực hoàn tất các cam kết quốc tế quan trọng như là cam kết gia nhập WTO vào năm 2018, ASEAN 2025, Mục tiêu phát triển bền vững 2030, Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu. 
  8. Ngày 8/8/2018, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 25-CT/TW về đẩy mạnh và nâng tầm ĐNĐP đến năm 2030, văn bản chỉ đạo đầu tiên của Đảng ta về công tác ĐNĐP của đất nước, đưa ĐNĐP thành một định hướng chiến lược quan trọng hàng đầu và là một phương thức hiệu quả thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược-xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
  9. Chỉ thị 25-CT/TW xác định mục tiêu của công tác ĐNĐP thời gian tới là “nỗ lực vươn lên đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt hoặc hòa giải tại các diễn đàn, tổ chức đa phương có tầm quan trọng chiến lược đối với đất nước”, đồng thời đề ra các quan điểm chỉ đạo chính, xác định đây là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị; việc thực hiện phải bảo đảm lợi ích quốc gia-dân tộc và góp phần giải quyết các vấn đề khu vực và toàn cầu, xử lý hài hòa những quan tâm chính đáng của đối tác, chủ động đóng góp xây dựng các thể chế đa phương theo hướng minh bạch, công bằng, dân chủ; kết hợp chặt chẽ giữa ĐNĐP và song phương, phát huy sức mạnh tổng hợp của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, huy động mọi tiềm năng của xã hội. Ngay sau khi Chỉ thị 25 ra đời, Việt Nam đã gặt hái được nhiều kết quả của ngoại giao đa phương với việc tổ chức rất thành công Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ - Triều lần hai, chủ trì năm Chủ tịch ASEAN 2020, đảm nhiệm trọng trách Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021. Việc nắm giữ những vai trò quan trọng như vậy thể hiện rõ Việt Nam thực sự là một thành viên trách nhiệm với cộng đồng quốc tế. Những đóng góp của Việt Nam tại các diễn đàn đa phương thời gian qua cũng được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Điều này thể hiện vai trò, trách nhiệm của Việt Nam trong triển khai các yêu cầu, cam kết của nước ta tại các diễn đàn đa phương theo luật pháp quốc tế. Thực hiện cam kết với tinh thần trách nhiệm cao, Việt Nam tham gia tích cực vào các hoạt động của Liên hợp quốc, điển hình là hoạt động gìn giữ hòa bình, được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá rất cao.
Hợp tác đa phương trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp
  1. Kế thừa thành tựu của 35 năm đổi mới, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII xác định Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác và cùng có lợi. Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên có tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
  2. Đối với công tác thể chế và pháp luật quốc tế, Đại hội đã xác định phương hướng đổi mới, hoàn thiện thể chế trong nước, nâng cao năng lực tự chủ, cạnh tranh và khả năng thích ứng của đất nước. Chủ động tham gia, tích cực đóng góp, nâng cao vai trò của Việt Nam trong xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự chính trị - kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế và các hiệp định thương mại đã ký kết. Đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương, kết hợp chặt chẽ với đối ngoại song phương, thực hiện tốt các trọng trách quốc tế, nhất là trong ASEAN, Liên hợp quốc và các khuôn khổ hợp tác Châu Á - Thái Bình Dương. định “Tiếp tục đổi mới hợp tác quốc tế về pháp luật theo hướng chủ động, tích cực, tận dụng hiệu quả  các quy tắc, luật lệ quốc tế và tham gia các hoạt động của cộng đồng khu vực và quốc tế; chủ động đề xuất sáng kiến, cơ chế hợp tác trên nguyên tắc cùng có lợi, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới, nhằm tạo ra sự thay đổi về chất lượng công tác hợp tác quốc tế về pháp luật. Nghiên cứu giải pháp gia tăng sự hiện diện của chuyên gia pháp luật Việt Nam trong các thiết chế luật pháp quốc tế”[1]. Chủ trương hợp tác quốc tế trong lĩnh vực pháp luật cũng được cụ thể trong hóa trong Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế và Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020
Tình hình hoạt động của các cơ chế toàn cầu và khu vực trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp
Liên hợp quốc:
  1. Việc phát triển và tôn trọng luật pháp quốc tế là một phần quan trọng trong các hoạt động LHQ với mục tiêu "thiết lập các điều kiện để duy trì công lý và tôn trọng các nghĩa vụ phát sinh từ các hiệp ước và các nguồn luật quốc tế khác"[2]. Từ khi được thành lập đến nay, LHQ đã có những đóng góp to lớn trong việc pháp điển hóa và phát triển luật pháp quốc tế, đưa ra khuyến nghị mang tính định hướng cho các chủ đề của luật pháp quốc tế và xây dựng chuẩn mực cho các lĩnh vực chuyên môn khác nhau[3]. Sự tham gia của Việt Nam vào các hoạt động pháp luật trong khuôn khổ của LHQ cụ thể như sau:
  2. Ủy ban pháp luật quốc tế (ILC): ILC được thành lập theo Nghị quyết số 174 (II) ngày 21/11/1947 của Đại hội đồng LHQ, có nhiệm vụ thúc đẩy quá trình pháp điển hóa và phát triển tiến bộ pháp luật quốc tế thông qua việc nghiên cứu, thảo luận và đưa ra khuyến nghị. Cơ quan này có chức năng soạn thảo các văn bản thảo luận cho Đại hội đồng thông qua thành các ĐƯQT, xây dựng nguyên tắc, kiến tạo luật chơi chung, thúc đẩy hợp tác các quốc gia, giữ vững môi trường hòa bình, đóng góp vào sự tiến bộ nhân loại. ILC là nơi cho ra đời nhiều ĐƯQT có ý nghĩa quan trọng, trong đó điển hình là Công ước Luật biển Geneva 1968, Công ước Vienna về luật ĐƯQT 1969, Công ước Rome về Quy chế Tòa án hình sự quốc tế 1998[4].
  3. Trong khuôn khổ LHQ, thông qua việc trình bày và đối thoại với các Ủy ban giám sát thực thi các ĐƯQT về quyền con người (như Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, Công ước chống tra tấn, Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ...) hoặc cơ chế theo dõi thực hiện quyền con người dựa trên Hiến chương LHQ (Cơ chế rà soát kiểm điểm định kỳ phổ quát), Việt Nam đã làm rõ về những thành tựu thúc đẩy và bảo đảm quyền con người thông qua quá trình cải cách pháp luật và cải cách tư pháp; cập nhật về các chính sách, pháp luật, thực tiễn thi hành pháp luật nhằm giúp các đối tác quốc tế hiểu đúng những sự phát triển tích cực của pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng tại Việt Nam. Thông qua các cơ chế này, Việt Nam ngày càng thể hiện vai trò thành viên tích cực, đóng góp trách nhiệm vào nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế.
  4. Trong khuôn khổ Ủy ban Luật Thương mại quốc tế thuộc LHQ (UNCITRAL), với vai trò là thành viên UNCITRAL nhiệm kỳ 2019 - 2025, Việt Nam đã đóng vai trò tích cực thực hiện vai trò của mình trong nghiên cứu, trao đổi, xây dựng quan điểm của Việt Nam và tham gia ý kiến tại các cuộc họp Nhóm công tác số II (về trọng tài và hòa giải), số III (về cải tổ cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư) và số VI (về yêu cầu bán tàu theo phán quyết thuộc UNICTRAL). Tham gia các hoạt động  của UNCITRAL, Việt Nam đang từng bước xây dựng được Nhóm chuyên gia pháp luật có hiểu biết sâu về cơ chế giải quyết tranh chấp với nhà đầu tư nước ngoài (ISDS).
 ASEAN:
  1. Trong bối cảnh ASEAN đang nỗ lực thực hiện các mục tiêu hướng tới xây dựng một Cộng đồng gắn kết, hoạt động theo luật lệ trên cơ sở các giá trị và chuẩn mực chung, hợp tác pháp luật và tư pháp thông qua cơ chế Hội nghị Bộ trưởng Tư pháp các nước ASEAN (ALAWMM) và Hội nghị quan chức pháp luật cao cấp ASEAN (ASLOM) trực thuộc Cộng đồng An ninh - Chính trị ASEAN đã được khẳng định là một nhân tố không thể thiếu. Thông qua cơ chế hợp tác pháp luật và tư pháp của ASEAN thì sáng kiến đề xuất hợp tác pháp luật và tư pháp được xây dựng và tổ chức thực hiện đã đem lại những kết quả tích cực với các điều ước quốc tế cụ thể được xây dựng, hợp tác trong giải quyết các vấn đề pháp luật và tư pháp của khu vực. Bên cạnh đó, ASEAN cùng với hệ thống các cơ chế giải quyết tranh chấp khác nhau để giải quyết các mâu thuẫn, xung đột phát sinh trong khu vực, giúp duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực.[5] Tuy nhiên, hiệu quả của các cơ chế này còn hạn chế, ít được sử dụng.
Các thiết chế tài phán quốc tế chủ yếu
  1. Toà Công lý quốc tế (ICJ): Toà ICJ được thành lập trên cơ sở Hiến chương LHQ và là một bộ phận quan trọng trực thuộc của tổ chức này (Điều 92 Hiến chương). Toà ICJ bắt đầu hoạt động từ năm 1946, hoạt động của Toà được điều chỉnh bởi Quy chế Toà án Công lý quốc tế. Việt Nam chưa có tuyên bố chấp nhận thẩm quyền của ICJ. Toà  ICJ có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của pháp luật quốc tế. ICJ có chức năng chính là giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia thành viên LHQ trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ quốc tế trên cơ sở thoả thuận của các quốc gia này; đưa ra các ý kiến tư vấn pháp lý cho Đại hội đồng LHQ, Hội đồng Bảo an LHQ và các Uỷ ban trực thuộc LHQ. Từ khi đi vào hoạt động đến nay, Toà án đã thụ lý, giải quyết và cho ý kiến về các vấn đề pháp lý trong nhiều lĩnh vực pháp luật quốc tế như luật biển, phân định biển, quan hệ ngoại giao, lãnh sự, giải thích ĐƯQT…. Phán quyết của Toà mang giá trị chung thẩm, ràng buộc thực hiện với các Bên và được coi là án lệ quốc tế (khoản 1 Điều 38 Quy chế Toà ICJ), giúp làm sáng tỏ nội hàm của các khái niệm pháp lý, khẳng định giá trị các quy phạm pháp luật quốc tế trong các ĐƯQT, tập quán quốc tế[6].
  2. Toà Hình sự quốc tế (ICC): Toà ICC là toà án thường trực được thành lập theo Quy chế Rome nhằm mục đích xét xử các cá nhân vi phạm pháp luật quốc tế về nhân đạo, cấu thành các tội phạm hình sự quốc tế có liên quan đến các quốc gia thành viên của Quy chế Rome như diệt chủng, tội xâm lược, tội ác chiến tranh, tội chống lại loài người. Khác với Toà ICJ, Toà ICC hoàn toàn độc lập với LHQ (cả về cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ quyền hạn) và Việt Nam chưa tham gia Quy chế Rome.
  3. Toà trọng tài thường trực quốc tế (PCA): Toà trọng tài PCA là một tổ chức quốc tế liên Chính phủ hoạt động độc lập với Liên hợp quốc. Nhiệm vụ chính của Toà PCA là tạo cơ chế giải quyết các tranh chấp quốc tế thông qua thủ tục trọng tài được các bên chấp thuận. Phán quyết của toà PCA chỉ có giá trị ràng buộc với các bên nhưng có giá trị tham khảo quan trọng trong giải thích và áp dụng ĐƯQT. Từ khi thành lập tới nay, Toà án đã thụ lý giải quyết nhiều tranh chấp giữa các quốc gia, nhà đầu tư và quốc gia. Toà PCA có nhiều phán quyết điển hình trong lĩnh vực biển đảo, đầu tư… giúp giải thích rõ nội hàm các quy định và thúc đẩy sự phát triển của pháp luật quốc tế, điển hình như Phán quyết trong vụ kiện biển đông giữa Philippines và Trung Quốc, trong đó bác bỏ tuyên bố về đường chín đoạn của Trung Quốc và đưa ra cách giải thích, áp dụng một số quy định của Công ước của LHQ về luật biển năm 1982 (UNCLOS 1982). Phán quyết này có ý nghĩa quan trọng đối với nhiều quốc gia hiện có tranh chấp với Trung Quốc về chủ quyền, quyền chủ quyền trên biển Đông. Trong khi chưa có chủ trương tham gia Quy chế Rome hay chấp thuận thẩm quyền của Toà ICJ, ICC, Việt Nam đang tích cực thúc đẩy sự hợp tác với Toà PCA (như ký Hiệp định nước chủ nhà giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Tòa trọng tài thường trực năm 2014, hiện Chính phủ Việt Nam đang hoàn tất đàm phán Nghị định thư với Tòa PCA về việc thành lập của Văn phòng đại diện của Tòa PCA tại Việt Nam), hướng tới việc tận dụng thiết chế tư pháp quốc tế này để giải quyết hoà bình các tranh chấp quốc tế.
  4. Cơ quan giải quyết tranh chấp của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) từ khi thành lập năm 1995 (trước đó là cơ quan giải quyết tranh chấp theo Hiệp định hàng hoá 1947) đến nay có thẩm quyền giải quyết tranh chấp thương mại của 164 quốc gia và vùng lãnh thổ thành viên WTO. Đến nay, Cơ quan này đã giải quyết 606 vụ tranh chấp với 350 phán quyết được ban hành. Việt Nam đã có 5 vụ tranh chấp đưa ra cơ quan tài phán này và 35 vụ tham gia với tư cách là Bên thứ ba. Nhiều phán quyết của Cơ quan này được sử dụng và viện dẫn trong các tranh chấp thương mại song phương, khu vực trong khuôn khổ các hiệp định thương mại khác.
  5. Trung tâm giải quyết tranh chấp quốc tế về đầu tư giữa Chính phủ và nhà đầu tư (ICSID) trực thuộc Ngân hàng thế giới được thành lập từ năm 1965 với 162 thành viên ở thời điểm hiện tại. Với vụ việc đầu tiên được xét xử năm 1972, đến nay Trung tâm này đã gỉải quyết 803 trên tổng số 1023 vụ kiện đầu tư quốc tế (theo Báo cáo đầu tư thế giới năm 2020). Mặc dù chưa phải là thành viên của ICSID, Việt Nam đã có vụ việc đầu tiên được đưa ra xét xử theo quy tắc tố tụng trọng tài của Cơ chế phụ trợ của ICSID năm 2018. Sau khi ký Hiệp định EVFTA và EVIPA, Việt Nam đã được mời tham dự các vòng đàm phán sửa đổi quy tắc tố tụng trọng tài của ICSID với tư cách là quan sát viên.
  6. Ngoài ra, thời gian qua, Việt Nam cũng đàm phán và đồng ý sử dụng nhiều thiết chế tài phán quốc tế khác trong các ĐƯQT về thương mại, đầu tư hoặc các hợp đồng, thỏa thuận với bên nước ngoài, trong số đó, các thiết chế trọng tài là phổ biến nhất.
Các tổ chức quốc tế đa phương về pháp luật và tư pháp
Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế (HccH)
  1. HccH là tổ chức quốc tế liên Chính phủ được hình thành từ năm 1893. Ngay từ khi thành lập, HccH đã xác định tầm nhìn vì một thế giới trong đó các cá nhân, tổ chức mà cuộc sống và hoạt động của mình liên quan đến nhiều hệ thống pháp luật khác nhau được hưởng mức độ an toàn pháp lý cao; thúc đẩy việc giải quyết tranh chấp một cách có trật tự và hiệu quả, quản trị tốt và pháp quyền, trong khi vẫn tôn trọng sự đa dạng của các truyền thống pháp luật. HccH là tổ chức quốc tế quản lý số lượng ĐƯQT lớn nhất thế giới về các lĩnh vực khác nhau của tư pháp quốc tế.
  2. Trong khuôn khổ HccH, Việt Nam đã chủ động, tích cực tham gia có hiệu quả các hoạt động, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thành viên và tăng cường kết nối các hoạt động của HccH và ASEAN[7]. Từ trước khi gia nhâp HccH, Việt Nam đã tham gia Công ước 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế. Sau khi gia nhập HccH, trong giai đoạn từ năm 2013-2020, Việt Nam đã nghiên cứu và gia nhập thêm 02 Công ước trong khuôn khổ của HccH là Công ước năm 1965 về Tống đạt ra nước ngoài giấy tờ tư pháp và ngoài tư pháp trong lĩnh vực dân sự hoặc thương mại và Công ước năm 1970 về Thu thập chứng cứ ở nước ngoài trong lĩnh vực dân sự hoặc thương mại. Hiện nay, các bộ, ngành đang nghiên cứu khả năng gia nhập các ĐƯQT khác mà Việt Nam có lợi ích trong khuôn khổ HccH.
Tổ chức quốc tế về Luật phát triển
  1. Tổ chức Luật Phát triển Quốc tế (IDLO) là tổ chức liên chính phủ chuyên thúc đẩy nhà nước pháp quyền. Với trọng tâm thúc đẩy pháp quyền và phát triển, IDLO hoạt động để trao quyền cho người dân và cộng đồng quyền yêu cầu của họ, đồng thời cung cấp cho các chính phủ cách thức để thực hiện. IDLO hỗ trợ các nền kinh tế mới nổi và các nước thu nhập trung bình tăng cường năng lực pháp lý và khuôn khổ pháp quyền để phát triển bền vững và cơ hội kinh tế. Đây là tổ chức liên chính phủ duy nhất có nhiệm vụ độc quyền thúc đẩy pháp quyền và có kinh nghiệm làm việc tại hàng chục quốc gia trên thế giới.
  2. Việt Nam đã chủ động, tích cực tham gia có hiệu quả các hoạt động trong khuôn khổ IDLO, góp phần thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế, góp phần nâng cao vị trí, vai trò của Việt Nam trong quan hệ quốc tế. Việt Nam đã có cơ hội tham gia xây dựng các chương trình chiến lược, kế hoach hoạt động của IDLO. Đại diện ứng cử viên của Việt Nam đã được bầu là thành viên hội đồng tư vấn của IDLO từ năm 2020, đưa ra các tư vấn cho Giám đốc của IDLO và IDLO về các kế hoạch và chương trình hoạt động, giúp nâng cao vai trò của IDLO trên các diễn đàn thế giới. Trong thời gian tới, Việt Nam có cơ hội tham gia vào các hoạt động của tổ chức quốc tế, có thể vận động ứng cử và tham gia các thiết chế tổ chức nhằm nâng cao vị thế, vai trò của Việt Nam, qua đó củng cố mối quan hệ hợp tác của Việt Nam với các tổ chức quốc tế và khu vực là đối tác của IDLO như Hội đồng Châu Âu, UNDP, UNAIDS…
Tổ chức tư vấn pháp lý Á – Phi 
  1. AALCO là tổ chức quốc tế liên chính phủ được thành lập năm 1956 trong Phong trào không liên kết của châu Á và châu Phi. Với mục tiêu là diễn đàn hợp tác, trao đổi quan điểm, kinh nghiệm và thông tin của các quốc gia châu Á và châu Phi về những vấn đề luật pháp quốc tế gắn với lợi ích của những nước này, AALCO đã đóng góp vào việc pháp điển hoá và phát triển luật pháp quốc tế, là tổ chức quốc tế duy nhất trên thế giới hiện nay tập hợp và thúc đẩy đoàn kết của các nước châu Á và châu Phi trong lĩnh vực pháp luật quốc tế. Một trong những đóng góp nổi bật của AALCO trong thời gian qua cho sự phát triển của pháp luật quốc tế là việc tham gia xây dựng, đóng góp ý kiến hoàn thiện Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS 1982). Từ một Ủy ban với chỉ 7 quốc gia thành viên ban đầu đều ở châu Á, AALCO hiện nay có 47 quốc gia thành viên ở cả châu Á và châu Phi
  2. Việt Nam chính thức trở thành thành viên của AALCO tại Hội nghị thường niên lần thứ 56 tổ chức ở Kenya năm 2017, sau thời gian tham dự tổ chức với vai trò quan sát viên. với tư cách thành viên chính thức của AALCO, Việt Nam cam kết nỗ lực hợp tác cùng với các quốc gia thành viên và Ban Thư ký AALCO triển khai các hoạt động hợp tác trong khuôn khổ của AALCO, phù hợp với Quy chế và Quy tắc của Tổ chức. hát biểu tại các đề mục theo hướng thúc đẩy và đề cao luật pháp quốc tế, tôn trọng pháp quyền ở cấp độ quốc tế; ủng hộ giải quyết hòa bình tranh chấp quốc tế; chia sẻ những kinh nghiệm tích cực của Việt Nam trong xử lý các vấn đề đối ngoại cũng như quan điểm của Việt Nam với tiến trình pháp điển hóa và phát triển tiến bộ luật pháp quốc tế.
Các tổ chức nghề luật sư, công chứng, thừa phát lại
  1. Đại diện các tổ chức nghề tư pháp của Việt Nam cũng đang tích cực tham gia vào cơ chế hợp tác quốc tế đa phương trong từng lĩnh vực. Cụ thể là gia nhập Hiệp hội luật sư Châu Á - Thái Bình Dương (năm 2010), Hiệp hội Luật sư quốc tế (2015), Liên minh Công chứng quốc tế (năm 2013) và hiện đang nghiên cứu khả năng gia nhập Liên minh Thừa phát lại quốc tế (UIHJ). Trong xu hướng hội nhập và phát triển nói chung, các tổ chức nghề này đang ngày càng khẳng định vai trò trong đời sống quốc tế hiện nay.
  2. 29. Hiệp hội luật sư quốc tế là tổ chức hợp tác toàn cầu của luật sư và các tổ chức hành nghề luật sư, có vai trò quan trọng trong việc cung cấp các hỗ trợ cho giới luật sư toàn cầu và thông qua các thành viên của tổ chức mình để ảnh hưởng đến quan trình phát triển của cải cách luật pháp quốc tế, định hình tương lai của nghề luật trên toàn thế giới. Hiệp hội cũng tham gia vào việc xây dựng các Nguyên tắc của Hợp đồng thương mại quốc tế, Bộ hướng dẫn thực hiện hoạt động điều tra và thẩm định pháp lý trong các giao dịch M&A...
  3. Liên minh Công chứng quốc tế là một tổ chức hợp tác toàn cầu được thành lập để xúc tiến, hợp tác và tăng cường, điều phối, phát triển nghề công chứng. Mục tiêu cơ bản của Liên minh Công chứng quốc tế là thiết lập, duy trì quan hệ với công chứng đang phát triển ở một số nước, với các công chứng viên của những nước chưa có thể chế công chứng, nhằm giúp đỡ, hợp tác về mặt tổ chức để chuẩn bị những điều kiện gia nhập Liên minh Công chứng quốc tế.
  4. Sau khi gia nhập 2 tổ chức trên, đại diện các tổ chức nghề tư pháp của Việt Nam đã tham gia tích cực và phối hợp triển khai nhiều hoạt động hợp tác với những sáng kiến cụ thể. Ví dụ như vào năm 2021, Hội Công chứng viên Việt Nam đảm nhận vị trí Chủ tịch (luân phiên) Ủy ban các vấn đề Châu Á của Liên minh công chứng quốc tế, qua đó đã đóng góp tích cực thảo luận định hướng thành lập Học viện công chứng Châu Á cũng như trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm giữa thúc đẩy các hoạt động công chứng số trong bối cảnh cách mạng công nghệ lần thứ tư.
Phương hướng trong thời gian tới
Điểm mới trong chủ trương thực hiện “đối ngoại đa phương Việt Nam”
  1. Tư duy mới về lợi ích quốc gia dân tộc, trong đó cách tiếp cận đa chủ thể, đa ngành và đa lĩnh vực trong đối ngoại đa phương Việt Nam cho thấy một nhận thức rõ hơn về sự đan xen lợi ích giữa các chủ thể, trên nhiều lĩnh vực và trong nhiều mặt của đời sống quan hệ quốc tế và đời sống chính trị-xã hội quốc gia. Xét từ góc độ đó, công tác đối ngoại đa phương ngày nay thể hiện một cách tiếp cận mới và quan niệm mới bổ sung cho cách hiểu về lợi ích quốc gia dân tộc. Nếu như Đại hội lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đề cao lợi ích quốc gia dân tộc là tối thượng thì với tư duy về đối ngoại đa phương, quan niệm về lợi ích quốc gia dân tộc đã được mở rộng hơn: trong quá trình triển khai công tác đối ngoại đa phương, Việt Nam nhằm, trước hết phục vụ mục tiêu lợi ích của quốc gia/dân tộc, nhưng nhấn mạnh vào (i) sự hài hòa lợi ích giữa các chủ thể bên trong đất nước và (ii) trong sự cân nhắc tới lợi ích chung của các nước khác, của cả cộng đồng khu vực và quốc tế.
  2. Cách tiếp cận về hội nhập quốc tế chủ động và tích cực, sâu rộng và toàn diện cùng thái độ ứng xử hài hòa giữa quyền lợi quốc gia - dân tộc của Việt Nam và lợi ích của các nước khác trong khu vực và toàn cầu, trong đó Việt Nam là một bộ phận gắn kết theo phương châm hợp tác đi đôi với đấu tranh.
  3. Định hướng và nội dung hoạt động đối ngoại đa phương của Việt Nam ngày càng rõ nét hơn, từ “thêm bạn, bớt thù” sang “là bạn và đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế”, - vốn còn thiên về cách tiếp cận song phương - tới “chủ động, tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự kinh tế - chính trị quốc tế”, tiến tới đóng vai trò lớn hơn trong các cơ chế đa phương quốc tế, tương ứng với thế và lực đang tăng lên của Việt Nam, theo đó về cơ bản Việt Nam đang trên đường trở thành một nước ở mức giữa trong khung quốc gia tầm trung, và có thể nâng tầm vai trò lên mức nòng cốt, dẫn dắt và hòa giải, tức là vượt lên mức tuân thủ luật chơi để tiến tới mức tham gia định hình luật chơi nhằm phục vụ lợi ích quốc gia một cách hiệu quả hơn.
  4. Cách tiếp cận đa ngành, trong đó tham gia vào các hoạt động đối ngoại đa phương bên cạnh vai trò chính của Bộ Ngoại giao còn có các Bộ, ngành khác (ngoại giao Nhà nước), và các binh chủng đối ngoại hợp thành, như đối ngoại Quốc hội, đối ngoại Đảng, ngoại giao nhân dân của Việt Nam, các doanh nghiệp và nhiều thành phần kinh tế khác - tức là huy động sự tham gia của toàn bộ hệ thống chính trị cũng như của toàn dân Việt Nam; đây đồng thời thể hiện cách tiếp cận đa lĩnh vực, trong đó đa phương không chỉ bó hẹp trong lĩnh vực chính trị - an ninh, mà cả kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ và các lĩnh vực khác.
  5. Tư duy đối ngoại đa phương của Đảng vừa là kết quả của công cuộc đổi mới, mở rộng quan hệ đối ngoại, vừa là kết quả của việc nhận thức ngày càng rõ hơn sự vận động của xu thế toàn cầu hóa, xu thế dân chủ hóa và hợp tác cùng phát triển trong các mặt của đời sống quốc tế, trong đó các diễn đàn đa phương khu vực và quốc tế ngày càng gia tăng ảnh hưởng và mở rộng về quy mô và nội dung hợp tác.
  6. Nhận thức ngày càng rõ hơn về chủ nghĩa đa phương trong quan hệ quốc tế đương đại, về chức năng của các cơ chế và tổ chức đa phương mà Việt Nam tham gia, đồng thời thể hiện trình độ cao hơn của đội ngũ cán bộ làm công tác đa phương trong việc sử dụng và khai thác các công cụ thể chế đa phương để đưa đối ngoại đa phương tiếp tục trở thành công cụ hữu hiệu kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại phục vụ sự nghiệp đối ngoại của Việt Nam trong thời gian tới.
Trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp
  1. Nhận thức đúng và đầy đủ về vị trí, vai trò của luật pháp quốc tế trong duy trì hòa bình, trật tự quốc tế dựa trên luật lệ; thống nhất quan điểm coi các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên là một bộ phận cấu thành hệ thống pháp luật Việt Nam. Trong quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật cần đảm bảo yêu cầu hài hòa với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên (trong đó có các điều ước quốc tế về quyền con người, lĩnh vực thương mại, đầu tư như Công ước ICCPR, Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới..), thực hiện đầy đủ trách nhiệm thành viên và khai thác những lợi thế mà các điều ước quốc tế mang lại, phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
  2. Xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ chuyên gia giỏi, chuyên sâu về pháp luật quốc tế; bảo đảm các điều kiện làm việc cho chuyên gia ở tầm quốc tế nhằm tăng cường hiện diện tại các thiết chế quốc tế và khu vực. Chú trọng nâng cao chất lượng đào tạo về luật pháp quốc tế ngay từ bậc đại học (tại các cơ sở đào tạo luật, kinh tế, ngoại giao...); chú trọng công tác bồi dưỡng thường xuyên kiến thức về pháp luật quốc tế cho đội ngũ cán bộ, công chức.
  3. Chủ động tham gia xây dựng thể chế pháp lý đa phương trong khuôn khổ của Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế. Tăng cường vai trò của Việt Nam trong hoàn thiện thể chế của ASEAN và các hoạt động hợp tác pháp luật và tư pháp trong ASEAN. Tham gia một cách thực chất, hiệu quả vào các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực pháp luật mà Việt Nam là thành viên như Hội nghị La hay về tư pháp quốc tế (HccH), Tổ chức quốc tế về luật phát triển (IDLO). Từng bước tham gia ứng cử vào các vị trí phù hợp của các tổ chức này. Hoàn thành việc nghiên cứu, đề xuất lộ trình gia nhập Viện Nhất thế hóa pháp luật tư (UNIDROIT). Nâng cao vai trò của các tổ chức hội nghề nghiệp trong các tổ chức đa phương về nghề như luật sư, công chứng; nghiên cứu gia nhập Liên minh thừa phát lại quốc tế.
  4. Tăng cường đầu tư cho công tác dự báo, nghiên cứu khoa học và đào tạo, bồi dưỡng về pháp luật quốc tế. Bố trí ngân sách và các điều kiện bảo đảm cho việc thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế về tư pháp. Tiếp tục tranh thủ nguỗn hỗ trợ kỹ thuật của quốc tế phụ vụ các mục tiêu hoàn thiện hệ thống pháp luật và cải cách tư pháp trên cơ sở đảm bảo đúng định hướng của Đảng./.
 
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB Chính trị quốc gia sự thật, tập II, trang 154.
[2] Lời nói đầu của Hiến chương Liên hợp quốc.
[3] Hơn 500 ĐƯQT đa phương quan trọng trong nhiều lĩnh vực đã được ký kết, tạo khuôn khổ chung cho việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội https://dangcongsan.vn/thoi-su/lien-hop-quoc-to-chuc-khong-the-thieu-trong-nen-chinh-tri-the-gioi-591281.html
[4] Năm 2016, Đại sứ Nguyễn Hồng Thao trở thành người Việt Nam đầu tiên trúng cử thành viên ILC. Đây là một bước ngoặt quan trọng, góp phần vào nỗ lực khẳng định vị thế quốc tế của Việt Nam trong định hình luật pháp quốc tế, tăng cường cơ hội tham gia đóng góp tại các diễn đàn pháp lý đa phương.
[5] Các cơ chế này được quy định tại Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á (TAC) năm 1976, Nghị định thư về tăng cường cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN năm 2004 (EDSM), Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA) năm 2009[5] và Nghị định thư năm 2010 về giải quyết tranh chấp theo quy định của Hiến chương ASEAN.
[6] Đến hết 31/12/2018: 148 vụ việc được gửi tới ICJ và có 129 phán quyết. ICJ cũng đã cung cấp 27 ý kiến tư vấn (The In’t Court of Justice – Handbook), theo báo cáo của ICJ hiện có 14 vụ việc đang được xem xét giải quyết tại ICJ (Báo cáo A/76/4).
[7] Như: Sáng kiến tăng cường tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự và thương mại giữa các quốc gia thành viên ASEAN năm 2011 đề xuất các nước tham gia Công ước Apostille của Hội nghị, diễn đàn pháp luật ASEAN với chủ đề “Một số công ước của Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế trong mối liên hệ với ASEAN” năm 2016; trao đổi kinh nghiệm giữa các nước gốc trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế (Hội nghị châu Á năm 2017 có sự tham gia của Lào, Campuchia, Thái Lan, Philippin, Hàn Quốc, Trung Quốc)