1. MỤC TIÊU, PHƯƠNG PHÁP VÀ ĐẶC ĐIỂM MẪU KHẢO SÁT
1.1. Mục tiêu và kết quả cần đạt
Mục tiêu chung của hoạt động khảo sát nhằm xác định được nhu cầu tư vấn Hỗ trợ pháp lý phù hợp cho cộng đồng dân tộc thiểu số về luật bình đẳng giới, phòng chống bạo lực gia đình, hôn nhân và gia đình.
Kết quả của hoạt động khảo sát này đáp ứng được các yêu cầu sau:
- Xác định được đúng nhu cầu Hỗ trợ pháp lý theo chuyên đề về Luật Bình đẳng giới, luật hôn nhân và gia đình, luật phòng chống bạo lực gia đình.
- Đề xuất các giải pháp cụ thể để triển khai hỗ trợ tư vấn và Hỗ trợ pháp lý hiệu quả cho cộng đồng.
1.2. Phương pháp khảo sát
Để đáp ứng mục tiêu đề ra, trong khuôn khổ toàn bộ quỹ thời gian là 10 ngày, cuộc khảo sát này được tổ chức theo tiếp cận điều tra dùng bảng hỏi đã chuẩn bị sẵn.
Theo phương pháp điều tra bảng hỏi, đề tài thu thập số mẫu lấy từ hai –ba thôn bản tiêu biểu ở mỗi xã, sao cho mỗi xã đảm bảo đủ 100 người đăng kí Hỗ trợ pháp lý. Số mẫu dự kiến là 500 người trong độ tuổi từ 18-50 đã lập gia đình. Phương pháp lấy mẫu định tính là các cuộc phỏng vấn cá nhân kiểu phỏng vấn linh hoạt. Mỗi xã chọn 2 trường hợp đại diện (tổng cộng 10 trường hợp) cho các trường hợp xung đột trong hôn nhân gia đình, bạo lực gia đình, bất bình đẳng giới. Nhóm nghiên cứu cũng phỏng vấn các cán bộ tư pháp và hội phụ nữ xã để tìm hiểu về trợ giúp tư pháp hiện tại, cũng như cách giải quyết truyền thống ở địa phương.
Trong tháng 11 năm 2019, một nhóm nghiên cứu được tập huấn để thu thập số liệu bảng hỏi và phỏng vấn ở hiện trường ở 5 xã dự án. Trong tháng 12/2019, số liệu được tập hợp và phân tích bằng phần mền phân tích số liệu SPSS. Số liệu định tính được tập hợp và phân tích thủ công. Báo cáo được hoàn thành trong tháng 12 và đã được chia sẻ và thẩm định qua trao đổi với các đối tác ở các xã.
1.3. Đặc điểm của mẫu khảo sát
Mẫu khảo sát được chọn tại 5 xã dự án, mỗi xã 100 gia đình và dự kiến 2/3 mẫu là nữ. Thực tế, số mẫu thu được là 500 phiếu, đạt 100% kế hoạch. Về giới tính trong mẫu nghiên cứu có 161 nam và 338 nữ. Nữ chiếm 68% số phiếu điều tra, đạt 2/3 theo dự kiến. Trong đó có 1 phiếu bị loại do trường hợp không có thông tin.
Bảng 1. Phân bố mẫu điều tra theo giới và dân tộc
| |
|
Xã khảo sát |
Total |
| |
|
Trường Xuân |
Trường Sơn |
Kim Thủy |
Ngân Thủy |
Lâm Thủy |
| Giới tính |
Nam |
8 |
29 |
56 |
38 |
30 |
161 |
| Nữ |
92 |
71 |
44 |
61 |
70 |
338 |
| Khác |
0 |
0 |
1 |
0 |
0 |
1 |
| Dân tộc |
Kinh |
3 |
2 |
29 |
27 |
3 |
64 |
| Vân Kiều |
97 |
98 |
71 |
72 |
97 |
435 |
| Khác |
0 |
0 |
0 |
1 |
0 |
1 |
| Total |
100 |
100 |
100 |
100 |
100 |
500 |
| |
|
|
|
|
|
|
|
|
Trong 500 phiếu điều tra khảo sát chủ yếu là người dân tộc Vân Kiều sống tại 5 xã với 435 phiếu và 64 phiếu là người Kinh. Trong đó có 1 trường hợp là dân tộc Thái lấy chồng ở bản Hang Chuồn xã Trường Xuân. Thực tế tại 5 xã thực hiện dự án chiếm phần đông là người dân tộc Vân Kiều nên chiếm tỷ lệ phiếu điều tra là người dân tộc cao hơn người Kinh. Hơn nữa đối tượng đích mà dự án quan tâm để điều tra khảo sát cũng tập trung chủ yếu là các bản người dân tộc Vân Kiều.
Trong tổng số phiếu điều tra có 449 trường hợp là đã hôn nhân và trong tình trạng có vợ hoặc chồng. Số phiếu điều tra còn lại đã lập gia đình nhưng nay đã ly dị, sống độc thân. Lứa tuổi được tham gia khảo sát từ 18-50 tuổi.
Bảng 2. Phân loại hộ về mức sống tham gia khảo sát
| |
|
Xã khảo sát |
Total |
|
| |
|
Trường Xuân |
Trường Sơn |
Kim Thủy |
Ngân Thủy |
Lâm Thủy |
Tỷ lệ |
| Loại hộ |
Hộ nghèo |
47 |
40 |
51 |
36 |
69 |
243 |
48,6 |
| Cận nghèo |
47 |
54 |
16 |
27 |
10 |
154 |
30,8 |
| Trung bình |
3 |
3 |
14 |
17 |
7 |
44 |
8,8 |
| Hộ khá |
3 |
3 |
19 |
20 |
14 |
59 |
11,8 |
| Total |
100 |
100 |
100 |
100 |
100 |
500 |
100 |
Qua bảng thống kê trên cũng cho thấy số người tham gia khảo sát chiếm phần lớn thuộc hộ nghèo và cận nghèo, trong đó hộ nghèo có 243 phiếu, hộ cận nghèo có 154 phiếu chiếm tỷ lệ lần lượt là 48,6 và 30,8% với tổng cộng khoảng 79,4% và số phiếu còn lại là các hộ trung bình và hộ khá. Tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo tham gia khảo sát thực tế cũng tương đương về tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo trong các bản được khảo sát.
Qua khảo sát cho thấy hầu hết 492 người tham gia khảo sát có tham gia các tổ chức xã hội, trong đó nam và nữ đều có tỷ lệ cao tham gia các tổ chức xã hội ở địa phương như hội phụ nữ, hội nông dân.
2. GHI NHẬN VỀ NHU CẦU TRUYỀN THÔNG
2.1. Mức độ tham gia hoạt động truyền thông cộng đồng
Khi được hỏi về việc tham gia các cuộc truyền thông tại cộng đồng hay chưa với các mức độ có tham gia một lần, vài lần, không tham gia và không nhớ về các luật như luật bình đẳng giới, luật hôn nhân và gia đình, luật phòng chống bạo lực gia đình. Kết quả chung cho thấy số người chưa tham gia các cuộc truyền thông về các luật trên ở địa phương chiếm tỷ lệ cao hơn 50%.
Đối với Luật bình đẳng giới, cụ thể kết quả khảo sát cho thấy có 254 phiếu trả lời chưa được tham gia, chiếm 50,8%. Việc điều tra được thực hiện trong tháng 12 năm 2019 tức là giai đoạn này dự án đã có 03 cuộc truyền thông về luật Bình đằng giới, Hôn nhân gia đình, phòng chống bạo lực gia đình đã thực hiện tại 6 bản của xã Ngân Thủy và Lâm Thủy. Khảo sát cũng cho thấy có 88 và 55 trường hợp đã tham gia một lần và vài lần với tỷ lệ tương ứng lần lượt là 17,6 và 11% và chủ yếu số trường hợp này đã được tham gia trong thời gian dự án được triển khai.
Bảng 3. Mức độ tiếp cận về luật BĐG, HNGĐ, BLGĐ
| Mức độ |
Bình đẳng giới |
Hôn nhân gia đình |
Bạo lực gia đình |
| |
Mẫu |
Tỷ lệ |
Mẫu |
Tỷ lệ |
Mẫu |
Tỷ lệ |
| Một lần |
88 |
17,6 |
84 |
16,8 |
88 |
17,6 |
| Vài lần |
55 |
11,0 |
57 |
11,4 |
50 |
10,0 |
| Không tham gia |
254 |
50,8 |
249 |
49,8 |
253 |
50,6 |
| Không nhớ |
103 |
20,6 |
110 |
22,0 |
109 |
21,8 |
| Total |
500 |
100,0 |
500 |
100,0 |
500 |
100,0 |
Điều tra về mức độ tiếp cận hay tham gia các cuộc tuyền thông ở địa phương về luật Hôn nhân và gia đình cũng cho thấy có 249 trường hợp chiếm 49,8% chưa tham gia các cuộc truyền thông về luật HNGĐ. Số người đã có tham gia một lần và vài lần nghe về luật HNGĐ chiếm khoảng 16,8 và 11,4%.
Nhiều trường hợp đã không được tham gia tuyên truyền về luật hôn nhân gia đình nên nhiều người vi phạm pháp luật về hôn nhân nhưng không biết. Như trường hợp chị Hồ Thị Bi sinh năm 1977 tại bản Km 14, xã Ngân Thủy, Lệ Thủy, Quảng Bình kể “Công việc hiện nay của chị là chăn nuôi lợn gà và làm nương rẫy. Chị chung sống như vợ chồng với anh Hồ Văn N đã có vợ và và 3 cô con gái. Trong quá trình chung sống với anh N chị đã có 3 đứa con trong đó 2 con gái lớn đã lập gia đình và con trai nhỏ mới lên 5 tuổi. Trong thời gian vừa rồi chị và anh N đã có những mâu thuẫn và dọa sẽ lấy đứa con trai về nuôi. Chị chưa từng tham gia bất cứ một buổi truyền thông nào về Luật Hôn nhân gia đình nên chị không nghĩ mình đang vi phạm việc chung sống với người đã có vợ và chị cũng rất lo lắng khi người chống có thể đến dành lấy đứa con trai của chị để nuôi mà chưa có cách nào để bảo vệ”.
Khảo sát về mức độ tiếp cận Luật phòng chống bạo lực gia đình cũng cho thấy chiếm tới hơn 50% phiếu trả lời chưa được tham gia các cuộc truyền thông. Số người được nghe một lần và vài lần chiếm lần lượt 17,6 và 10%.
Theo phỏng vấn của chính quyền địa phương và ý kiến của nhiều người dân cho thấy nhờ có các cuộc tập huấn truyền thông do dự án JIFF đã thực hiện nên tỷ lệ trả lời như trên có giảm xuống. Nếu so với trước khi chưa triển khai dự án thì tỷ lệ người chưa biết về các luật còn cao hơn. Một cán bộ tư pháp ở xã Lâm Thủy cũng cho biết do thiếu kinh phí nên hàng năm rất ít và thậm chí không được tổ chức tập huấn truyền thông đến cộng đồng thôn bản những luật về bình đẳng giới, hôn nhân gia đình và phòng chống bạo lực gia đình. Nếu có điều kiện thì ưu tiên tuyên truyền hạn chế tình trạng hôn nhân cận huyết và chỉ kết hợp với các cuộc họp khác của địa phương.
Tóm lại, qua điều tra về mức độ tiếp cận luật BĐG, luật HNGĐ và PCBLGĐ cho thấy hơn 50% chưa được tham gia các cuộc truyền thông và người dân mong muốn được truyền thông pháp luật đến với cộng đồng.
2.2. Các hình thức truyền thông phù hợp
Trong hoạt động truyền thông việc lựa chọn các hình thức phù hợp đóng vai trò rất quan trọng, sẽ đảm bảo được sự tham gia đầy đủ của cộng đồng và khả năng tiếp thu kiến thức của người tham gia và đồng thời tăng hiệu quả hỗ trợ của hoạt động dự án.
Khảo sát đã tiến hành phỏng vấn qua phiếu điều tra về các hình thức truyền thông nhằm xác định nhu cầu về hình thức truyền thông phù hợp với cộng đồng và qua đó lựa chọn xây dựng phương pháp phù hợp như truyền thông qua loa đài thôn bản, qua phát tờ rơi, tổ chức tập huấn tuyên truyền tại hội trường thôn bản và qua chia sẻ với nhau trong cộng đồng.
Bảng 4. Lựa chọn hình thức truyền thông phù hợp
| |
Loa đài |
Tờ rơi |
Tập huấn trực tiếp |
Chia sẻ lại |
| |
Mẫu |
Tỷ lệ |
Mẫu |
Tỷ lệ |
Mẫu |
Tỷ lệ |
Mẫu |
Tỷ lệ |
| Lựa chọn |
102 |
20,4 |
71 |
14,2 |
445 |
89,0 |
119 |
23,8 |
| Không lựa chọn |
398 |
79,6 |
428 |
85,6 |
55 |
11,0 |
381 |
76,2 |
| Total |
500 |
100,0 |
500 |
100,0 |
500 |
100,0 |
500 |
100,0 |
Qua khảo sát cho thấy nhu cầu tập huấn trực tiếp cho cộng đồng tại thôn bản được đa số người điều tra đồng ý, có 445 phiếu, chiếm 89% đề xuất phương pháp truyền thông này. Kế tiếp là phương pháp chia sẻ qua người khác cũng là cách để truyền thông hiệu quả, nhất là người dân tộc có cùng tiếng nói trong cùng địa phương thôn bản được chia sẻ lại thông tin đã tập huấn. Có một số phương pháp ít người đồng ý sử dụng truyền thông là qua phát tờ rơi và loa đài.
Thực tế tại nhiều thôn bản không có hệ thống loa đài để truyền thông hoặc hệ thống thường xuyên bị hư hỏng nên ít được phục vụ cho hoạt động truyền thông. Nhiều bản không có hệ thống loa đài tập trung ở các xã dự án ở huyện Lệ Thủy. Nhiều thôn bản có nhà văn hóa nhưng đã xuống cấp, không có hệ thống điện sáng phục vụ tập huấn và chưa có bàn ghế cho người dân khi đến họp như bản Tân Ly, Xà Khía của xã Lâm Thủy và bản Khe Sung của xã Ngân Thủy. Tỷ lệ người không biết chữ và số đông là phụ nữ không biết chữ nên hình thức truyền thông qua tờ rơi ít hiệu quả và nhiều người không quan tâm như phản ánh ở trên.
2.3. Các phương pháp và địa điểm truyền thông phù hợp
Trong các cuộc truyền thông trực tiếp đối với cộng đồng, đặc biệt người tham gia là người dân tộc, có nhiều người ít biết chữ việc lựa chọn phương pháp tập huấn để thu hút sự tham gia của cộng đồng rất quan trọng. Một số phương pháp đặt ra trong bảng hỏi gồm phương pháp thuyết trình, giảng giải toàn bộ bài giảng rồi sau đó tóm tắt; giảng từng phần và hỏi mọi người để nhớ; vừa giảng vừa có thêm hình ảnh và chiếu phim; tổ chức các trò chơi sắm vai đóng kịch; và kể các câu chuyện liên hệ thực tế địa phương.
Kết quả khảo sát cho thấy, nếu thực hiện các bài giảng kéo dài dễ gây nhàm chán với người nghe và kể cả từng phần có hỏi đáp với tham dự viên và có hơn 70% cho rằng họ không thích với cách giảng bài giảng dài. Ngược lại có đa số phiếu trả lời phương pháp phù hợp với họ là được xem thêm nhiều hình ảnh minh họa, chiếu phim video hoặc gắn với câu chuyện thực tế để giúp cho họ dễ nhớ bài và thu hút tham dự viên quan tâm nhiều hơn. Kết quả khảo sát cho thấy có 71,4% đồng ý với các hình thức xem hình ảnh và video khi tổ chức các cuộc tập huấn truyền thông; tiếp theo là giảng bài có gắn với các câu chuyện thực tế, chiếm 29,8%.
Bảng 5. Lựa chọn phương pháp truyền thông phù hợp
| |
Giảng toàn bộ |
Giảng từng phần |
Xem hình ảnh |
Có trò chơi |
Chuyện thực tế |
| |
Mẫu |
Tỷ lệ |
Mẫu |
Tỷ lệ |
Mẫu |
Tỷ lệ |
Mẫu |
Tỷ lệ |
Mẫu |
Tỷ lệ |
| Lựa chọn |
58 |
11,6 |
146 |
29,2 |
357 |
71,4 |
92 |
18,4 |
149 |
29,8 |
| Không lựa chọn |
441 |
88,2 |
354 |
70,8 |
143 |
28,6 |
408 |
81,6 |
351 |
70,2 |
| Total |
500 |
100,0 |
500 |
100,0 |
500 |
100,0 |
500 |
100,0 |
500 |
100,0 |
Nhiều ý kiến từ nhóm thảo luận nhóm cán bộ xã Ngân Thủy cũng cho biết: “Đối với thế hệ trước do nhiều người không biết chữ nhận thức hạn chế, thiếu hiểu biết nên dẫn đến chai lỳ, khi có văn bản pháp luật tuyên truyền trên hệ thống loa tuyền thanh thì nghe không hiểu. Chỉ khi mô có cán bộ gương mẫu nói họ mới nghe. Còn thế hệ trẻ hơn sau này do được đi học nên nhận thức cao hơn nên tiếp thu có tốt hơn”.
Địa điểm để thực hiện truyền thông cũng là yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động truyền thông của dự án và cũng được đưa vào khảo sát xác định nhu cầu. Qua kết quả điều tra cho thấy có 88,8% đồng ý mong muốn được tập huấn truyền thông tại thôn bản như hội trường nhà văn hóa thôn bản. Người dân cho rằng ở đó có địa điểm khá trung tâm của bản để mọi người tham gia được và họ có thể kết hợp với một số công việc riêng như mua sắm từ các quán tạp hóa gần với khu vực trung tâm bản. Cũng có 13,8% phiếu trả lời cần tổ chức tập huấn truyền thông tại các cụm dân cư do đặc điểm địa bàn một số bản do ngăn cách khe suối về mùa mưa khó đi đến khu trung tâm của bản.
Bảng 6. Lựa chọn địa điểm truyền thông phù hợp
| Địa điểm |
Tại xã |
Tại thôn |
|
Tại cụm hộ dân |
| |
Mẫu |
Tỷ lệ |
Mẫu |
Tỷ lệ |
Mẫu |
Tỷ lệ |
| Lựa chọn |
75 |
15,0 |
444 |
88,8 |
69 |
13,8 |
| Không lựa chọn |
425 |
85,0 |
56 |
11,2 |
431 |
86,2 |
| Total |
500 |
100,0 |
500 |
100,0 |
500 |
100,0 |
Kết quả thảo luận nhóm cộng đồng ở bản Khe Sung xã Ngân Thủy đề xuất một số giải pháp phù hợp với bà con trong hoạt động truyền thông pháp luật là: “Mở các lớp tập huấn, chiếu đoạn phim về chủ đề bình đẳng giới hoặc bạo lực gia đình khoảng 15-20 phút, phát tờ rơi, tranh ảnh, tài liệu ít chữ, mời các cặp vợ chồng cùng tham gia; Mở các lớp tập huấn về mùa hè tầm tháng 5 đến tháng 6 vì mùa mưa khó khăn trong việc tập trung bà con ở những bản xã trung tâm; Thông qua các cuộc họp thôn thì trưởng thôn nhắc nhở về vấn đề bạo lực gia đình để mọi người nghe rút kinh nghiệm”.
3. GHI NHẬN VỀ NHU CẦU HỖ TRỢ PHÁP LÝ
3.1. Mức độ tiếp cận tư vấn và Hỗ trợ pháp lý
Cuộc khảo sát đã thực hiện điều tra để xác định mức độ người dân đã được tư vấn và Hỗ trợ pháp lý như thế nào liên quan đến bình đẳng giới, hôn nhân gia đình và bạo lực gia đình. Khả năng tiếp cận theo các mức độ như: một lần; vài lần; chưa được Hỗ trợ pháp lý và không nhớ.
Kết quả điều tra cho thấy, nhiều người chưa được Hỗ trợ pháp lý về luật bình đẳng giới, luật hôn nhân và gia đình, luật phòng chống bạo lực gia đình theo tỷ lệ lần lượt 64,2; 61,0 và 64,8%, khoảng 20% không xác định đã được tư vấn hay Hỗ trợ pháp lý chưa, còn lại một số đã được tư vấn và Hỗ trợ pháp lý một lần hoặc vài lần.
Bảng 7. Mức độ tiếp cận tư vấn luật về BĐG, HNGĐ, BLGĐ
| |
Bình đẳng giới |
Hôn nhân gia đình |
BLGĐ |
| Mức độ |
Mẫu |
Tỷ lệ |
Mẫu |
Tỷ lệ |
Mẫu |
Tỷ lệ |
| Một lần |
36 |
7,2 |
52 |
10,4 |
35 |
7,0 |
| Vài lần |
39 |
7,8 |
40 |
8,0 |
35 |
7,0 |
| Không tham gia |
321 |
64,2 |
305 |
61,0 |
324 |
64,8 |
| Không nhớ |
104 |
20,8 |
103 |
20,6 |
106 |
21,2 |
| Total |
500 |
100,0 |
500 |
100,0 |
500 |
100,0 |
Theo phỏng vấn sâu cán bộ xã Lâm Thủy cho biết việc tư vấn pháp luật cho người dân chủ yếu thông qua các trưởng bản. Nhưng năng lực của các trưởng bản rất hạn chế, không có kiến thức pháp luật, mặc dù họ được người dân tin tưởng.
Từ một ý kiến khác của lãnh đạo xã Trường Sơn cho biết: “UBND xã cũng đã phối hợp với các ban ngành để tổ chức tuyên truyền PBGDPL, phối hợp với Đồn biên phòng, Trung tâm TGPL tỉnh chỉ tổ chức gói gọn trong một buổi, việc mở rộng địa bàn hơn một chút và đi sâu hơn một chút ở các địa bàn xa thì không thực hiện được nên người dân không được tiếp cận để hỗ trợ tư vấn pháp luật. Vấn đề HNGD trong những năm qua thì dự án Plan cũng đã tham gia nhưng chỉ tập trung sâu về trẻ em và giáo dục về nội dung tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống còn những việc khác không xoáy sâu. Địa bàn hẹp chỉ gói gọn những bản trung tâm, lân cận những bản xa thì cũng chịu”.
3.2. Những vấn đề của gia đình gặp phải và cần Hỗ trợ pháp lý
Khảo sát đã tiến hành xác định những vấn đề gia đình gặp phải liên quan đến luật bình đẳng giới, hôn nhân gia đình và bạo lực gia đình.
Về hôn nhân gia đình: Nội dung các vấn đề được đề cập trong khảo sát gồm thủ tục ly hôn; chia tài sản chung sau ly hôn; tặng cho tài sản về quyền sử dụng đất; và phân chia tài sản thừa kế.
Kết quả cho thấy mức độ từ 12% đến 21% phiếu trả lời có những vấn đề vướng mắc liên quan tới luật hôn nhân gia đình. Trong đó thấp nhất là về vấn đề phân chia tài sản thừa kế và mức cao nhất là tặng cho tài sản về quyền sử dụng đất.
Bảng 8. Vấn đề cần TGPL liên quan Luật HNGĐ
| Vấn đề |
Thủ tục ly hôn |
Chia TS chung sau ly hôn |
Tăng cho tài sản là QSDĐ |
Phân chia tài sản thừa kế |
| Mẫu |
Tỷ lệ |
Mẫu |
Tỷ lệ |
Mẫu |
Tỷ lệ |
Mẫu |
Tỷ lệ |
| Có |
73 |
14,6 |
74 |
14,8 |
105 |
21,0 |
60 |
12,0 |
| Không |
427 |
85,4 |
426 |
85,2 |
395 |
79,0 |
440 |
88,0 |
| Total |
500 |
100,0 |
500 |
100,0 |
500 |
100,0 |
500 |
100,0 |
Các vấn đề này đều xảy ra ở các bản và ở các xã dự án, tuy nhiên cũng có những sự khác biệt về mức độ nghiêm trọng xảy ra ở các thôn bản và giữa các xã.
Qua thảo luận nhóm bản Đá Chát xã Trường Sơn cho thấy thủ tục đăng kí kết hôn là vấn đề vướng mắc nhiều năm nhưng chưa được giải quyết. Theo cán bộ bản và xã cho thấy nhiều gia đình đã sống với nhau nhiều năm và đã có con rồi nhưng chưa có giấy đăng kí kết hôn. Điều này có thể sẽ gặp khó khăn khi làm giấy chứng nhận đất đai, phân chia tài sản sau khi ly hôn hoặc đăng kí cho giấy khai sinh cho con cái.
Tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống vẫn xảy ra ở địa phương. Như kết quả thảo luận ở bản Tân Ly cho thấy Có 1-2 trường hợp/năm và đến khi sinh con làm giấy khai sinh không được thì cán bộ hộ tịch mới nắm bắt được. Họ vẫn cho biết vấn đề tảo hôn gây nhiều hệ lụy như thiếu kinh nghiệm trong việc chăm con cái, sức khỏe chưa phát triển toàn diện… nhưng vẫn còn xảy ra và chưa được hạn chế. Tại xã Lâm Thủy tình trạng hôn nhân cận huyết thống còn xảy ra 1 số nơi như bản Xà Khía, E Bu hậu quả con cái sinh ra bị tật nguyền làm suy thoái nòi giống.
Một trường hợp khác là anh Hồ Văn Phúc, sinh năm 1984, kết hôn với chị Hồ Thị Bông, sinh năm 1986 tại bản Đá Chát, Trường Sơn, Quảng Ninh, Quảng Bình, kể: “Anh chị là người dân tộc Vân Kiều thuộc hộ nghèo, sinh con ra bị tàn tật và cuộc sống ngày càng có khó khăn hơn. Anh và chị là con cậu lấy con cô, gia đình đã có sự ngăn cản và do không biết những hậu quả về việc kết hôn trái pháp luật và hậu quả như hôm nay và cũng vì hai người đã lỡ có con với nhau nên đành chấp nhận”.
Về bình đẳng giới: Cuộc khảo sát cũng đã đặt ra những vấn đề mà người dân có thể gặp phải như việc họp hành ở thôn bản do chồng tham gia; chồng quyết định các chi tiêu lớn; chồng quyết định lấy vợ chồng cho con cái; chồng ít giúp vợ việc chăm sóc con cái, việc nội trợ. Kết quả cho thấy còn 9,2% chồng thường đại diện để đi họp thôn; 14,6% việc chi tiêu lớn trong gia đình do chồng quyết định và có 17% cho rằng chồng ít giúp vợ việc chăm sóc con cái và nội trợ trong gia đình.
Bảng 9. Vấn đề cần TGPL về luật BĐG
| Vấn đề |
Chồng đại diện họp thôn |
Chồng quyết định các chi tiêu lớn |
Chồng quyết định lấy vc cho con |
Chồng ít giúp vợ chăm sóc con |
| Mẫu |
Tỷ lệ |
Mẫu |
Tỷ lệ |
Mẫu |
Tỷ lệ |
Mẫu |
Tỷ lệ |
| Có |
46 |
9,2 |
73 |
14,6 |
44 |
8,8 |
85 |
17,0 |
| Không |
454 |
90,8 |
427 |
85,4 |
456 |
91,2 |
415 |
83,0 |
| Total |
500 |
100,0 |
500 |
100,0 |
500 |
100,0 |
500 |
100,0 |
Qua kết quả thảo luận nhóm bản Đá Chát xã Trường Sơn cho thấy tình trạng bất bình đẳng ở địa phương đã có cải thiện hơn so với trước đây như là: vợ được đi chơi, ăn mặc đẹp, son phấn, làm đẹp; Chồng tham gia làm việc nhà như nấu ăn, quét nhà, giặt giũ; Chồng chăm sóc con cái như cho con ăn, tắm rửa cho con; Vợ chồng cùng vác củi, khi con nhỏ thì vợ được làm việc nhẹ hơn chồng; Tham gia việc xã hội nhiều hơn ví dụ ngày lễ được tham gia ăn uống, nhảy múa, nghỉ ngơi cả ngày; Không phân biệt con trai, con gái trong gia đình. Tuy nhiên mọi người vẫn cho rằng vợ vẫn làm việc nhà nhiều hơn, chồng thường đi uống rượu và bỏ bê nhiều việc nhà, giao cho vợ làm hết. Theo kết quả khảo sát cho thấy có 7,4 ý kiến cho rằng còn tình trạng phân biệt con trai con gái và ít ưu tiên con gái hơn.
Về bạo lực gia đình trong quan hệ vợ chồng: Tình trạng bạo lực gia đình vẫn còn xảy ra ở địa phương, trong đó tình trạng bạo lực về thể xác và tinh thần số đông do người chồng gây ra. Về bạo lực thể xác có 63 ý kiến, chiếm 12,6% bị chồng hành hạ, đánh đập vợ. Có các trường hợp bạo lực tinh thần như xúc phạm danh dự nhân phẩm và cô lập, dọa dẫm gây lắng có 109 trường hợp, chiếm 21,8%.
Bảng 10. Vấn đề BLGĐ về tinh thần và thể chất
| Vấn đề |
Chồng hành hạ, đánh đập vợ |
Chồng xúc phạm danh dự nhân phẩm |
Chồng cô lập, dọa dẫm gây lo lắng |
| |
Mẫu |
Tỷ lệ |
Mẫu |
Tỷ lệ |
Mẫu |
Tỷ lệ |
| Có |
63 |
12,6 |
68 |
13,6 |
41 |
8,2 |
| Không |
437 |
87,4 |
432 |
86,4 |
459 |
91,8 |
| Total |
500 |
100,0 |
500 |
100,0 |
500 |
100,0 |
Như trường hợp chị Hồ Thị Lam, sinh năm 1963 kết hôn với anh Hồ Văn Nam, sinh năm 1960 ở bản Khe Sung xã Ngân Thủy, huyện Lệ Thủy kể lại: “Hai vợ chồng chị đã chung sống với nhau 30 năm có 6 người con 3 người con lập gia đình ở xa còn 3 đứa nhỏ đang tuổi ăn học. Kể từ ngày lấy nhau đến nay chồng lúc nào cũng uống rượu, chửi bới, đánh đập đến sưng mặt mũi có khi chị phải chạy trốn ở bụi bờ sau vườn nửa ngày mới dám vào nhà nhưng vào rồi cũng bị đánh. Nhưng chị vẫn cố chịu đựng không dám nói chuyện này với ai vì nghĩ rằng đó là chuyện xấu của gia đình và sợ mọi người cười chê và chị chưa tin tưởng ai để nhờ được giúp đỡ”.
Bạo lực về tài chính cũng là vấn đề xảy ra nhiều đối với phụ nữ dân tộc Vân Kiều khi phong tục và quan niệm người chồng là trụ cột làm chủ về tài chính của gia đình và quyết định mọi thứ trong gia đình. Theo kết quả khảo sát, có 7,8-10% trường hợp có tình trạng đập phá tài sản, ép lấy tài sản riêng của vợ và ép vợ để lấy hết khoản thu nhập của vợ.
Bảng 11. Vấn đề BLGD về tài chính
| Vấn đề |
Đập tài sản, ép lấy tài sản riêng của vợ |
Chồng ép vợ lấy hết khoản thu nhập của vợ |
| Mẫu |
Tỷ lệ |
Mẫu |
Tỷ lệ |
| Có |
39 |
7,8 |
50 |
10,0 |
| Không |
461 |
92,2 |
450 |
90,0 |
| Total |
500 |
100,0 |
500 |
100,0 |
Bạo lực tài chính cũng gây ra những mâu thuẫn gia đình ở các xã dự án, như trường hợp ở bản Xà Khía, xã Lâm Thủy, huyện Lệ Thủy là chị Hồ Thị D, sinh năm 1970, đã kể lại: “Gia đình chị thuộc diện khó khăn, hộ nghèo của xã. Chị kết hôn với anh Hồ Văn K và đã có với nhau 2 đứa con. Trong quá trình chung sống 2 vợ chồng thường xuyên có mâu thuẫn về chi tiêu và những quyết định kinh tế trong gia đình. Vợ chồng chị làm thuê làm mướn cho người ta ai gọi gì làm đó và làm được đồng nào về chồng mua rượu uống hết. Con gái mới học đến lớp 10 thì không cho học kêu học chi rồi cũng lấy chồng. Chị D đã bỏ về nhà mẹ đẻ cùng với 2 con, chồng chị dọa sẽ đánh chị quay lại.
Về bạo lực gia đình trong quan hệ với con cái: Tình trạng bạo lực của cha mẹ với con cái cũng còn xảy ra ở các xã khảo sát. Một số hiện tượng bạo lực với con cái về thể chất và tinh thần như đánh đập, dọa nạt đuổi ra khỏi nhà hoặc cấm không cho đi chơi với bạn bè. Kết quả điều tra cho thấy có khoảng 15,4% còn tình trạng bố mẹ đánh đập con khi mắc lỗi; 10,8% dọa không cho ăn và đuổi ra khỏi nhà; và 14,6% cấm không cho chơi với bạn bè khi mắc lỗi.
Bảng 12. Hành vi bạo lực với con cái
| Hành vi bạo lực |
Bố mẹ đánh đập con khi mắc lỗi |
Dọa không cho con ăn, đuổi ra khỏi nhà |
Cấm không cho chơi với bạn bè |
| Mẫu |
Tỷ lệ |
Mẫu |
Tỷ lệ |
Mẫu |
Tỷ lệ |
| Co |
77 |
15,4 |
54 |
10,8 |
73 |
14,6 |
| Khong |
423 |
84,6 |
446 |
89,2 |
427 |
85,4 |
| Total |
500 |
100,0 |
500 |
100,0 |
500 |
100,0 |
Do tình trạng tảo hôn hoặc hôn nhân không có đăng ký kết cũng sẽ gây ra những hệ quả tới nhiều gia đình khi phải ly hôn và phân chia tài sản sau ly hôn. Theo như lời kể của già làng Hồ K, bản Đá Chát xã Trường Sơn cho biết ở trong bản có rất nhiều cặp vợ chồng chung sống với nhau nhưng không đăng ký kết hôn, rồi cũng sinh con và nhập hộ khẩu và làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bình thường. Nhưng trong các năm trở lại đây do có nhiều mâu thuẫn nên những cặp vợ chồng không đăng ký kết hôn khi muốn làm thủ tục ly hôn rất khó khăn, không có căn cứ bao nhiêu năm chung sống, có bao nhiêu tài sản và rồi những đứa con chung không biết giải quyết như thế nào. Theo luật tục của người Bru Vân Kiều thì người vợ đó khi không còn chung sống với chồng thì họ ra đi tay trắng nên rất thiệt thòi với người phụ nữ.
Trong các vấn đề gặp phải như phân tích ở trên khi được khảo sát để xác định ưu tiên của người dân cần đến sự Hỗ trợ pháp lý, đặc biệt tập trung trong 3 lĩnh vực thuộc khuôn khổ hỗ trợ của dự án. Kết quả khảo sát cho thấy lĩnh vực về hôn nhân gia đình có 276 người, chiếm 55,2% cần đến sự tư vấn và Hỗ trợ pháp lý; tiếp theo là về lĩnh vực bình đẳng giới cần được tư vấn với 32,8% và 29,8% về lĩnh vực phòng chống bạo lực gia đình. Ngoài ra có khoảng 11,8% cần Hỗ trợ pháp lý về lĩnh vực khác, trong đó đa số liên quan tới giải quyết về pháp lý đất đai.
Bảng 13. Lựa chọn các luật liên quan để TGPL
| Lựa chọn |
Hôn nhân gia đình |
Bình đẳng giới |
Bạo lực gia đình |
Khác |
| Mẫu |
Tỷ lệ |
Mẫu |
Tỷ lệ |
Mẫu |
Tỷ lệ |
Mẫu |
Tỷ lệ |
| Có |
276 |
55,2 |
164 |
32,8 |
149 |
29,8 |
59 |
11,8 |
| Không |
224 |
44,8 |
336 |
67,2 |
351 |
70,2 |
441 |
88,2 |
| Total |
500 |
100,0 |
500 |
100,0 |
500 |
100,0 |
500 |
100,0 |
3.3. Tổ chức và cá nhân tư vấn và Hỗ trợ pháp lý
Ngoài những quy định của pháp luật về các thành phần tham gia tư vấn và Hỗ trợ pháp lý, đối với cộng đồng dân tộc thiểu số ở vùng sâu vùng xa việc thực hiện trợ giúp pháp luật hiệu quả hay không còn phụ thuộc người thực hiện nhiệm vụ tư vấn và Hỗ trợ pháp lý.
Qua khảo sát điều tra về mong muốn cũng như thói quen và hiểu biết của người dân cần người tư vấn và Hỗ trợ pháp lý khi bản thân gặp phải các vấn đề trong cuộc sống cho thấy người dân thích được tiếp xúc tư vấn riêng hơn là nhóm người tập thể, nhất là đối với các vấn đề thuộc riêng tư cá nhân và gia đình.
Nhóm người hỗ trợ tư vấn cá nhân được yêu thích gồm anh em ruột thịt, cha mẹ, họ hàng; trưởng thôn; cán bộ phụ nữ thôn. Đây là các thành viên được người dân tin tưởng để cần sự trợ giúp khi gặp khủng hoảng hay các vấn đề đối với gia đình.
Bảng 14. Nhóm cá nhân được cộng đồng cần TGPL cao
| Mức độ cần trợ giúp |
Người ruột thịt, họ hàng |
Trưởng thôn |
Cán bộ phụ nữ thôn |
| Mẫu |
Tỷ lệ |
Mẫu |
Tỷ lệ |
Mẫu |
Tỷ lệ |
| Chắc hẳn |
235 |
47,0 |
108 |
21,6 |
75 |
15,0 |
| Có thể |
145 |
29,0 |
134 |
26,8 |
119 |
23,8 |
| Không khi nào |
120 |
24,0 |
257 |
51,4 |
306 |
61,2 |
| Total |
500 |
100,0 |
500 |
100,0 |
500 |
100,0 |
Nhóm người có mức độ ảnh hưởng thấp, chiếm tỷ lệ thấp cần sự hỗ trợ khi người dân gặp sự cố hay khủng hoảng cá nhân gồm bạn thân, công an thôn, bí thư thôn, và cả cán bộ xã.
Bảng 15
. Nhóm cá nhân được cộng đồng cần TGPL thấp
| Mức độ cần TGPL |
Bạn thân |
Bí thư thôn |
Cán bộ phụ nữ xã |
Cán bộ tư pháp xã |
| Mẫu |
Tỷ lệ |
Mẫu |
Tỷ lệ |
Mẫu |
Tỷ lệ |
Mẫu |
Tỷ lệ |
| Chắc hẳn |
41 |
8,2 |
43 |
8,6 |
21 |
4,2 |
13 |
2,6 |
| Có thể |
198 |
39,6 |
108 |
21,6 |
65 |
13,0 |
88 |
17,6 |
| Không khi nào |
245 |
49,0 |
349 |
69,8 |
414 |
82,8 |
399 |
79,8 |
| Total |
500 |
100,0 |
500 |
100,0 |
500 |
100,0 |
500 |
100,0 |
Nhiều người dân cho rằng trước đây họ cũng không biết nhiều đến luật sư nhưng sau khi được tham gia một số cuộc tập huấn và được Hỗ trợ pháp lý do dự án đã tổ chức ở thôn bản nên họ rất muốn được luật sư Hỗ trợ pháp lý cho họ trong thời gian tới. Theo kết quả khảo sát cho thấy có 425 người trả lời, chiếm 85% họ muốn được luật sư tư vấn và Hỗ trợ pháp lý.
Bảng 16. Mức cần thiết có sự TGPL của luật sư
| Mức độ cần thiết |
Luật sư |
| Mẫu |
Tỷ lệ |
| Có |
425 |
85,0 |
| Không |
75 |
15,0 |
| Total |
500 |
100,0 |
Câu chuyện của chị Hồ Thị Riêng sinh năm 1994 tại bản Km 14, Ngân Thủy, Lệ Thủy, Quảng Bình kể: “Chị kết hôn với anh Nguyễn Văn Công (Thái Nguyên) đã có con chung được 11 tháng tuổi. Do trong quá trình chung sống chồng thường ghen tuông đánh đập, chửi bới chị và dẫn đến mâu thuẫn ngày càng lớn hơn khó được dung hòa nên chị muốn ly hôn. Trong thời điểm này chị không biết phải giải quyết như thế nào và cũng không biết hỏi ai vì anh chị có hộ khẩu thường trú tại 2 nơi khác nhau, con chị còn quá nhỏ nên chị không thể đi ra Thái Nguyên, và hiện tại anh Công lại làm việc ở một công ty có trụ sở tại Đồng Hới. Ngay thời điểm này Văn phòng LS Hồ Lý Hải đã thực hiện TGPL lưu động tại thôn bản theo chương trình của dự án RDPR và hướng dẫn cụ thể trường hợp của chị đồng thời trợ giúp thêm qua điện thoại (khi cần thiết). Sau khi được trợ giúp từ Vp Luật sư Hồ Lý Hải thì anh chị đã ly hôn theo nguyện vọng và đứa con sống cùng với chị”. Chính nhờ một số hoạt động trợ giúp ban đầu khá thành công với nhiều trường hợp nên nhiều người dân rất muốn được luật sư Hỗ trợ pháp lý. Ngoài những nội dung về bình đẳng giới, hôn nhân gia đình còn một số lĩnh vực khác như đất đai cũng rất nhiều người dân quan tâm.
3.4. Các hình thức và địa điểm tư vấn phù hợp
Như các phân tích trên, các vấn đề xảy ra là hoàn cảnh riêng của mỗi người mỗi gia đình nên tâm lý người dân ngại chia sẻ với người ngoài và sợ người ngoài biết chuyện của gia đình mình nên giữ kín và tự chịu đựng, như việc vợ chồng đánh nhau, cãi cọ hoặc những tranh chấp trong gia đình. Do đó cần lựa chọn hình thức tư vấn và Hỗ trợ pháp lý phù hợp với từng đối tượng hoặc các nhóm đối tượng khác nhau và cả ở các địa điểm phù hợp khác nhau.
Một số hình thức tư vấn được đưa ra khảo sát như tư vấn qua hình thức gặp trực tiếp để nói chuyện khi có nhiều người; gặp riêng để nói chuyện; trao đổi khi họp thôn bản; nói chuyện qua điện thoại và mạng xã hội.
Kết quả điều tra cho thấy hình thức tư vấn khi có nhiều người có 198 ý kiến chiếm 39,6%, trường hợp này phù hợp với tư vấn lưu động ở cộng đồng cho một số chủ đề mà nhiều người cùng quan tâm như vấn đề bất bình đẳng giới, hôn nhân cận huyết thống, tảo hôn, đăng kí kết hôn và một số vấn đề liên quan khác như tranh chấp đất đai, phân chia đất đai. Hình thức gặp riêng để nói chuyện và tư vấn có 34,2%, thường là các trường hợp thuộc vấn đề riêng tư trong gia đình như chồng đánh vợ, chồng chiếm đoạt tài sản vợ, bạo lực tình dục. Có 18% trường hợp đồng ý tổ chức tư vấn pháp lý khi kết hợp họp thôn, thường thuộc các vấn đề có nhiều người trong cộng đồng cùng quan tâm. Hình thức ít người quan tâm nhất là tư vấn qua điện thoại và mạng xã hội, chỉ có 4,2% có đề nghị. Hình thức này cho thấy khó phù hợp với cộng đồng dân tộc thiểu số khi trong số họ nhiều người không có điện thoại, không có internet và gây tốn kém với họ.
Như vậy có thể thấy có 2 hình thức tư vấn phù hợp với nhiều người ở vùng dự án là hình thức tư vấn lưu động tại cộng đồng dân cư và hình thức tư vấn riêng cho từng đối tượng tại nhà. Còn hình thức tư vấn qua điện thoại ít hiệu quả với cộng đồng ở vùng sâu vùng xa.
Bảng 17. Hình thức Hỗ trợ pháp lý phù hợp
| Hình thức TGPL |
Nói chuyện khi có nhiều người |
Gặp riêng |
Kết hợp khi họp thôn |
Qua điện thoại, fb |
| Mẫu |
Tỷ lệ |
Mẫu |
Tỷ lệ |
Mẫu |
Tỷ lệ |
Mẫu |
Tỷ lệ |
| Phù hợp |
198 |
39,6 |
171 |
34,2 |
90 |
18,0 |
21 |
4,2 |
| Không phù hợp |
302 |
60,4 |
328 |
65,6 |
409 |
81,8 |
479 |
95,8 |
| Total |
500 |
100,0 |
500 |
100,0 |
500 |
100,0 |
500 |
100,0 |
Cùng với hình thức tương ứng có các địa điểm phù hợp để thực hiện tư vấn hiệu quả. Qua điều tra cho thấy với 2 hình thức trên thì địa điểm tư vấn phù hợp với người dân chủ yếu là tại các địa điểm công cộng như hội trường, nhà văn hóa thôn và tư vấn tại nhà riêng cho từng trường hợp.
Bảng 18. Địa điểm tư vấn và Hỗ trợ pháp lý phù hợp
| Địa điểm |
Tại nhà văn hóa thôn bản |
Nhóm hộ |
Nhà riêng |
Tại xã |
| |
Mẫu |
Tỷ lệ |
Mẫu |
Tỷ lệ |
Mẫu |
Tỷ lệ |
Mẫu |
Tỷ lệ |
| Phù hợp |
281 |
56,2 |
29 |
5,8 |
154 |
30,8 |
6 |
1,2 |
| Không phù hợp |
219 |
43,8 |
471 |
94,2 |
346 |
69,2 |
494 |
98,8 |
| Total |
500 |
100,0 |
500 |
100,0 |
500 |
100,0 |
500 |
100,0 |
4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết quả khảo sát là cơ sở đưa những đề nghị để dự án xây dựng kế hoạch Hỗ trợ pháp lý và kết hợp thực hiện truyền thông phù hợp nhu cầu cộng đồng, bao gồm lựa chọn phù hợp nội dung tư vấn, phương pháp, thời gian địa điểm và người tham gia thực hiện tư vấn và Hỗ trợ pháp lý trong hoạt động của dự án.
4.1. Đối tượng hỗ trợ
Hoạt động truyền thông, Hỗ trợ pháp lý của dự án trong thời gian tới cần luôn luôn chú ý ưu tiên đối tượng của dự án chủ yếu là những người phụ nữ Vân Kiều sống trong mức nghèo và cận nghèo, có học vấn thấp chủ yếu là dưới tiểu học, và phần đông không tiếp cận với internet. Nhưng phần đông họ đang chịu những trải nghiệm về bất bình đẳng giới và bạo lực gia đình. Qua kết quả khảo sát cho thấy đa số người trả lời với phần đông là phụ nữ họ mong muốn được Hỗ trợ pháp lý cho họ. Đối tượng hỗ trợ đã được xác định theo danh sách cụ thể đã tham gia khảo sát ở các xã và qua đó cũng xác định được các nội dung cần tư vấn để cung cấp cho luật sư lập kế hoạch tư vấn.
Trong các cuộc tập huấn truyền thông ở cộng đồng cần tăng cường huy động sự tham gia của nam giới, đó là giải pháp mà nhiều nhóm thảo luận ở cộng đồng đề xuất. Nâng cao nhận thức cho nam giới là cách để thay đổi nhận thực và hành vi cho chính những người là bên thường tạo ra bất bình đẳng và bạo lực gia đình. Đồng thời cần nâng cao nhận thức cho phụ nữ về các quyền được quy định trong pháp luật và giúp họ tự tin, vượt qua nỗi sợ hãi và các định kiến xã hội để bảo vệ chính bản thân khi gặp khủng hoảng hay do bạo lực gia đình xảy ra với họ.
4.2. Nội dung truyền thông và Hỗ trợ pháp lý
Từ kết quả phân tích trên cho thấy hiện tại các địa phương người dân đều có nhu cầu nâng cao nhận thức và tư vấn Hỗ trợ pháp lý liên quan tới luật hôn nhân gia đình, bình đẳng giới và phòng chống bạo lực gia đình. Cùng với quá trình Hỗ trợ pháp lý cần có các cuộc truyền thông nâng cao nhận thức cho cộng đồng được thực hiện.
Nội dung cần tư vấn và nâng cao nhận thức cho cộng đồng về Luật hôn nhân gia đình chủ yếu liên quan đến trình tự, thủ tục việc đăng ký kết hôn, khai sinh nhận cha mẹ cho con. Điều đó sẽ giúp giải quyết nhiều vướng mắc của nhiều gia đình trước đây sống với nhau như không có kết hôn nên việc phân chia tài sản và con cái gặp nhiều khó khăn. Nội dung này đều cần thiết đối với các xã, nhưng trong đó khá phổ biến ở xã Trường Sơn. Đối với luật hôn nhân gia đình cần tăng cường các hoạt động truyền thông nâng cao nhận thức về nội dung tảo hôn và hôn nhân cận huyết. Các nội dung này cần ưu tiên ở các xã Lâm Thủy, Kim Thủy và Ngân Thủy.
Đối với luật bình đẳng giới và luật phòng chống bạo lực gia đình cần tiếp tục mở rộng nhiều cuộc truyền thông cho cộng đồng. Đồng thời cần có nhiều cuộc tư vấn Hỗ trợ pháp lý riêng các trường hợp đã phát hiện trong đợt khảo sát có bạo lực gia đình cần sự trợ giúp.
4.3. Phương pháp và địa điểm
Hoạt động truyền thông và tư vấn Hỗ trợ pháp lý đối với người dân tộc thiểu số cần chú ý đến phương pháp để tăng hiệu quả thực hiện các hoạt động. Với nhóm đối tượng với nhiều người không biết chữ, học vấn thấp thì cần các phương pháp hỗ trợ cụ thể rõ ràng, tổ chức truyền thông có hình ảnh, chiếu phim, đóng kịch sắm vai. Hoạt động truyền thông nên hạn chế các hình thức phát tờ rơi, tài liệu với nhiều chữ, kể cả hoạt động truyền thông qua loa đài cũng ít hiệu quả. Đối với hoạt động tư vấn và Hỗ trợ pháp lý cần có hỗ trợ ghi chép hướng dẫn từng bước thực hiện để mọi người làm theo, đồng thời cần có hỗ trợ nhắc lại trực tiếp hoặc qua điện thoại của luật sư, hoặc các cộng tác viên của mạng lưới tại các xã. Tuy nhiên việc việc tư vấn và Hỗ trợ pháp lý chỉ được thực hiện hiệu quả khi luật sư chủ động liên hệ hỗ trợ và tư vấn sau khi đã có một lần tiếp xúc trước đó. Thực tế khảo sát cho thấy việc tư vấn và Hỗ trợ pháp lý qua điện thoại rất ít hiệu quả, và không phù hợp với điều kiện của họ khi bị hạn chế để diễn tả tiếng Kinh, gây tốn kém tiền điện thoại nên người dân không chủ động để liên lạc với luật sư.
Cùng với việc lựa chọn nội dung để tư vấn cho các đối tượng, nên xem xét địa điểm phù hợp để người dân tham gia và yên tâm sẵn sàng chia sẻ thông tin. Theo phân tích trên cho thấy đối với hoạt động truyền thông có hiệu quả nên tổ chức tại các địa điểm trung tâm thôn bản để người dân đến thuận tiện, trong một số trường hợp có thể tổ chức tại các cụm dân cư do điều kiện không đi lại được do qua sông suối.
Đối với việc tư vấn các địa điểm phù hợp tùy thuộc vào nội dung tư vấn, với các trường hợp tư vấn về các vấn đề người được tư vấn cảm thấy lo ngại người ngoài biết như bị bạo lực gia đình, phân chia tài sản thì cần tổ chức tư vấn cá nhân ở gia đình người thân, nhà tạm lánh. Với các nội dung có nhiều người gặp phải như thủ tục kết hôn, tình trạng tảo hôn, hôn nhận cận huyết thì có thể tư vấn tại các địa điểm tập trung như hội trường nhà văn hóa thôn bản.
4.4. Bên liên quan tư vấn và Hỗ trợ pháp lý
Qua khảo sát cho thấy người dân cần sự tư vấn và Hỗ trợ pháp lý của luật sư, đây là điều kiện thuận lợi để dự án tổ chức thực hiện hoạt động tư vấn Hỗ trợ pháp lý. Căn cứ danh sách khảo sát với nhu cầu nội dung Hỗ trợ pháp lý để cung cấp cho luật sư chuẩn bị tài liệu hỗ trợ hiệu quả. Ngoài ra cần tăng cường vài trò của các thành viên mạng lưới tư vấn pháp luật cộng đồng và các cộng tác viên ở thôn bản tham gia trong quá trình xác định danh sách tham gia, địa điểm và hỗ trợ tư vấn sau các cuộc tư vấn do luật sư thực hiện. Điều này giúp cho các cộng tác viên mạng lưới có cơ hội nâng cao năng lực và họ có thể chủ động tư vấn ban đầu cho các nạn nhân kịp thời và hiệu quả.
Ngoài ra cũng nên thực hiện các cuộc tư vấn pháp luật có sự tham gia của nhiều bên liên quan ở cấp huyện, xã, luật sư và các cộng tác viên và cộng đồng. Một số cơ quan và cán bộ ở cấp huyện và xã tham gia thêm như phòng tư pháp huyện, địa chính huyện, cán bộ địa chính xã để hỗ trợ một số lĩnh vực liên quan như luật đất đai./.