BÁO CÁO KẾT QUẢ THỰC HIỆN Dự án "Nâng cao nhận thức và hiểu biết pháp luật về bảo vệ môi trường cho phụ nữ, trẻ em và đồng bào dân tộc thiểu số đảm bảo thực hiện quyền được sống trong môi trường trong lành"
Sign In

BÁO CÁO KẾT QUẢ THỰC HIỆN Dự án "Nâng cao nhận thức và hiểu biết pháp luật về bảo vệ môi trường cho phụ nữ, trẻ em và đồng bào dân tộc thiểu số đảm bảo thực hiện quyền được sống trong môi trường trong lành"

BÁO CÁO KẾT QUẢ THỰC HIỆN
Dự án "Nâng cao nhận thức và hiểu biết pháp luật về bảo vệ môi trường cho phụ nữ, trẻ em và đồng bào dân tộc thiểu số đảm bảo thực hiện quyền được sống trong môi trường trong lành"
(Từ 1/11/2021 đến 31/10/2022)
 
Sáng kiến "Nâng cao nhận thức và hiểu biết pháp luật về bảo vệ môi trường cho phụ nữ, trẻ em và đồng bào dân tộc thiểu số đảm bảo thực hiện quyền được sống trong môi trường trong lành" do Hội LHPN tỉnh Quảng Bình thực hiện (Gọi tắt là Quỹ JIFF3-QBWU7) được phê duyệt theo Công văn số 2972/BTP-HTQT ngày 27/8/2021 của Bộ Tư pháp. Đây là một trong 12 sáng kiến được nhận tài trợ lần 3 thuộc Dự án EU JULE do Liên minh Châu Âu tài trợ.
Với mục tiêu nâng cao nhận thức và hiểu biết pháp luật về bảo vệ môi trường thông qua truyền thông thay đổi hành vi cá nhân, nhóm, góp phần cải thiện khả năng ứng phó cũng như cách tự bảo vệ bản thân trước những nguy cơ về ô nhiễm không khí và tiếng ồn, đảm bảo thực hiện quyền được sống trong môi trường trong lành; dự án hướng đến nhóm đối tượng yếu thế là phụ nữ, trẻ em và đồng bào dân tộc thiểu số Vân Kiều sinh sống trên địa bàn xã Trường Xuân và Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Từ tháng 11 năm 2021 đến nay, dự án đã triển khai được nhiều hoạt động rất thiết thực, kết quả cụ thể như sau:
I. CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO
           Căn cứ Công văn số 2972/BTP-HTQT ngày 27/8/2021 của Bộ Tư pháp về việc thông báo kết quả phê duyệt các sáng kiến được nhận tài trợ từ Quỹ JIFF thuộc Dự án EU JULE lần 3. Ngày 17/9/2021, Ban Thường vụ Hội LHPN tỉnh đã có Tờ trình số 131/TT-BTV về việc xin ý kiến chỉ đạo của Thường trực Tỉnh ủy, UBND tỉnh Quảng Bình cho phép thực hiện dự án.
Ngày 9/11/2021 Hội LHPN tỉnh nhận được Công văn số 354/TB-TU về việc thông báo ý kiến của Thường trực Tỉnh ủy Quảng Bình về chủ trương tiếp nhận và thực hiện các sáng kiến thuộc Dự án Tăng cường pháp luật và hỗ trợ tư pháp tại Việt Nam do Quỹ Thúc đẩy sáng kiến tư pháp (Quỹ JIFF) tài trợ; Ngày 12/11/2021 Hội nhận Công văn số 2527/UBND-TH của Văn phòng UBND tỉnh Quảng Bình về việc đồng ý chủ trương cho phép Hội LHPN tỉnh và Quỹ Hỗ trợ phụ nữ phát triển tỉnh Quảng Bình thực hiện sáng kiến "Nâng cao nhận thức và hiểu biết pháp luật về bảo vệ môi trường cho phụ nữ, trẻ em và đồng bào dân tộc thiểu số đảm bảo thực hiện quyền được sống trong môi trường trong lành" (Gọi tắt là Quỹ JIFF3-QBWU7) tại 2 xã Trường Xuân và Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh.
Trên cơ sở sự cho phép của các cấp, sáng kiến đã được hoàn thiện và Hợp đồng tài trợ giữa Tổ chức Oxfam và Hội LHPN tỉnh Quảng Bình được chính thức ký kết ngày 01/11/2021. Để triển khai thực hiện hợp đồng, ngày 17/9/2021 Ban Thường vụ Hội LHPN tỉnh Quảng Bình đã ban hành Quyết định số 489/QĐ-BTV về việc giao dự án cho Quỹ Hỗ trợ phụ nữ phát triển tỉnh Quảng Bình thực hiện các hoạt động dự án. Ban Thường vụ Hội LHPN tỉnh ban hành Quyết định số 40/QĐ-BTV về việc kiện toàn Ban quản lý dự án gồm có 7 đồng chí. Ban quản lý dự án họp giao nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên và thống nhất Quy trình thực hiện dự án JIFF3.
Ban quản lý dự án đã xây dựng Kế hoạch tổng thể và hàng Quý xây dựng kế hoạch cụ thể để triển khai thực hiện. Đồng thời, Ban quản lý dự án trực tiếp làm việc với lãnh đạo chính quyền địa phương về kế hoạch triển khai các hoạt động trên địa bàn nhằm tạo sự đồng thuận và ủng hộ ngay từ những hoạt động đầu tiên tại cộng đồng. Kết quả đạt được như sau:
II. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU CỦA SÁNG KIẾN
1. Mục tiêu 1: Nâng cao nhận thức người dân
- Chỉ số 1: Có 1.902/1.500 người dân được nâng cao kiến thức bảo vệ môi trường, đạt 126,8%.
1.1. Tuyên truyền nâng cao nhận thức cho người dân thông qua các hoạt động nâng cao năng lực cho cán bộ địa phương, cho người dân thông qua hội thảo, tập huấn, truyền thông, sinh hoạt câu lạc bộ (CLB), tổ chức hội thi.
Để có cơ sở đánh giá hoạt động dự án, một cuộc khảo sát đầu kỳ được tổ chức tại 4 xã dự án với sự tham gia của 200 đối tượng (trong đó có 117 nữ, 83 nam) đối với người dân, chính quyền địa phương, doanh nghiệp và các ban ngành liên quan để nắm về thực trạng ban đầu tại địa bàn 2 xã dự án, qua đó xây dựng kế hoạch hoạt động, phương pháp tiếp cận và đưa ra các thông điệp truyền thông phù hợp với tình hình thực tế.
Sau hoạt động khảo sát thực trạng, dự án tổ chức Hội thảo khởi động dự án nhằm mục đích giới thiệu dự án tới các bên liên quan đã được tổ chức ngày 17/01/2022 với sự tham gia của 48 khách mời (có 33 nữ, 15 nam) đến từ các đơn vị đối tác, chính quyền các cấp, trường học, đại diện người dân, các doanh nghiệp đang hoạt động trên địa bàn 2 xã dự án để chia sẻ kết quả khảo sát đầu kỳ và chia sẻ kế hoạch triển khai các hoạt động dự án nhằm giúp các tổ chức chính quyền tỉnh, huyện và 2 xã dự án nắm rõ nội dung dự án, tạo sự đồng thuận, nhất trí cao và ủng hộ các hoạt động dự án tại cộng đồng. Hội thảo đã tiến hành ký kết biên bản hợp tác thực hiện dự án giữa Sở TNMT với Hội LHPN tỉnh Quảng Bình và bản ghi nhớ triển khai thực hiện dự án giữa Ban quản lý dự án với chính quyền địa phương 2 xã Trường Xuân và Vạn Ninh.
Để triển khai các hoạt động, dự án tổ chức khóa tập huấn TOT tại tỉnh 03 ngày (19-21/2/2022) cho 30 tập huấn viên địa phương xã Trường Xuân và Vạn Ninh, mỗi xã có 15 người (trong đó có 20 nữ, 10 nam) về kỹ năng truyền thông Luật Bảo vệ môi trường, quyền và trách nhiệm của người dân trong thực hiện giám sát và các văn bản pháp luật liên quan. Qua đó, đã nâng cao năng lực cho cán bộ địa phương, xây dựng đội ngũ cán bộ nòng cốt có kiến thức, có kỹ năng truyền thông, đặc biệt là qua các buổi thực hành tập giảng đã giúp cho các học viên nhất là học viên người đồng bào dân tộc Bru Vân Kiều tự tin, mạnh dạn trong tuyên truyền về kiến thức pháp luật bảo vệ môi trường tại cộng đồng.
Sau khóa tập huấn TOT, Ban quản lý dự án đã tổ chức 4 lớp tập huấn trong 4 ngày (từ 14-17/3/2022), 2 khóa/xã cho 120 người dân (trong đó: nam chiếm 30%, nữ: 70%) tại 2 xã Trường Xuân và Vạn Ninh, lớp tập huấn do các Tập huấn viên địa phương trực tiếp thực hiện để cải thiện kiến thức Luật Bảo vệ môi trường và các văn bản luật pháp liên quan đến bảo vệ môi trường cho chính người dân hưởng lợi trên địa bàn dự án. Từ đó, những kiến thức pháp luật về bảo vệ môi trường được người dân quan tâm hơn, đặc biệt qua các lớp tập huấn, người dân thảo luận rất sôi nổi về các giải pháp bảo vệ môi trường của địa phương.
Dự án đã thành lập 6 câu lạc bộ “Cùng nhau bảo vệ môi trường trong lành” (CLB) tại 2 xã dự án (mỗi xã có 03 CLB) do UBND xã ra quyết định, có quy chế và kế hoạch hoạt động được các thành viên thống nhất thông qua. Thành phần nòng cốt là 5 thành viên Ban chủ nhiệm - những người đã được tập huấn kiến thức và kỹ năng để tuyên truyền lan tỏa kiến thức bảo vệ môi trường cho người dân trong cộng đồng và 30 thành viên CLB là những người dân trên địa bàn 2 xã chịu ảnh hưởng của ô nhiễm không khí, tiếng ồn từ hoạt động của các nhà máy xi măng và doanh nghiệp khai thác đá gần địa bàn.
Các buổi sinh hoạt truyền thông, Ban chủ nhiệm CLB tập trung tuyên truyền cho người dân về Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, trong đó chú trọng phương pháp truyền thông 2 chiều thông qua thảo luận nhóm. Các hình thức tuyên truyền được Ban chủ nhiệm CLB thể hiện đa dạng, phong phú, phù hợp với các nhóm đối tượng, nhất là đội tượng người đồng bào dân tộc Bru Vân Kiều. Hình thức truyền thông bằng tờ rơi, banner hoặc sân khấu hóa thông qua tiểu phẩm truyền thông hấp dẫn, sinh động. Các diễn viên không chuyên là Ban chủ nhiệm và thành viên CLB lên sân khấu thể hiện bằng chính những câu chuyện của địa phương, đưa ra các giải pháp của cộng đồng trên cơ sở pháp luật hợp tình, hợp lý, đã thu hút sự theo dõi của đông đảo người dân tham gia sinh hoạt CLB ngày càng đông. Từ 180 thành viên ban đầu, đến nay số lượng thành viên tham gia tại 6 CLB là 570 thành viên, họ sẽ là những tuyên truyền viên tiếp tục lan tỏa kiến thức bảo vệ môi trường trong cộng đồng.
Bên cạnh việc tuyên truyền pháp luật bảo vệ môi trường, các thành viên CLB còn được hướng dẫn các mô hình bảo vệ môi trường như mô hình “Hạn chế sử dụng túi nilon” (hỗ trợ 210 làn đi chợ để hạn chế mang túi nilon từ chợ về), mô hình “Phân loại rác tại nguồn”, hướng dẫn làm mẫu thực hành mô hình “Một hố rác – một cây xanh” cho đồng bào dân tộc Bru Vân Kiều và nhân rộng ra các địa bàn dự án khác. Những hoạt động này đã góp phần thay đổi hành vi bảo vệ môi trường của người dân bằng những việc làm cụ thể, thiết thực. Có thể nói câu lạc bộ là nơi kết nối các thành viên, là nơi giao lưu, sinh hoạt cộng đồng và cũng là cách thức tổ chức truyền thông mang lại hiệu quả nhất.
Tại cuộc đánh giá cuối kỳ, qua bảng kiểm khảo sát 30 thành viên Ban chủ nhiệm 6 Câu lạc bộ (chủ nhiệm CLB là chi hội trưởng HPN và 4 phó chủ nhiệm là các chi hội phó và cán bộ lãnh đạo trong thôn), trong đó có 23 nữ, 7 nam, có 4 người dân tộc Bru Vân Kiều đại diện cho các bản dân tộc ít người đều ở xã Trường Xuân (Xem Biểu đồ 1), các thành viên Ban chủ nhiệm CLB tự nhận họ được cải thiện nhiều về hiểu biết pháp luật bảo vệ môi trường, về kỹ năng điều hành CLB, các kỹ năng truyền thông, tư vấn pháp luật ban đầu sau khi tham gia các hoạt động của dự án.

Biểu đồ 1: Cơ cấu giới tính và dân tộc của các Ban chủ nhiệm ở hai xã dự án

Người dân nhận xét rằng kiến thức và kỹ năng truyền thông và tư vấn của BCN các CLB cơ bản là ở mức tốt (Bảng 1). Có 83% ý kiến tham vấn của 58 người dân đánh giá cho rằng năng lực của BCN ở mức này. Chỉ có 1% số người tham gia đánh giá (1 ý kiến) ở Vạn Ninh được đánh giá là rất tốt, và có 1 ý kiến (của 1 người) ở Trường Xuân cho đánh giá là năng lực chưa tốt.

Bảng 1. Đánh giá về năng lực (kiến thức kỹ năng) truyền thông, tư vấn của BCN

  Tên xã
Vạn Ninh Trường Xuân Tổng
  Rất tốt 1 4% 0 0% 1 1%
Tốt 18 72% 40 89% 58 83%
Khá 6 24% 4 9% 10 14%
Chưa tốt 0 0% 1 2% 1 1%
 
Đối tượng trẻ em được dự án đặc biệt quan tâm với nhiều hoạt động được triển khai. Tại các trường THCS trên địa bàn, Ban quản lý dự án đã phối hợp với Ban Giám hiệu nhà trường tổ chức Hội thi “Tìm hiểu Luật Bảo vệ Môi trường năm 2020”, cuộc thi vẻ tranh “Cùng em bảo vệ môi trường trong lành” thu hút 422 học sinh, chiếm gần 100% học sinh tham gia, cuộc thi đã được toàn thể giáo viên nhà trường hưởng ứng tham gia hỗ trợ, động viên học sinh, nhất là thời điểm tổ chức cuộc thi vẽ tranh diễn ra lúc dịch bệnh Covid bùng phát trở lại. Những bài viết sáng tạo, thể hiện bằng nhiều hình thức như văn, thơ, tiểu phẩm đã cho thấy sự hiểu biết của các em về Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 cũng như góc nhìn của thiếu nhi về vấn nạn ô nhiễm môi trường hiện nay, các em gửi gắm ước mơ về một cuộc sống yên bình, trong lành. Kết quả các cuộc thi, những bài viết suất sắc, những bức tranh sáng tạo, mang thông điệp truyền thông tích cực đã được trao những giải thưởng xứng đáng, điều đó càng khích lệ các em trở thành những tuyên truyền viên nhỏ ở trường học và cộng đồng về bảo vệ môi trường.
Bên cạnh các hoạt động truyền thông, dự án đã hỗ trợ các mô hình bảo vệ môi trường cho người dân địa bàn 2 xã dự án. Thông qua hướng dẫn mô hình “Một hố rác-Một cây xanh” dự án đã hỗ trợ 180 giống cây vú sữa Lò Rèn, 360 gói men vi sinh cho 180 hộ dân; Hỗ trợ 100 tấm lưới chắn bụi cho người dân dọc các tuyến đường bị ảnh hưởng khói bụi từ các cơ sở khai thác đá, nhà máy xi măng và dọc tuyến xe chở vật liệu; Hỗ trợ 52 thùng rác cho tất cả các điểm trường và nhà văn hóa ở 2 xã dự án. Đây là hoạt động mang ý nghĩa rất thiết thực, được người dân đồng tình hưởng ứng cao. Từ các mô hình mẫu sẽ tiếp tục được nhân rộng và lan tỏa các hành vi bảo vệ môi trường trong cộng đồng.
Theo kết quả đánh giá bằng phiếu hỏi, tỷ lệ trong số 62 người trả lời (trong tổng 66 thành viên) các CLB được truyền thông, hướng dẫn làm mẫu ở mỗi xã cao nhất cho một hoạt động một hố rác một cây xanh- 63% ở Vạn Ninh, và 53% ở Trường Xuân. Hơn một nửa số thành viên CLB ở mỗi xã cho là có được hướng dẫn phân loại rác nhựa. Tỷ lệ trả lời được hướng dẫn làm mẫu thấp nhất là 27% với hoạt động dùng lưới che bụi ở Vạn Ninh, và phân loại rác tại nguồn ở Trường Xuân.

Bảng 2. Sự tham gia của cộng đồng trong các mô hình mà dự án

  Tên xã  
Vạn Ninh Trường Xuân
Tham gia các mô hình của dự ána Tham gia làm mẩu MH BVMT một hố rác 1 cây xanh Tần suất 14 21 35
% của Xã 63.6% 52.5%  
Tham gia làm mẩu MH BVMT Phân loại rác tại nguồn Tần suất 7 11 18
% của Xã 31.8% 27.5%  
Tham gia làm mẩu MH BVMT Lưới chắn bụi Tần suất 6 20 26
% của Xã 27.3% 50.0%  
Tham gia làm mẩu MH BVMT Hạn chế sử dụng túi ni long Tần suất 13 22 35
% của Xã 59.1% 55.0%  
Tổng Tần suất 22 40 62
*Phần trăm và tổng tính theo số người trả lời với đáp án “Có/Đúng”.  
             
 
Thành viên các CLB tham gia đánh giá cho biết họ đều nhận được một trong những hỗ trợ hiện vật từ dự án, hoặc là cây giống (cây vú sữa nếp kết hợp với túi men vi sinh), làm nhựa đi chợ (để góp phần giảm dùng túi nylon), hoặc lưới chắn bụi. Theo kết quả phân tích, tỷ lệ người được nhận được làn nhựa ở hai xã là như nhau, trong khi đó, ở xã Trường xuân, tỷ lệ người được nhận cây giống và lưới chắn bụi nhiều hơn so với ở Vạn Ninh.

Bảng 3. Độ phủ trong nhóm tham gia dự án với việc nhận hỗ trợ hiện vật từ dự án

Nhận hỗ trợ hiện vật từ dự ána Tên xã Tổng
Vạn Ninh Trường Xuân
  Gia đình có nhận hỗ trợ từ dự án làm MH không Tần suất 19 39 58
% của Xã 100.0% 100.0%  
Gia đình có nhận hỗ trợ từ dự án làm MH giống cây vú sữa Tần suất 4 20 24
% của Xã 21.1% 51.3%  
Gia đình có nhận hỗ trợ từ dự án làn đi chợ để loại bỏ túi ni lông Tần suất 10 21 31
% của Xã 52.6% 53.8%  
Gia đình có nhận hỗ trợ từ dự án làm MH Men vi sinh ủ rác hữu cơ Tần suất 4 20 24
% của Xã 21.1% 51.3%  
Gia đình có nhận hỗ trợ từ dự án làm MH lưới che chắn bụi cho gia đình Tần suất 6 18 24
% của Xã 31.6% 46.2%  
Tổng Tần suất 19 39 58
*Phần trăm và tổng tính theo số người trả lời với đáp án “Có/Đúng”.
 
 
Hầu hết người tham gia đánh giá dự án cho rằng các mô hình BVMT mà dự án đưa ra phù hợp với bối cảnh ở địa phương. Trong những người thành viên CLB BVMT tỷ lệ cho là phù hợp và rất phù hợp là 97%. Với người ngoài CLB tỷ lệ này là 73% và 22% không có ý kiến. Ở Trường Xuân, tỷ lệ người tham gia đánh giá cho là phù hợp và rất phù hợp là 94%, cao hơn đáng kể tỷ lệ 87% ở Vạn Ninh.

Bảng 4. Mức độ phù hợp các mô hình với cộng đồng dân cư

Mức độ phù hợp với người dân cả các mô hình BVMT tại địa phương Tham gia CLB cùng nhau BVMT trong lành
Không Tổng
       
  Rất phù hợp 2 9% 8 12% 10 11%
Phù hợp 15 65% 56 85% 71 80%
Chưa phù hợp 1  4% 0 0% 1 1%
Không có ý kiến 5 22% 2 3% 7 8%
Tổng 23 100% 66 100% 89 100%
 
 
 
1.2. Tuyên truyền thông qua sản phẩm truyền thông
Bên cạnh các hoạt động tập huấn, truyền thông nâng cao nhận thức qua sinh hoạt CLB, hội thi, Ban quản lý dự án đã thiết kế các sản phẩm truyền thông để đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền nâng cao nhận thức cho người dân, cụ thể:
In ấn và phát hành 2.000 tờ rơi giới thiệu Thông tin dự án chuyển đến cho các đơn vị đối tác, chính quyền địa phương và người hưởng lợi tại Hội thảo giới thiệu dự án và trong toàn hoạt động của dự án tại cộng đồng. Phát hành Sổ tay tuyên truyền viên Bảo vệ môi trường cho lãnh đạo các CLB, đội ngũ cán bộ truyền thông và cốt cán dự án; cấp phát 500 tờ rơi tuyên truyền việc tuân thủ pháp luật về vệ sinh an toàn lao động, bảo vệ môi trường cho người lao động trực tiếp làm việc tại các cơ sở khai thác mỏ đá (Mỏ Hoà Đại Phát, Mỏ Thế Thịnh, Mỏ Thục Linh - xã Trường Xuân) và công nhân nhà máy xi măng (Nhà máy Xi măng Cosevco6 và Nhà máy Xi măng Vicem Vạn Ninh), qua đó góp phần nâng cao ý thức tự bảo vệ sức khỏe, đảm bảo an toàn cho người lao động; cấp phát 1.500 tờ rơi mang thông điệp về bảo vệ môi trường của dự án được tuyên truyền cho các đối tượng hưởng lợi thông qua các buổi sinh hoạt CLB, để các thành viên CLB “Cùng nhau bảo vệ môi trường trong lành” lan tỏa và tuyên truyền các thông điệp tích cực về bảo vệ môi trường cho cộng đồng.
Thiết kế và treo 40 pano áp phích tuyên truyền về thông điệp bảo vệ môi trường tại những nơi tập trung đông dân cư như Trụ sở UBND xã, nhà văn hóa, trường học, chợ và các trục đường gần các nhà máy gây ô nhiễm môi trường tại 2 xã dự án nhằm giúp người dân nâng cao nhận thức về quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường.
Thiết lập chuyên mục Tư vấn Bảo vệ môi trường trên trang website Quỹ; Trang fanpage VÌ MÔI TRƯỜNG TRONG LÀNH phản ánh các hoạt động của dự án; Thành lập nhóm Zalo “Dự án môi trường” có sự tham gia của Ban quản lý dự án, lãnh đạo CLB, tuyên truyền viên, Sở Tài nguyên Môi trường, Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh nhằm chia sẻ thông tin, kết nối hoạt động từ tỉnh đến cơ sở để trao đổi thông tin và giúp đỡ lẫn nhau thực hiện các mô hình bảo vệ môi trường.
Tuyên truyền các hoạt động dự án trên Đài phát thanh truyền hình Quảng Bình, Báo Quảng Bình, Thông tấn xã Việt Nam và trang website của Hội LHPN tỉnh, Quỹ Hỗ trợ PNPT tỉnh Quảng Bình để đông đảo người dân biết về các hoạt động dự án và nâng cao ý thức bảo vệ môi trường.
Các sản phẩm truyền thông được thiết kế hài hòa, với các giải pháp bảo vệ môi trường được ghi nhận từ ý kiến của người dân thông qua các hoạt động của dự án tại cộng đồng, mang thông điệp rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu giúp cho người dân, trong đó có phụ nữ, nam giới, trẻ em và cả đồng bào dân tộc thiểu số Bru Vân Kiều dễ dàng tiếp cận với các thông tin pháp luật liên quan đến bảo vệ môi trường, từ đó nâng cao nhận thức về quyền và nghĩa vụ của mình, cùng chung tay bảo vệ môi trường trong lành từ những việc làm cụ thể, thiết thực.
2. Mục tiêu 2: Cung cấp dịch vụ tư vấn trợ giúp pháp lý về Luật bảo vệ môi trường, giải quyết tranh chấp của người dân được đáp ứng, hoặc chuyển tới các cơ quan chuyên môn theo yêu cầu và đại diện cho người yếu thế trước tòa.
- Chỉ số 2: Tư vấn pháp luật, hỗ trợ pháp lý: có 80/50 người dân (trong đó có 60 nữ, 20 nam, có 9 người dân tộc thiểu số và 6 hộ nghèo) được cung cấp dịch vụ Tư vấn pháp luật, hỗ trợ pháp lý các vấn đề liên quan đến môi trường, đạt 160%. Các chỉ số về đại diện bào chữa chữa trước tòa không thực hiện được do không có những vụ việc tranh chấp xảy ra trong khuôn khổ dự án.
Để hỗ trợ các kiến thức và kỹ năng tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý cho cán bộ địa phương, dự án tổ chức khóa tập huấn 2 ngày (7,8/5/2022) tại tỉnh cho 30 người (trong đó nữ chiếm 70%, nam chiếm 30%) là những tập huấn viên, truyền thông viên, lãnh đạo CLB về kiến thức và kỹ năng trợ giúp pháp lý cơ bản và nhận biết được nhu cầu trợ giúp trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và khiếu nại tố cáo, để chuyển cho các Trợ giúp viên chuyên nghiệp hoặc Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước nhằm xây dựng mạng lưới tư vấn viên tại địa phương.
Sau đó, tiếp tục tổ chức khóa tập huấn về tư vấn pháp luật trong 2 ngày (14,15/5/2022) tại tỉnh cho 30 đối tượng đã tham gia khóa tập huấn trợ giúp pháp lý về các kiến thức và kỹ năng tư vấn pháp luật nhằm giúp cho các cán bộ địa phương được nâng cao năng lực hỗ trợ tư vấn cho người dân tại cộng đồng và chuyển các ý kiến của người dân lên cấp trên.
Tổ chức 7 phiên trợ giúp pháp luật lưu động lồng ghép theo các buổi sinh hoạt CLB, nhằm cung cấp dịch vụ tư vấn trợ giúp pháp lý về Luật bảo vệ môi trường cho người dân, qua đó, tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, tiếp nhận 80 đơn yêu cầu hỗ trợ pháp lý, tư vấn pháp luật về vấn đề bảo vệ môi trường cho người dân 2 xã dự án.
Qua các phiên trợ giúp cho thấy, tại địa bàn các thôn, bản thuộc xã Trường Xuân - nơi có rất nhiều các doanh nghiệp đang hoạt động khai thác nguyên liệu từ các mỏ đá lộ thiên thì người dân mong muốn tư vấn về các vấn đề liên quan đến xử lý vi phạm của các doanh nghiệp khai thác đá trên địa bàn gây ô nhiễm không khí.
Khi môi trường không khí bị ô nhiễm, người dân sẽ tìm đến ai để được hỗ trợ giải quyết; pháp luật quy định tổ chức nào quản lý môi trường không khí; Chức năng nhiệm vụ của tổ chức đó cụ thể là gì... Người dân ở các thôn của xã Vạn Ninh có nhu cầu tư vấn về việc các nhà máy xi măng quá gần các hộ dân gây khói bụi ảnh hưởng đến sức khỏe người dân; pháp luật có quy định cụ thể chi tiết nào về khoảng cách cách ly giữa các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ đến khu dân cư đảm bảo an toàn vệ sinh môi trường không; luật quy định tốc độ xe chạy tối đa qua khu dân cư là bao nhiêu để đảm bảo vệ sinh môi trường, an toàn cho người dân. Việc công bố thông tin, các báo cáo về vấn đề ô nhiễm môi trường được pháp luật quy định không… Tất cả nhu cầu và vướng mắc của người dân được Nhóm chuyên gia phân tích, hỗ trợ, giải thích, hướng dẫn tư vấn thỏa đáng cho người dân.
3. Mục tiêu 3: Những thay đổi trong luật và quy định
- Chỉ số 3: Những thay đổi trong luật và quy định: Có 2/1 văn bản đề xuất thực hiện chính sách, đạt 200%.
Qua thực hiện các hoạt động của dự án, Ban quản lý đã có Văn bản kiến nghị gửi Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Bình tiếp tục kiến nghị đề xuất với Bộ Tài nguyên và Môi trường nghiên cứu sớm ban hành quy chuẩn kỹ thuật khoảng cách an toàn về môi trường đối với khu dân cư của cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội hiện nay để cộng đồng dân cư có cơ sở pháp lý, có căn cứ giám sát hoạt động bảo vệ môi trường trên địa bàn. Vấn đề khoảng cách an toàn về môi trường đối với khu dân cư đã được quy định tại khoản 2 Điều 53 Luật BVMT năm 2020 quy định một số cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và kho tàng phải có khoảng cách an toàn về môi trường đối với khu dân cư. Tại khoản 4, Điều 52, Nghị định 08/2022-NĐ-CP ngày 10/01/2022 của Chính phủ hướng dẫn Luật BVMT năm 2020 : “Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì xây dựng, ban hành quy chuẩn kỹ thuật môi trường về khoảng cách an toàn về môi trường đối với khu dân cư của cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và kho tàng quy định tại điểm d, khoản 2, Điều 53 Luật BVMT 2020”. Nhưng trong phạm vi điều chỉnh của Thông tư số 02/2022/TT-BTNMT ngày 10/01/2022 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định thi hành một số điều của Luật BVMT tại Điều 1: Phạm vi điều chỉnh: chưa có quy định chi tiết thi hành khoản 4, Điều 52, Nghị định 08/2022/NĐ-CP ngày 10/01/2022 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật BVMT 2020. Ngày 15/8/2022 Hội LHPN tỉnh có Công văn số 03/CV-JFF3 gửi Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Bình kiến nghị đề xuất hướng dẫn ban hành quy chuẩn kỹ thuật về khoảng cách an toàn về môi trường, đến ngày 07/09/2022 Hội LHPN tỉnh nhận được văn bản số 2190/STNMT-QLMT của Sở tài nguyên môi trường về việc phúc đáp công văn số 03/CV-JIFF của Ban quản lý dự án Quỹ JIFF3-QBWU7.
Luật Bảo vệ Môi trường 2020 đã khẳng định rõ quyền và nghĩa vụ của cộng đồng dân cư tại Khoản 3, Điều 159: “Đại diện cộng đồng dân cư có quyền tham gia đánh giá kết quả bảo vệ môi trường của dự án đầu tư, cơ sở, khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung, cụm công nghiệp; thực hiện biện pháp để bảo vệ quyền và lợi ích của cộng đồng dân cư”. Tuy nhiên, các quyền của cộng đồng dân cư trong bảo vệ môi trường chưa được hướng dẫn cụ thể trong các văn bản thực thi, do đó người dân còn lúng túng chưa thể tự bảo vệ quyền lợi của mình trước các sự việc gây ô nhiễm môi trường. Từ thực tế đó, ngày 17/10/2022 Hội LHPN tỉnh đưa gửi công văn số 06/CV-JIFF về việc kiến nghị các nội dung giúp người dân phát huy quyền giám sát hoạt động môi trường tại cộng đồng gửi đến UBND xã Trường Xuân và Vạn Ninh, đề nghị UBND hai xã nghiên cứu đưa ra các quy định cụ thể đối với các nhà máy xi măng, các cơ sở khai thác đá đóng trên địa bàn, để cộng đồng dân cư có cơ sở pháp lý thực hiện quyền giám sát hoạt động bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật.
 
III. NHỮNG THAY ĐỔI DỰ ÁN TỪ HOẠT ĐỘNG ĐÁNH GIÁ CUỐI KỲ
Nhằm đánh giá tác động của dự án sau thời gian triển khai hoạt động tại địa bàn 2 Trường Xuân và Vạn Ninh, Ban quản lý đã tiến hành cuộc đánh giá cuối kỳ trên 200 đối tượng là các sở ngành liên quan, chính quyền địa phương, doanh nghiệp, công nhân, học sinh và người dân hưởng lợi trên địa bàn 2 xã dự án. Cuộc điều tra đánh gía do chuyên gia tư vấn độc lập thực hiện và kết quả đã chỉ ra những thay đổi mà Dự án JIFF-QBWU7 mang lại như sau:
1. Nâng cao kiến thức kỹ năng pháp luật về môi trường cho cộng đồng
Mọi thành viên CLB đều cho rằng họ được nâng cao kiến thức về pháp luật bảo vệ môi trường thông qua hoạt động của dự án. Cuộc đánh giá còn ghi nhận 88% cho là kiến thức về pháp luật bảo vệ môi trưởng của họ được nâng cao. Tính cho tất cả thành viên CLB, ở Trường Xuân, tỷ lệ nói kiến thức pháp luật về BVMT được nâng cao là 98%, còn ở Vạn Ninh- 95%.

Biểu đồ 2. Mức độ nâng cao kiến thức pháp luật bảo vệ môi trường qua hoạt động của dự án

Diagram    Description automatically generated
Theo ý kiến của những người tham gia các CLB, các buổi sinh hoạt CLB, các cuộc thảo luận về giải pháp bảo vệ môi trường, các hoạt động truyền thông, các buổi vệ sinh cộng đồng là có vai trò nâng cao hiểu biết kỹ năng của họ về pháp luật bảo vệ môi trường. Hoạt động tư vấn và trợ giúp pháp luật có tác động tới họ ít hơn cả.

Biểu đồ 3. Cơ chế tác động tới kiến thức về Luật bảo vệ môi trường


 
Với những người không là thành viên CLB, việc tham gia các buổi sinh hoạt cộng đồng về môi trường như các buổi làm vệ sinh thôn xóm làng bản, qua tờ rơi hay banner là hình thức tác động đến họ. (Biểu đồ 3)
2. Nhìn nhận của cộng đồng về hiệu quả truyền thông và tư vấn pháp luật
Qua ý kiến trả lời của các bảng hỏi, cuộc đánh giá ghi nhận đại đa số người được tham vấn cho là hoạt động truyền thông nâng cao nhận thức của dự án có hiệu quả (82%) hoặc rất hiệu quả (5%). Với hoạt động tư vấn hỗ trợ pháp luật, tỷ lệ này thấp hơn tương ứng là 68% và 5%.

Biểu đồ 4. Mức độ tham gia các cuộc truyền thông và tư vấn pháp luật về môi trường


Các cuộc phỏng vấn cho thấy người tham gia các buổi truyền thông rất hào hứng với các tiểu phẩm do người địa phương sáng tác, sử dụng ngôn ngữ địa phương, có các bài hát dân ca, nhất là các làn điệu địa phương. Nội dung gắn với các sự kiện ở cộng đồng, ví dụ các buổi người dân kê đá chặn xe vận tải đá xay qua thôn bản, các thảo luận trong cộng đồng về cách ứng phó phù hợp với vấn đề ô nhiễm bụi, ô nhiễm âm thanh hay các rủi ro tai nạn giao thông do xe quá tải hoặc quá nhiều xe chạy qua khu dân cư. Các tiểu phẩm thường kết thúc bằng cuộc gặp giữa đại diện của doanh nghiệp với người dân, đại diện chính quyền địa phương và cam kết của doanh nghiệp về tuân thủ các biện pháp bảo vệ môi trường, khắc phục và không gây ô nhiễm cho môi trường sống ở cộng đồng.
3. Thay đổi hành vi bảo vệ môi trường của cộng đồng dân cư
Khi so sánh hành vi của những thành viên cộng đồng dân cư ở trong và ngoài CLB, cuộc đánh giá ghi nhận sự khác biệt rõ nét về những hành vi mà dự án khuyến khích, cụ thể là đào hố ủ rác hữu cơ, dùng làn đi chợ để giảm dùng túi nylon và trồng cây ven đường, trong vườn để chống bụi. Mức độ chênh lệch ý kiến giữa hai nhóm thành viên CLB và không tham gia CLB về các hành vi này hơn 8%. Các hoạt động BVMT khác, như thu gom hay giảm sử dụng túi nilong, hoặc vệ sinh thôn xóm thì không có sự khác biệt lớn giữa hai nhóm. (Biểu đồ 5)

Biểu đồ 5.Thực hành bảo vệ môi trường trong cộng đồng


 
Với nhóm hành vi bảo vệ môi trường về phân loại rác, gom riêng rác nhựa, sử dụng dụng hóa chất nông nghiệp, làm lưới chắn bụi, có thể thấy sự khác biệt giữa những người trong CLB và ngoài CLB, trừ việc treo lưới chắn bụi và phân loại rác tại nguồn. Hai hành vi này có liên quan tới hoạt động của dự án, về truyền thông và về hỗ trợ trực tiếp hiện vật. (Biểu đồ 6)

Biểu đồ 6. Thực hành bảo về môi trường trong cộng đồng dân cư


Qua đánh giá khảo sát, thấy rõ có sự khác biệt về mức độ gọn gàng (ngăn nắp) và sạch sẽ trong nhà giữa những người tham gia CLB và ngoài CLB. Mức độ gọn gàng trong thành viên CLB có tỷ lệ cao hơn nhóm ngoài CLB tới 14%, còn về mức độ bẩn (không sạch sẽ) trong nhà và mức độ bừa bộn, nhóm ngoài CLB có tỷ lệ nhiều hơn nhóm trong CLB tương ứng tới 10% và 11%. (Biểu đồ 7)

Biểu đồ 7. Mức độ ngăn nắp và sạch sẽ theo quan sát của các điều tra viên


4. Giám sát việc thực hiện Luật bảo vệ môi trường
Một điểm mới quan trọng của Luật bảo vệ môi trường 2020 có quy định trong chương XIII là Điều 159 về quyền và nghĩa vụ của cộng đồng dân cư về thu thập thông tin BVMT, cung cấp cho cơ quan có thẩm quyền. Cuộc đánh giá ghi nhận rằng, trong thời gian thực hiện dự án, cộng đồng dân cư và các tổ chức xã hội ở cộng đồng dân cư các xã dự án đã tiếp tục tham gia giám sát tác động môi trường thực hiện được cung cấp và yêu cầu cung cấp thông tin, phản biện, giám sát, tham gia kiểm tra về bảo vệ môi trường phù hợp với quyền được quy định trong Điều 158 Luật Bảo vệ Môi trường 2020.
Những người dân ở thôn bản, nhóm công nhân các nhà máy và lãnh đạo doanh nghiệp trả lời rằng, hiện tượng cản trở hoạt động của doanh nghiệp bằng các hành động quá khích đã không còn xảy ra. Mọi người hiểu và nhận thức rằng các hành vi quá khích là không phù hợp có thể gây ra các vấn đề mất an ninh tại cộng đồng, những thay đổi này từ những hoạt động truyền thông của dự án đặc biệt là sau các cuộc truyền thông và tư vấn lưu động của dự án ở cộng đồng.
Cuộc đánh giá cũng đã ghi nhận có 74% thành viên BCN cho rằng các tổ chức địa phương, đặc biệt là Hội Phụ nữ, đã tham gia giám sát các hoạt động bảo vệ môi trường ở cộng đồng (Biểu đồ 8).
 

Biểu đồ 8. Cộng đồng dân cư thực hiện quyền giám sát hoạt động BVMT


 
5. Tham gia góp ý chính sách liên quan đến bảo vệ môi trường
Góp ý thay đổi chính sách là một trong các mục tiêu của dự án, tại thời điểm đánh giá đoàn ghi nhận rằng Hội LHPN tỉnh có Công văn số 03/CV-JFF3 ngày 15/8/2022 gửi Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Bình kiến nghị đề xuất Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn ban hành quy chuẩn kỹ thuật về khoảng cách an toàn về môi trường. Công văn đã viện dẫn khoản 2 Điều 153 của Luật BVMT 2020 và Thông tư 2/2022-TT-BTNMT tháng 2 năm 2022 không điều chỉnh về khoảng cách an toàn của các doanh nghiệp với các khu dân cư. Công văn ngày đã nêu rõ là Hội LHPN phản ánh ý kiến của cộng đồng dân cư ở vùng dự án đang chịu ảnh hưởng xấu do tác động gây ô nhiễm của của các doanh nghiệp. Trong cuộc gặp với cán bộ Sở Tài nguyên và môi trường đoàn đánh giá đã ghi nhận rằng Sở Tài nguyên môi trường đã tiếp nhận công văn từ cơ quan thực hiện dự án và đã hồi âm tại văn bản số 2190/STNMT-QLMT ngày 07/9/2022 của Sở Tài nguyên và Môi trường về việc phúc đáp công văn số 03/CV-JIFF của Ban quản lý dự án Quỹ JIFF3-QBWU7.
6. Tổng quan tác động của dự án sau thời gian triển khai
Qua một năm thực hiện dự án, có nhiều vấn đề về môi trường được giải quyết và có nhiều vấn đề được cải thiện, có vấn đề như làm đường tránh ở Trường Xuân đã hoàn thành vào tháng 4 năm 2022, nhưng có vấn đề như tái định cư ở Vạn Ninh vẫn chưa tiến triển ở thời điểm cuộc đánh giá. Trong những ngày ở hiện trường, đoàn đánh giá dự án tới địa phương vào mùa mưa và thực tế là tới sau một đợt mưa. Cảm nhận và quan sát tại hiện trường cho thấy không khí ở các nơi đã tới ít bụi, lá cây ở gần nhà máy và khu dân cư không phủ bụi. Các quan sát và các cuộc phỏng vấn cả người dân, lãnh đạo các cộng đồng và cán bộ của các doanh nghiệp xác nhận đã định kỳ phun nước để giảm bụi trên đường xe tải đi qua khu dân cư, xe tải chở hàng đều có phủ bạt. Việc nổ mìn được xác nhận được thực hiện theo giờ quy định, có cảnh báo cho người dân. Các quan sát của đoàn đánh giá ghi nhận các đoạn đường qua các khu dân cư mà xe tải đi qua vẫn còn nhiều ổ voi và ổ gà lớn đọng nước sau đợt mưa. Cuộc phỏng vấn với chủ nhiệm CLB BVMT và trưởng thôn cho thấy các doanh nghiệp và đại diện các bị ảnh hưởng đang đàm phán về mức hỗ trợ ảnh hưởng ô nhiễm do việc xe tải vận chuyển chạy qua bản.
Các doanh nghiệp được gặp cho biết họ đã áp dụng công nghệ nổ mìn cải tiến làm giảm độ rung chấn và phát thải bụi. Một doanh nghiệp khai thác đá được phỏng vấn cho biết họ tổ chức che chắn bụi tại nguồn và phun nước tại các khu vực sản xuất do công nghệ khác thác đá là lộ thiên. Ở Trường Xuân đường tránh đã hoàn thành và các xe vận tải chở đá đã sử dụng những con đường tránh, chỉ còn gây bụi cho một cộng đồng dân cư như Khe Ngang. Doanh nghiệp được phỏng vấn trong cuộc đánh giá đã cho xem phiếu quan trắc môi trường do một trung tâm tư vấn độc lập thực hiện trong năm 2021 và 2022 với kết quả cho thấy tại các điểm quan trắc cả tại nơi sản xuất và những điểm liên quan khu dân cư, các chỉ số môi trường về ô nhiễm khí, bụi, nước và âm thanh đều dưới các mốc quy định theo Tiêu chuẩn Việt Nam. Đại diện doanh nghiệp cũng có những đoàn thanh tra môi trường của chính quyền huyện và tỉnh tới kiểm tra việc tuân thủ.
Trong phạm vi hộ gia đình, đoàn đánh giá ghi nhận điều kiện vệ sinh của các gia đình ở Trường Xuân yếu đáng kể so với Vạn Ninh. Trong khi ở Vạn Ninh, tất cả các gia đình tham gia đánh giá đều có nhà tắm và nhà vệ sinh, tỷ lệ không có nhà vệ sinh ở xã Trường xuân là 22% và không có nhà tắm là 39%. Sự thiếu thốn chủ yếu trong cộng đồng người Vân Kiều, cụ thể - 19 gia đình không có nhà tắm, thì 16 là hộ Vân Kiều, tương ứng trong 11 gia đình không có nhà vệ sinh thì 10 hộ là Vân Kiều.

Biểu đồ 9. Phân bố nhà công trình vệ sinh (nhà tắm và cầu tiêu) ở cộng đồng hai xã dự án


IV. THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN VÀ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT
1. Thuận lợi
- Trong quá trình triển khai thực hiện luôn nhận được sự phối hợp, hỗ trợ tích cực, kịp thời từ Ban Thư ký Quỹ JIFF.
- Ban Thường vụ Hội LHPN tỉnh quan tâm, định hướng thực hiện dự án và chỉ đạo lồng ghép với các hoạt động của Hội để dự án đạt kết quả cao nhất.
- Ban Giám đốc Quỹ luôn chỉ đạo sát sao, kịp thời hướng dẫn các hoạt động dự án theo đúng nội dung sáng kiến, chủ động triển khai, điều chỉnh phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương.
- Chính quyền địa phương và các bên liên quan tích cực phối hợp và hỗ trợ Ban quản lý trong thực hiện hoạt động của dự án.
- Cán bộ Hội phụ nữ cấp cơ sở tích cực hỗ trợ kết nối trong quá trình triển khai thực hiện.
- Người dân bắt đầu tiếp cận và dần hiểu về dự án nên đã mạnh dạn hơn trong việc chia sẻ ý kiến và các giải pháp bảo vệ môi trường, tích cực thực hiện các mô hình cùng nhau bảo vệ môi trường trong lành.
2. Khó khăn
- Nhận thức của người dân nhất là người đồng bào dân tộc thiểu số về ý thức bảo vệ môi trường còn hạn chế, các văn bản tuyên truyền về pháp luật, nhất là Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 còn chưa được phổ biến, nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số Bru Vân Kiều.
- Việc tiếp cận với các doanh nghiệp, các công ty để trao đổi các vấn đề pháp luật bảo vệ môi trường rất khó khăn vì đây là vấn đề nhạy cảm, do đó Ban quản lý phối hợp với Sở Tài nguyên môi trường tỉnh, chính quyền địa phương và cán bộ môi trường địa chính xã để hỗ trợ, phối hợp thực hiện ngay từ đầu.
- Trong điều kiện tỷ giá đồng EURO thay đổi, QBWU7 phải điều chỉnh 1 số hoạt động để đảm bảo đạt các mục tiêu kế hoạch đề ra.
- Do tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp nên một số hoạt động của dự án bị ảnh hưởng, phải tổ chức linh hoạt, thích ứng với tình hình Covid-19. (phát sinh thêm kinh phí phòng chống dịch để đảm bảo hoạt động được triển khai an toàn cho người dân).
3. Ý kiến đề xuất
-  Đối với UBND tỉnh Quảng Bình: Chỉ đạo các sở ban ngành tăng cường việc giám sát thực thi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 tại các địa phương, đặc biệt là ở những địa bàn có các nhà máy khai thác đá, chế biến xi măng đang hoạt động nhằm giảm thiểu tác hại của ô nhiễm môi trường ảnh hưởng đến đời sống nhân dân.
- Đối với UBND huyện Quảng Ninh và UBND xã Trường Xuân, Vạn Ninh: Tăng cường công tác giám sát các đơn vị sản xuất kinh doanh trên địa bàn nhằm hạn chế các tác động của ô nhiễm khói bụi và tiếng ồn do các nhà máy gây ra; đồng thời tăng cường quyền giám sát của cộng đồng dân cư bằng cách tổ chức các đoàn giám sát có thành phần là đại diện của cộng đồng dân cư bị ảnh hưởng.
- Đối với cơ quan quản lý Tài nguyên môi trường: Thường xuyên tổ chức các hoạt động tuyên truyền các văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường cho người dân bằng nhiều hình thức, để người dân có hiểu biết và nhận thức tốt hơn về luật bảo vệ môi trường từ đó thay đổi hành vi ứng xử đúng pháp luật trước các vấn đề ô nhiễm môi trường.
- Đối với nhà tài trợ: Ban quản lý dự án mong muốn nhà tài trợ có thêm các hoạt động tiếp theo sau khi dự án kết thúc để hỗ trợ người dân duy trì và phát huy tốt các kết quả của dự án.
Trên đây là báo cáo kết quả thực hiện dự án "Nâng cao nhận thức và hiểu biết pháp luật về bảo vệ môi trường cho phụ nữ, trẻ em và đồng bào dân tộc thiểu số đảm bảo thực hiện quyền được sống trong môi trường trong lành" của Ban Quản lý Dự án JIFF3-QBWU7.