1. Đánh giá chính sách, pháp luật của Nhà nước về lao động, việc làm, y tế, giáo dục đối với người khuyết tật
Có thể khẳng định rằng: Nhà nước Việt Nam đã có một hệ thống văn bản chính sách, pháp luật đối với người khuyết tật tương đối đầy đủ và toàn diện. Quyền của NKT đã được khẳng định trong Công ước của Liên hiệp quốc về quyền của NKT mà Việt Nam đã tham gia năm 2007 và phê chuẩn năm 2014, Hiến pháp 2013, Luật Người khuyết tật 2010 và các luật chuyên ngành khác. Tại Điều 4, Luật NKT có nêu: NKT được tham gia bình đẳng vào các hoạt động xã hội; sống độc lập, hòa nhập cộng đồng. Được chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng, học văn hóa, học nghề, việc làm, trợ giúp pháp lí, tiếp cận công trình công cộng, phương tiện giao thông, công nghệ thông tin, dịch vụ văn hóa, thể thao, du lịch và dịch vụ khác phù hợp với dạng tật và mức độ khuyết tật.
Trên cơ sở tổng hợp, rà soát, đánh giá các văn bản chính sách, pháp luật cho NKT trong các lĩnh vực: lao động, việc làm, y tế và giáo dục cùng kết quả phỏng vấn sâu; dưới đây xin được trình bày các nội dung cơ bản cũng như một số điểm hạn chế của những chính sách này, cụ thể như sau:
- Chính sách, pháp luật về lao động, việc làm
Những chính sách hỗ trợ về lao động, việc làm đối với NKT được quy định tại Luật Người khuyết tật 2010, Bộ luật Lao động 2019, Luật Giáo dục nghề nghiệp 2014, Luật Việc làm 2013 và các văn bản hướng dẫn như: Nghị định số 28/2012/NĐ-CP, Thông tư số 26/2012/TT-BLĐTBXH, thể hiện ở những điểm chủ yếu sau:
Về lĩnh vực dạy nghề đối với người khuyết tật, Điều 32, Luật NKT nêu rõ: Nhà nước bảo đảm để người khuyết tật được tư vấn học nghề miễn phí, lựa chọn và học nghề theo khả năng, năng lực bình đẳng như những người khác. Cơ sở dạy nghề có trách nhiệm cấp văn bằng, chứng chỉ, công nhận nghề đào tạo khi người khuyết tật học hết chương trình đào tạo và đủ điều kiện theo quy định của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề. Cơ sở dạy nghề tổ chức dạy nghề cho người khuyết tật phải bảo đảm điều kiện dạy nghề cho người khuyết tật và được hưởng chính sách ưu đãi theo quy định của pháp luật. Người khuyết tật học nghề, giáo viên dạy nghề cho người khuyết tật được hưởng chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật.
Theo Quyết định số 46/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư 152/2017/TT-BTC, mức hỗ trợ tối đa cho người khuyết tật tham gia học nghề ở trình độ sơ cấp, học nghề dưới 3 tháng là 06 triệu đồng/ người/ khóa học; trong đó, mức hỗ trợ tiền ăn cho mỗi ngày thực học là 30.000 đồng/người/ngày thực học. Mỗi người được hỗ trợ tham gia học nghề 01 lần theo chính sách này. Riêng những người đã được hỗ trợ đào tạo nhưng bị mất việc làm do nguyên nhân khách quan thì Ủy ban nhân dân cấp xã xem xét, quyết định tiếp tục hỗ trợ đào tạo để chuyển đổi việc làm theo chính sách này, nhưng tối đa không quá 03 lần.
Về lĩnh vực việc làm, tại Điều 33, Luật Người khuyết tật đã quy định: Nhà nước tạo điều kiện để người khuyết tật phục hồi chức năng lao động, được tư vấn việc làm miễn phí, có việc làm và làm việc phù hợp với sức khỏe và đặc điểm của người khuyết tật. Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân không được từ chối tuyển dụng người khuyết tật có đủ tiêu chuẩn tuyển dụng vào làm việc hoặc đặt ra tiêu chuẩn tuyển dụng trái quy định của pháp luật nhằm hạn chế cơ hội làm việc của người khuyết tật. Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động là người khuyết tật tùy theo điều kiện cụ thể bố trí sắp xếp công việc, bảo đảm điều kiện và môi trường làm việc phù hợp cho người khuyết tật. Tổ chức giới thiệu việc làm có trách nhiệm tư vấn học nghề, tư vấn và giới thiệu việc làm cho người khuyết tật.
Bên cạnh đó, Luật cũng quy định về những chính sách ưu đãi dành cho NKT tự tạo việc làm và khuyến khích các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp nhận NKT vào làm việc. Trong đó: Người khuyết tật tự tạo việc làm hoặc hộ gia đình tạo việc làm cho người khuyết tật được vay vốn với lãi suất ưu đãi để sản xuất kinh doanh, được hướng dẫn về sản xuất, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm theo quy định của Chính phủ (Điều 33, Luật NKT).
Đối với các doanh nghiệp sử dụng từ 10 người khuyết tật làm việc ổn định được hỗ trợ kinh phí cải tạo điều kiện, môi trường làm việc phù hợp. Mức hỗ trợ theo tỷ lệ người khuyết tật làm việc ổn định tại cơ sở sản xuất, kinh doanh, mức độ khuyết tật của người lao động và quy mô của cơ sở sản xuất, kinh doanh. Đối với cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp sử dụng từ 10 người khuyết tật làm việc ổn định được hỗ trợ kinh phí cải tạo điều kiện, môi trường làm việc phù hợp cho người khuyết tật theo quy định của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng từ 30% tổng số lao động trở lên là người khuyết tật được hỗ trợ cải tạo điều kiện, môi trường làm việc phù hợp cho người khuyết tật; được miễn
thuế thu nhập doanh nghiệp; được vay vốn với lãi suất ưu đãi theo dự án phát triển sản xuất kinh doanh; được ưu tiên cho thuê đất, mặt bằng, mặt nước và miễn, giảm
tiền thuê đất, mặt bằng, mặt nước phục vụ sản xuất, kinh doanh theo tỷ lệ lao động là người khuyết tật, mức độ khuyết tật của người lao động và quy mô doanh nghiệp (Điều 34, Luật NKT; Điều 9, 10, Nghị định số 28/2012/NĐ-CP). Tuy nhiên, theo Điều 4, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, chính sách miễn thuế thu nhập doanh nghiệp chỉ áp dụng cho doanh nghiệp có số lao động trung bình ổn định trong năm từ 20 người trở lên.
Ngoài những quy định trong Luật Người khuyết tật và các văn bản hướng dẫn, trong Bộ luật Lao động cũng đã quy định về việc sử dụng lao động là người khuyết tật. Tại Điều 159 có nêu: Người sử dụng lao động phải bảo đảm về điều kiện lao động, công cụ lao động, an toàn, vệ sinh lao động và tổ chức khám sức khỏe định kỳ phù hợp với người lao động là người khuyết tật; phải tham khảo ý kiến của người lao động là người khuyết tật khi quyết định những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích của họ.
Các hành vi bị nghiêm cấm khi sử dụng lao động là người khuyết tật bao gồm: (1) Sử dụng người lao động là người khuyết tật nhẹ suy giảm khả năng lao động từ 51% trở lên, khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm, trừ trường hợp người lao động là người khuyết tật đồng ý. (2) Sử dụng người lao động là người khuyết tật làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm theo danh mục do Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành mà không có sự đồng ý của người khuyết tật sau khi đã được người sử dụng lao động cung cấp đầy đủ thông tin về công việc đó (Điều 160 Bộ luật Lao động).
Về chính sách vay vốn, theo Điều 12, Luật Việc làm: Ưu tiên cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, HTX, tổ hợp tác, hộ kinh doanh; người lao động sử dụng nhiều lao động là NKT và NKT vay vốn từ Quỹ quốc gia về việc làm với lãi suất thấp hơn.
Nghị định số 61/2015/NĐ-CP và Nghị định số 74/2019/NĐ-CP: lãi suất đối với cơ sở SXKD sử dụng từ 30% tổng số lao động trở lên là NKT và NKT bằng 50% lãi suất vay từ Quỹ quốc gia về việc làm và nguồn huy động của NHCSXH.
Từ những quy định nêu trên, có thể thấy: Nhà nước đã có các chính sách khuyến khích, hỗ trợ cho NKT tham gia học nghề, vay vốn, tự tạo việc làm hoặc được tham gia tuyển dụng vào các cơ sở sản xuất kinh doanh, cơ quan hành chính, cơ sở sự nghiệp. Tuy nhiên, những chính sách này vẫn còn có một số điểm hạn chế sau:
Một là: Đối với việc đào tạo nghề trình độ sơ cấp, đào tạo nghề dưới 3 tháng, chính sách chỉ hỗ trợ tiền ăn cho những ngày thực học, không hỗ trợ cho ngày nghỉ, thứ bảy và chủ nhật; trong khi người khuyết tật do đi lại khó khăn nên phải ăn ở, học tập trung trong suốt thời gian diễn ra khóa học.
Hai là: Chính sách hỗ trợ học nghề mới chỉ có những quy định cho các khóa đào tạo nghề trình độ sơ cấp và dưới 3 tháng; chưa có các quy định cho các khóa đào tạo nghề ở trình độ cao (trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học); học viên khuyết tật tham gia các khóa này chỉ được miễn học phí khi thuộc hộ nghèo, cận nghèo theo quy định trong chính sách chung về giáo dục. Bên cạnh đó, các khóa đào tạo nghề cho người khuyết tật còn cần các trang thiết bị, đồ dùng đặc thù cho việc dạy học, đặc biệt là khâu thực hành.
Ba là: Chính sách hỗ trợ cho NKT tự tạo việc làm, hộ gia đình tự tạo việc làm còn mang tính chung chung, đặc biệt, việc hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm cho NKT không có quy định và hướng dẫn cụ thể.
Bốn là: Các chính sách khuyến khích doanh nghiệp nhận NKT vào làm việc chưa đủ khuyến khích các doanh nghiệp. Đặc biệt, điều kiện để được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp là phải có tỉ lệ lao động NKT từ 30% và có tổng số lao động trung bình ổn định trong năm là 20 người trở lên.
- Chính sách, pháp luật về y tế
Chính sách, pháp luật về y tế đối với NKT được quy định tại Luật Người khuyết tật 2010, Luật Khám bệnh, chữa bệnh 2009, Luật Bảo hiểm y tế 2008, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế 2014, Nghị định 146/2018/NĐ-CP của Chính phủ, Thông tư 30/2020/TT-BYT …. Theo đó, nhà nước bảo đảm để người khuyết tật được khám bệnh, chữa bệnh và sử dụng các dịch vụ y tế phù hợp; được tạo điều kiện, hỗ trợ phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng, cụ thể như sau:
Tại Điều 22 Luật NKT, Điều 12 Luật Bảo hiểm y tế: Người khuyết tật được hưởng chính sách bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế. Trong đó, cấp thẻ Bảo hiểm y tế cho NKT thuộc đối tượng bảo trợ xã hội với mức thanh toán 100% chi phí khám, chữa bệnh theo danh mục bảo hiểm y tế chi trả. Luật cũng quy định: Gia đình người khuyết tật có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi để người khuyết tật được khám bệnh, chữa bệnh và phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng.
Về trách nhiệm của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh:
Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh thực hiện biện pháp khám bệnh, chữa bệnh phù hợp cho người khuyết tật. Ưu tiên khám bệnh, chữa bệnh cho người khuyết tật đặc biệt nặng và người khuyết tật nặng, trẻ em khuyết tật, người cao tuổi khuyết tật, phụ nữ khuyết tật có thai theo quy định của pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh. Bên cạnh đó, tư vấn biện pháp phòng ngừa và phát hiện sớm khuyết tật; xác định khuyết tật bẩm sinh đối với trẻ em sơ sinh để kịp thời có biện pháp điều trị và chỉnh hình, phục hồi chức năng phù hợp.
Ngoài ra, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh còn có trách nhiệm thực hiện cải tạo, nâng cấp cơ sở vật chất phục vụ khám bệnh, chữa bệnh chưa bảo đảm điều kiện tiếp cận đối với người khuyết tật.
Về chương trình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng, nhà nước bảo đảm việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật đối với cơ sở chỉnh hình, phục hồi chức năng công lập. Cơ sở chỉnh hình, phục hồi chức năng có trách nhiệm tham gia hướng dẫn hoạt động chuyên môn phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng.
Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng; tạo điều kiện để cơ quan, tổ chức và cá nhân tổ chức hoặc tham gia thực hiện hoạt động phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng. Cơ sở sản xuất dụng cụ chỉnh hình, phương tiện, thiết bị phục hồi chức năng, trợ giúp sinh hoạt, học tập và lao động cho người khuyết tật được vay vốn với lãi suất ưu đãi, được miễn, giảm thuế theo quy định của pháp luật. Dụng cụ chỉnh hình, phương tiện, thiết bị phục hồi chức năng, trợ giúp sinh hoạt, học tập và lao động cho người khuyết tật từ chương trình, dự án viện trợ không hoàn lại hoặc do tổ chức, cá nhân nước ngoài tặng, hỗ trợ được miễn, giảm thuế theo quy định của pháp luật về thuế.
Luật NKT cũng đã quy định trách nhiệm của trạm y tế cấp xã, bao gồm:
(1) Triển khai các hình thức tuyên truyền, giáo dục, phổ biến kiến thức phổ thông về chăm sóc sức khỏe, phòng ngừa, giảm thiểu khuyết tật; hướng dẫn người khuyết tật phương pháp phòng bệnh, tự chăm sóc sức khỏe và phục hồi chức năng;
(2) Lập hồ sơ theo dõi, quản lý sức khỏe người khuyết tật;
(3) Khám bệnh, chữa bệnh phù hợp với phạm vi chuyên môn cho người khuyết tật.
Như vậy, Nhà nước đã có những chính sách hỗ trợ cho người khuyết tật trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng, trong đó, có chính sách bảo hiểm y tế cho NKT. Tuy nhiên, những chính sách này vẫn còn có một số hạn chế, đó là:
Một là: Đối tượng được cấp thẻ Bảo hiểm y tế với mức chi trả 100% chi phí khám chữa bệnh (trong phạm vi chi trả của Bảo hiểm y tế) là NKT được nhận trợ cấp bảo trợ xã hội tức là người khuyết tật nặng và đặc biệt nặng. Nếu NKT nhẹ không thuộc hộ nghèo, cận nghèo để được hưởng chính sách cho các đối tượng này, không có việc làm để tham gia bảo hiểm y tế bắt buộc thì sẽ không được hưởng chính sách nào về bảo hiểm y tế, trong khi NKT nhìn chung có sức khỏe yếu và thường phải tham gia khám, chữa bệnh rất nhiều.
Hai là: Theo Điều 23, Luật Bảo hiểm y tế: Các trường hợp không được hưởng bảo hiểm y tế bao gồm: Điều trị lác, cận thị và tật khúc xạ của mắt; Sử dụng vật tư y tế thay thế bao gồm chân tay giả, mắt giả, răng giả, kính mắt, máy trợ thính, phương tiện trợ giúp vận động trong khám bệnh, chữa bệnh và phục hồi chức năng.
Điều này đã hạn chế rất lớn việc cung cấp và sử dụng các dụng cụ chỉnh hình và PHCN cho người khuyết tật.
- Chính sách về giáo dục
Những chính sách hỗ trợ giáo dục cho NKT được quy định trong Luật Người khuyết tật, Luật Giáo dục năm 2019, Nghị định 86/2015/NĐ-CP, Thông tư liên tịch số 42/2013/TTLT-BGDĐT-BLĐTBXH-BTC, Thông tư 03/2018/TT-BGDĐT, khẳng định: Người khuyết tật được đảm bảo quyền học tập bình đẳng, chất lượng và phù hợp với đặc điểm, khả năng của mình; được phát triển khả năng của bản thân, được hòa nhập và tăng cơ hội đóng góp cho cộng đồng; thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau:
Về ưu tiên trong nhập học, tuyển sinh: Người khuyết tật được nhập học ở độ tuổi cao hơn so với quy định chung là 3 tuổi. Người khuyết tật được hưởng chế độ tuyển thẳng vào trung học cơ sở, trung học phổ thông. Người khuyết tật được xét tuyển thẳng vào trung cấp chuyên nghiệp theo Quy chế tuyển sinh trung cấp chuyên nghiệp do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Hiệu trưởng các trường trung cấp chuyên nghiệp hoặc các trường có đào tạo trung cấp chuyên nghiệp căn cứ kết quả học tập ở phổ thông của học sinh (học bạ), tình trạng sức khỏe và yêu cầu của ngành đào tạo để xem xét và quyết định tuyển thẳng vào học.
Đối với các trường đại học, cao đẳng: Người khuyết tật đặc biệt nặng được xét tuyển thẳng vào đại học, cao đẳng. Hiệu trưởng các trường căn cứ kết quả học tập ở phổ thông của học sinh (học bạ), tình trạng sức khỏe và yêu cầu của ngành đào tạo để xem xét và quyết định tuyển thẳng vào học.
Người khuyết tật nặng được hưởng chính sách ưu tiên theo đối tượng khi đăng kí xét tuyển vào các trường đại học, cao đẳng theo quy định tại Quy chế tuyển sinh đại học, cao đẳng hệ chính quy do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
Bên cạnh những chế độ ưu tiên về nhập học, tuyển sinh, NKT còn được miễn, giảm một số nội dung môn học, môn học hoặc hoạt động giáo dục trong chương trình giáo dục theo Điều 3 Thông tư liên tịch số 42/2013//TTLT-BGDĐT-BLĐTBXH-BTC bao gồm:
Đối với người khuyết tật học tập theo phương thức giáo dục hòa nhập học theo chương trình giáo dục chung. Trường hợp người khuyết tật không có khả năng đáp ứng các yêu cầu của chương trình giáo dục chung, người đứng đầu cơ sở giáo dục quyết định điều chỉnh, miễn, giảm, thay thế một số nội dung môn học hoặc một số môn học, hoạt động giáo dục cho phù hợp và được thể hiện trong Kế hoạch giáo dục cá nhân.
Đối với người khuyết tật học tập theo phương thức giáo dục chuyên biệt ở cơ sở giáo dục chuyên biệt hoặc lớp chuyên biệt trong các cơ sở giáo dục học theo chương trình giáo dục chuyên biệt đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định đối với từng dạng khuyết tật. Trường hợp người khuyết tật không có khả năng đáp ứng các yêu cầu của chương trình giáo dục chuyên biệt, người đứng đầu cơ sở giáo dục quyết định điều chỉnh, miễn, giảm, thay thế một số nội dung môn học, môn học hoặc hoạt động giáo dục cho phù hợp và được thể hiện trong Kế hoạch giáo dục cá nhân.
Về chính sách học phí và học bổng:
Người khuyết tật thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo đi học tại các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân được miễn học phí. Bên cạnh đó, được hưởng học bổng mỗi tháng bằng 80% mức lương cơ sở theo quy định của Chính phủ trong từng thời kỳ.
Người khuyết tật thuộc đối tượng được hưởng chính sách đang học tập tại cơ sở giáo dục đại học, trung cấp chuyên nghiệp được cấp học bổng 10 tháng/năm học; người khuyết tật thuộc đối tượng được hưởng chính sách đang học tập tại cơ sở giáo dục mầm non, cơ sở giáo dục phổ thông, trung tâm giáo dục thường xuyên, trường chuyên biệt, trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập được cấp học bổng 9 tháng/năm học.
Bên cạnh đó, người khuyết tật thuộc hộ nghèo hoặc hộ cận nghèo đang học tại các cơ sở giáo dục được hỗ trợ kinh phí để mua sắm phương tiện, đồ dùng học tập với mức 1.000.000 đồng/người/năm học.
Cũng theo Thông tư liên tịch số 42/2013, người khuyết tật thuộc đối tượng được hưởng chính sách hỗ trợ phương tiện, đồ dùng học tập mà cùng một lúc được hưởng nhiều chính sách hỗ trợ phương tiện, đồ dùng học tập khác nhau thì chỉ được hưởng một chế độ hỗ trợ cao nhất.
Các cơ sở giáo dục công lập có người khuyết tật đang theo học được Nhà nước hỗ trợ kinh phí để mua sách, tài liệu học tập, đồ dùng học tập đặc thù dùng chung, đảm bảo ở mức tối thiểu.
Có thể thấy, bên cạnh những ưu điểm, các chính sách hỗ trợ giáo dục của Nhà nước đối với NKT còn bộc lộ một số hạn chế sau:
Một là: NKT chỉ được nhập học khi có độ tuổi cao hơn quy định chung là 3 tuổi, trong khi do điều kiện gặp nhiều khó khăn của bản thân và gia đình, một số NKT xin nhập học khi đã quá độ tuổi chênh lệch đó. Như vậy, chính sách này đã ảnh hưởng đến việc tham gia học tập của NKT.
Hai là: Chính sách miễn, giảm học phí chỉ dành cho NKT thuộc hộ nghèo, cận nghèo trong khi chuẩn nghèo ở nước ta là khá thấp. Mặt khác, NKT đi học thường phải chi phí nhiều hơn so với người không khuyết tật như: mua sắm các phương tiện, đồ dùng học tập đặc thù, chi phí đi lại, chuyển đổi tài liệu sang định dạng dễ tiếp cận… nên NKT còn gặp nhiều khó khăn trong học tập.
Ba là: Mặc dù theo quy định thì NKT được hỗ trợ trang thiết bị, đồ dùng học tập dành riêng trong trường hợp cần thiết. Tuy nhiên, chỉ mới có chính sách hỗ trợ kinh phí mua đồ dùng học tập mỗi năm 1 triệu đồng/học sinh khuyết tật, trong khi những thiết bị, đồ dùng, sách giáo khoa chữ nổi thường có giá rất cao. Mặt khác, chưa có cơ chế cụ thể, bố trí nguồn lực cũng như phân công cho cơ quan nào chịu trách nhiệm đảm bảo sản xuất, cung ứng các thiết bị, tài liệu, sách giáo khoa với định dạng dễ tiếp cận cho NKT.
- Chính sách, pháp luật về phổ biến, giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lí
Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật 2012, tại Điều 18 có nêu: Việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho người khuyết tật tập trung vào các quy định pháp luật về quyền của người khuyết tật; chế độ, chính sách của Nhà nước, trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong việc tạo điều kiện, hỗ trợ người khuyết tật và các quy định khác của pháp luật liên quan đến người khuyết tật.
Phổ biến, giáo dục pháp luật cho người khuyết tật được chú trọng thực hiện bằng hình thức, phương thức, phương tiện, tài liệu phù hợp với từng loại đối tượng người khuyết tật. Nhà nước có chính sách đào tạo, bồi dưỡng, hỗ trợ người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho người khuyết tật; khuyến khích các tổ chức, cá nhân hỗ trợ kinh phí thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật cho người khuyết tật. Cơ quan lao động - thương binh và xã hội giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp chủ trì, phối hợp với tổ chức người khuyết tật các cấp, các cơ quan, tổ chức khác thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật cho người khuyết tật.
Về trợ giúp pháp lí, theo Luật Trợ giúp pháp lí 2017, Nghị định số 144/2017/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Trợ giúp pháp lí, Thông tư số 08/2017/TT-BTP của Bộ Tư pháp, người khuyết tật có khó khăn về tài chính là người được cơ quan có thẩm quyền cấp một trong các loại giấy tờ sau: Giấy chứng nhận hộ nghèo, hộ cận nghèo; quyết định được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng của người khuyết tật; quyết định tiếp nhận đối tượng vào chăm sóc, nuôi dưỡng tại nhà xã hội, cơ sở bảo trợ xã hội.
Như vậy, nhà nước đã có những chính sách nhằm hỗ trợ phổ biến, giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lí cho NKT. Tuy nhiên, những chính sách này vẫn còn một số hạn chế sau:
Thứ nhất, đối tượng được trợ giúp pháp lí là những NKT được nhận chế độ bảo trợ xã hội hàng tháng, tức là NKT nặng và đặc biệt nặng; hoặc NKT thuộc diện hộ nghèo và cận nghèo; trong khi mức chuẩn nghèo, cận nghèo ở nước ta còn thấp (hiện nay, mức chuẩn nghèo là thu nhập từ 700.000 Đ/người/tháng ở nông thôn và 900.000 Đ/người/tháng ở thành thị; chuẩn cận nghèo là 1.000.000 Đ/người/tháng ở nông thôn và 1.300.000 Đ/người/tháng ở thành thị; từ năm 2022, chuẩn nghèo là 1.500.00 Đ/người/tháng và chuẩn cận nghèo là 2.000.000 Đ/người/tháng ở cả hai khu vực) nên nhiều NKT nhẹ mặc dù không thuộc diện hộ nghèo và cận nghèo nhưng cũng vẫn rất khó khăn về kinh tế.
Thứ hai, theo quy định tại Điều 27, Luật Trợ giúp pháp lí thì không thực hiện trợ giúp pháp lí cho các lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Điều này cũng là những khó khăn đối với NKT khi gặp vướng mắc về những vấn đề liên quan trong lĩnh vực này.
2. Kết quả khảo sát về nhận thức, thực trạng thực hiện chính sách, pháp luật về lao động, việc làm, y tế, giáo dục đối với người khuyết tật
- Kết quả khảo sát về nhận thức
- Đối với đối tượng là NKT
Trong 160 người tham gia trả lời Bảng hỏi khảo sát, kết quả cụ thể về mức độ nhận thức đối với chính sách, pháp luật về lao động, việc làm; y tế và giáo dục như sau:
Về lĩnh vực lao động, việc làm: Có 42 người được khảo sát (chiếm 26.25%) trả lời chính xác các câu hỏi, nắm rõ những quy định liên quan đến chính sách, pháp luật về lao động, việc làm đối với NKT; 91 người được khảo sát (chiếm 56.87%) chỉ nắm được những chính sách chung, 27 người được khảo sát (chiếm 16.88%) không biết đến cả các chính sách chung và những chính sách cụ thể.
Về lĩnh vực y tế: Có 55 người được khảo sát (chiếm 34.37%) có hiểu biết đầy đủ, chính xác về các chính sách hỗ trợ y tế cho NKT, 81 người được khảo sát (chiếm 50.62%) hiểu biết chưa đầy đủ, hoặc chưa chính xác những chính sách này. Có 24 người (chiếm 15.01%) hầu như chưa hiểu biết gì về các chính sách hỗ trợ y tế cho NKT.
Về lĩnh vực giáo dục: Có 39 người được khảo sát (chiếm 24.37%) hiểu biết đầy đủ, chính xác các quy định; 100 người được khảo sát (chiếm 62.50%) có hiểu biết không đầy đủ, hoặc không chính xác. Chẳng hạn, một số người cho rằng: khi thiếu các phương tiện hỗ trợ, thiếu giáo viên có trình độ, phương pháp dạy cho NKT thì cơ sở giáo dục có quyền từ chối NKT hay nhiều người lại có suy nghĩ là: tất cả NKT và con của NKT đi học đều được miễn, giảm học phí… Có 21 người được khảo sát (chiếm 13.13%) chưa biết đến những chính sách này.
Mức độ nhận thức của NKT về chính sách, pháp luật trong các lĩnh vực lao động, việc làm; y tế và giáo dục được thể hiện qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 5: Mức độ nhận thức của NKT đối với chính sách, pháp luật về lao động, việc làm; y tế và giáo dục
(Nguồn: Số liệu của nhóm khảo sát, 2020)
Như vậy, nhận thức của NKT về chính sách, pháp luật trong các lĩnh vực nêu trên nhìn chung đều rất thấp. Số NKT có nhận thức đầy đủ, chính xác về chính sách, pháp luật cao nhất là về lĩnh vực y tế cũng chỉ chiếm 34,37%, tiếp đến là lao động, việc làm với 26,25% và về lĩnh vực giáo dục là 24,37%.
Về tỉ lệ NKT theo dạng tật chưa có hiểu biết hoặc hiểu biết chưa đầy đủ, chính xác về chính sách, pháp luật trong các lĩnh vực nêu trên được thể hiện qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 6: Tỉ lệ NKT theo dạng tật chưa có hiểu biết hoặc có hiểu biết chưa đầy đủ, chính xác về chính sách, pháp luật về các lĩnh vực giáo dục, việc làm và y tế
(Nguồn: Số liệu của nhóm khảo sát, 2020)
Số liệu khảo sát cho thấy không có sự chênh lệch lớn về mức độ nhận thức, hiểu biết về chính sách, pháp luật trong các lĩnh vực này giữa NKT nam và nữ; NKT trong các quận và các huyện; NKT thuộc các mức độ khuyết tật khác nhau: đặc biệt nặng, nặng, nhẹ và chưa xác định. Về độ tuổi, không có sự khác biệt lớn về mức độ nhận thức, hiểu biết giữa NKT thuộc các nhóm tuổi từ 41 – 60 và trên 60 tuổi. Tuy nhiên, với nhóm dưới 20 tuổi, mức độ hiểu biết là rất thấp, tỉ lệ chưa có hiểu biết hoặc hiểu biết chưa đầy đủ luôn ở mức từ 83,33% đến 100%. NKT thuộc độ tuổi từ 21 - 40 có mức độ hiểu biết cao nhất, trong khoảng 38 – 41%.
Đối với những người chưa có hiểu biết hoặc hiểu biết chưa đầy đủ, chính xác về các chính sách hỗ trợ NKT trong các lĩnh vực lao động, việc làm, y tế, giáo dục các nguyên nhân chủ yếu là: chưa được tham gia tập huấn (chiếm 51.87%); được tập huấn nhưng thời gian quá ngắn, chỉ nêu ra những chính sách chung, chưa có thời gian để phân tích các tình huống cụ thể, hoặc dành thời gian để đặt câu hỏi và giải đáp thắc mắc (24.37%). Lí do khác được đề cập tới là: thiếu các tài liệu dễ tiếp cận (bằng chữ Braille, audio, văn bản điện tử cho người khiếm thị, ngôn ngữ kí hiệu cho người khiếm thính) chiếm 25.76%.
- Đối với đối tượng là người sử dụng lao động, cán bộ y tế, giáo dục, gia đình NKT, một số cá nhân trong cộng đồng (người KKT):
Về lĩnh vực lao động, việc làm: Có 11 người được khảo sát (chiếm 27.50%) trả lời chính xác các câu hỏi, nắm rõ những quy định liên quan đến chính sách, pháp luật về lao động, việc làm đối với NKT, 23 người được khảo sát (chiếm 57.50%) chỉ nắm được những chính sách chung, 6 người được khảo sát (chiếm 15%) không biết đến các chính sách này.
Về lĩnh vực y tế: Có 9 người được khảo sát (chiếm 22.50%) có hiểu biết đầy đủ, chính xác về các chính sách hỗ trợ y tế cho NKT; 26 người được khảo sát (chiếm 65%) có hiểu biết nhưng chưa đầy đủ, chưa chính xác; có 5 người (chiếm 12.50%) chưa có hiểu biết về những chính sách này.
Về lĩnh vực giáo dục: Có 12 người được khảo sát (chiếm 30%) hiểu biết đầy đủ, chính xác các quy định; 21 người được khảo sát (chiếm 52.50%) có hiểu biết chưa đầy đủ, chính xác; 7 người được khảo sát (chiếm 17.50%) chưa hiểu biết gì về những chính sách này.
Mức độ hiểu biết của các nhóm đối tượng này đối với chính sách, pháp luật dành cho NKT được thể hiện qua biểu đồ dưới đây:
Biểu đồ 7: Mức độ nhận thức của người không KT đối với các chính sách, pháp luật
(Nguồn: Số liệu của nhóm khảo sát, 2020)
Theo những người được khảo sát, cũng giống như đối tượng là NKT, lí do họ không hiểu biết về chính sách đối với NKT trong các lĩnh vực nêu trên là do chưa từng được tập huấn (khoảng 40%); hoặc chỉ tập huấn trong thời gian ngắn với những thông tin chung do giảng viên thuyết trình, ít có thời gian để phân tích tình huống cụ thể cũng như trả lời các thắc mắc của học viên (khoảng 38%). Bên cạnh đó, một số người đã tham gia tập huấn từ lâu, trong khi một số chính sách mới được ban hành hoặc bổ sung, sửa đổi (khoảng 22%).
- Kết quả khảo sát về thực trạng thực hiện chính sách, pháp luật đối với NKT
- Về lĩnh vực lao động việc làm
Tỉ lệ NKT có việc làm nhìn chung còn thấp (57/160 người được phỏng vấn, chiếm 35.63%), hầu hết họ làm nghề thủ công, xoa bóp bấm huyệt (đối với người khiếm thị), may thêu (đối với người khiếm thính); buôn bán nhỏ (đối với người khuyết tật vận động nhẹ). Một số người tham gia làm việc ở các tổ chức của NKT.
Biểu đồ 8: Tỉ lệ NKT có việc làm
(Nguồn: Số liệu của nhóm khảo sát, 2020)
Đối với những người không có việc làm, một số nguyên nhân được đưa ra là: trình độ học vấn thấp, không được tư vấn học nghề hoặc được tham gia các lớp đào tạo nghề phù hợp. Đặc biệt, có đến 25% người trả lời bị từ chối khi xin việc với lí do là: cơ sở hạ tầng và môi trường làm việc không đảm bảo điều kiện tiếp cận cho NKT… Bên cạnh đó, NKT bị kì thị, phân biệt đối xử, không được kí hợp đồng, không được bố trí việc làm phù hợp, trả lương thấp hoặc không có cơ hội tăng lương, thăng tiến… cũng là những lí do khiến một số NKT không muốn làm việc trong các doanh nghiệp.
Mặt khác, chính sách của nhà nước không khuyến khích được nhiều doanh nghiệp nhận NKT vào làm việc như: Chính sách miễn thuế thu nhập chỉ áp dụng với các doanh nghiệp có 30% lao động là NKT và có số lao động trung bình ổn định trong năm là 20 người trở lên. Trong khi các cơ sở sản xuất kinh doanh tạo việc làm cho NKT lại có quy mô nhỏ nên mặc dù tỉ lệ lao động NKT rất cao, 50 %, 70% hay thậm chí là 100% nhưng cũng không được hưởng các chính sách này.
- Về lĩnh vực y tế
Kết quả khảo sát bằng bảng hỏi và phỏng vấn sâu cho thấy: Hầu hết NKT trong diện đều được cấp thẻ Bảo hiểm y tế (91.6%). Tuy nhiên, một số trường hợp NKT chưa được xác định mức độ khuyết tật hoặc đã có Giấy xác nhận mức độ khuyết tật nhưng chưa được nhận thẻ Bảo hiểm y tế (8.4%).
Biểu đồ 9: Tỉ lệ NKT có thẻ BHYT
(Nguồn: Số liệu của nhóm khảo sát, 2020)
Dù đã được nhận thẻ BHYT, nhưng một số NKT và gia đình NKT vẫn cho biết họ gặp khó khăn khi đi khám, chữa bệnh. Một số nguyên nhân được đề cập đến là: Họ khó tiếp cận cơ sở hạ tầng (giường, ghế quá cao đối với người đi xe lăn, không có các biển báo bằng chữ nổi hoặc âm thanh cho người khiếm thị, không có phiên dịch ngôn ngữ kí hiệu cho người khiếm thính….). Bên cạnh đó, nhiều bệnh viện không có dịch vụ phục hồi chức năng; một số dụng cụ hỗ trợ phục hồi chức năng, đặc biệt là các nạng, nẹp cho NKT vận động không nằm trong danh mục chi trả của BHYT. Đặc biệt, một số người cho biết: họ sử dụng các dịch vụ hoặc thuốc trong danh mục BHYT chi trả nhưng do bệnh viện không có thuốc, dịch vụ đó nên họ phải mua, sử dụng của dịch vụ bên ngoài rất tốn kém…
- Về lĩnh vực giáo dục
Trong số NKT được khảo sát, 11 người có trình độ cao đẳng, đại học (6.87%); 25 người có trình độ THPT (15.63%), 37 người có trình độ THCS (23.13%), 87 người có trình độ xóa mù chữ và tiểu học (54.37%).
Kết quả khảo sát từ Bảng hỏi và phỏng vấn sâu cho thấy: Tỉ lệ NKT đến trường còn thấp và với những người được đi học thì số người bỏ học giữa chừng tương đối lớn, ít người tham gia học tập hết phổ thông hay lên cao đẳng, đại học. Nguyên nhân chủ yếu là: trường lớp không đảm bảo tiếp cận, không có đường dốc hoặc cầu thang máy, cửa nhà vệ sinh nhỏ không đi được xe lăn; khó tiếp thu kiến thức do không có tài liệu tiếp cận và giáo viên chưa có phương pháp giảng dạy phù hợp. Bên cạnh đó, một nguyên nhân khác là: bản thân NKT và gia đình vẫn chưa tin tưởng vào khả năng học tập của con em mình…
Một số trường hợp NKT muốn nhập học nhưng đã quá tuổi theo quy định nên không được tham gia học tập tại ngôi trường mình mong muốn mà phải chuyển sang giáo dục thường xuyên, ảnh hưởng đến điều kiện học tập, sinh hoạt cũng như khả năng phát triển toàn diện.
Cùng với các nội dung nêu trên, khảo sát cũng cho thấy một điểm đặc biệt cần được quan tâm là có đến 85 NKT (chiếm 53.13%) đã từng gặp các vướng mắc khi nhập học, khám chữa bệnh, làm thủ tục xin việc hoặc bị ngược đãi trong quá trình làm việc.
Bảng 2: Số lượng mẫu khảo sát từng gặp khó khăn, vướng mắc khi làm các thủ tục hành chính
| STT |
Khó khăn, vướng mắc |
Số lượng mẫu |
Tỉ lệ
(%) |
| 1 |
Bị từ chối nhập học |
16 |
10 |
| 2 |
Bị từ chối khi xin việc |
40 |
25 |
| 3 |
Bị người sử dụng lao động ngược đãi, xâm phạm thân thể, xâm hại tình dục hoặc trả tiền công không đúng theo thỏa thuận |
14 |
8.75 |
| 4 |
Bị từ chối tiếp nhận khám, chữa bệnh |
15 |
9.38 |
| |
Tổng |
85 |
53.13 |
(Nguồn: Số liệu của nhóm khảo sát, 2020)
Trong số 85 người từng bị từ chối hoặc gặp vướng mắc nói trên có tới 62 người (chiếm 79.91%) chọn giải pháp im lặng, không lên tiếng vì họ không biết liên hệ với ai để nhận được sự hỗ trợ hoặc không tin rằng vấn đề sẽ được giải quyết.
- Nhu cầu tập huấn và trợ giúp pháp lí
- Nhu cầu tập huấn
Trong tổng số 200 người được khảo sát, bao gồm người khuyết tật và người không khuyết tật: có 179 người được khảo sát (chiếm 89.5%) có chung mong muốn được tham gia các buổi tập huấn về chính sách, pháp luật trong các lĩnh vực lao động, việc làm, y tế và giáo dục. Trong đó, nhu cầu tập huấn của NKT theo dạng tật được thể hiện ở biểu đồ sau:
Biểu đồ 10: Nhu cầu tập huấn của NKT theo dạng khuyết tật
(Nguồn: Số liệu của nhóm khảo sát, 2020)
Theo biểu đồ trên, NKT ở tất cả các dạng tật đều có nhu cầu được tập huấn rất cao. Trong đó, đối với NKT thần kinh, tâm thần và trí tuệ đều là 100%, NKT nhìn là96.3%, vận động là 89.6%, NKT nghe, nói có nhu cầu tập huấn thấp nhất (82,6%).
Về nhu cầu tập huấn của NKT theo nhóm tuổi được thể hiện ở biểu đồ sau:
Biểu đồ 11: Nhu cầu tập huấn của NKT theo nhóm tuổi
(Nguồn: Số liệu của nhóm khảo sát, 2020)
Như vậy, số NKT theo nhóm tuổi có nhu cầu tập huấn cũng đều rất cao; trong đó, nhóm dưới 20 tuổi có nhu cầu cao nhất với 100%, từ 41 - 60 tuổi là 94.5 %; từ 21 - 40 tuổi là 93.3%. Nhóm trên 60 tuổi có nhu cầu tập huấn thấp nhất với 86.1%.
Về lí do không có nhu cầu tập huấn: Một số người chia sẻ là đã nắm được cơ bản về quy định của chính sách, pháp luật hiện tại nhưng vẫn mong muốn được tập huấn khi có những chính sách mới. Tuy nhiên, một số NKT vẫn còn có sự ngần ngại khi tham gia các hoạt động tập thể, học tập, giao tiếp, chủ yếu ở dạng khuyết tật nghe, nói; hoặc một số NKT lớn tuổi (từ 61 tuổi trở lên).
Đối với người không khuyết tật, số người có nhu cầu được tập huấn là 35 người, chiếm 87.50 %. Số người không có nhu cầu tập huấn chủ yếu là những cá nhân trong cộng đồng, không có thành viên trong gia đình có NKT chứng tỏ mức độ quan tâm của cộng đồng đối với vấn đề này còn hạn chế.
Về hình thức tập huấn, 100% người có nhu cầu đều mong muốn tập huấn được tổ chứctheo các hình thức: giảng viên trình bày, thảo luận nhóm, hỏi - đáp, đối thoại trực tiếp … trong đó, chú trọng việc đưa ra các ví dụ, tình huống cụ thể và phương án giải quyết. Bên cạnh đó, những NKT nghe nói (khiếm thính) mong muốn có người phiên dịch ngôn ngữ ký hiệu, những NKT nhìn (khiếm thị) mong muốn được truyền tải, cập nhật những văn bản bằng chữ nổi, audio và văn bản điện tử.
- Nhu cầu hỗ trợ, tư vấn pháp lí
Qua khảo sát, nhiều NKT mong muốn được biết những địa chỉ tin cậy để họ có thể chia sẻ, bày tỏ những vướng mắc liên quan đến việc thực hiện quyền của mình. Một số NKT cũng chia sẻ nguyện vọng được tư vấn về một số vấn đề sau:
- Thủ tục xin cấp, cấp lại Giấy xác nhận mức độ khuyết tật, trong đó, có những trường hợp mong muốn thay đổi xếp loại mức độ khuyết tật (từ nhẹ lên nặng, từ nặng lên đặc biệt nặng).
- Những quy định về chính sách đối với NKT trong dạy nghề, lao động, việc làm, đặc biệt là chính sách hỗ trợ đối với NKT tự tạo việc làm, doanh nghiệp nhận NKT vào làm việc …
- Thủ tục để được cấp thẻ Bảo hiểm y tế hoặc chuyển đổi để hưởng mức BHYT thanh toán cao hơn; một số NKT đang là người lao động hưởng mức BHYT 80% mong muốn chuyển đổi sang tham gia theo nhóm đối tượng NKT để hưởng 100%.
- Thủ tục nhập học, thủ tục đăng kí tuyển sinh cao đẳng, đại học hoặc xin miễn giảm học phí.
Một số NKT, gia đình NKT còn mong muốn được tư vấn về các lĩnh vực khác như: làm giấy khai sinh, thừa kế tài sản, làm sổ đỏ …
3. Kết luận và khuyến nghị
Qua rà soát, đánh giá các văn bản chính sách, pháp luật đối với NKT trong các lĩnh vực lao động, việc làm; y tế và giáo dục cho thấy: Nhìn chung, Nhà nước Việt Nam đã có một hệ thống chính sách, pháp luật đối với người khuyết tật tương đối đầy đủ, toàn diện. Các chính sách, pháp luật đối với NKT hiện nay đã thay đổi từ cách tiếp cận "từ thiện" sang cách tiếp cận dựa trên quyền, coi người khuyết tật là một bộ phận của nguồn nhân lực xã hội, được tạo cơ hội để chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng, học tập, lao động nhằm khắc phục khó khăn, phát huy khả năng vươn lên hòa nhập cộng đồng. Tuy nhiên, các văn bản chính sách, pháp luật vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, cần được bổ sung, sửa đổi cho phù hợp nhằm đảm bảo thực hiện tốt hơn quyền của người khuyết tật.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy: NKT còn gặp nhiều khó khăn, rào cản trong việc đảm bảo thực hiện quyền và thụ hưởng các chính sách hỗ trợ mà Nhà nước đã ban hành. Số NKT được học tập, có việc làm nhìn chung còn thấp. Nhiều NKT còn bị từ chối hoặc gặp vướng mắc khi đi khám chữa bệnh, làm thủ tục xin nhập học, xin việc; bị ngược đãi trong quá trình làm việc... Điều đáng nói là khi bị từ chối hoặc gặp vướng mắc, có đến gần 80% NKT chọn giải pháp im lặng, không lên tiếng vì họ không biết liên hệ với ai để nhận được sự hỗ trợ hoặc không tin rằng vấn đề sẽ được giải quyết.
Để khắc phục tình trạng nói trên, cần tiến hành nhiều giải pháp đồng bộ và hiệu quả; trong đó, việc nâng cao nhận thức cho NKT, gia đình, các bên liên quan và sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật đối với NKT trong các lĩnh vực nêu trên là vô cùng quan trọng. Trong khuôn khổ của khảo sát, xin được đưa ra một số giải pháp, khuyến nghị về hai vấn đề này.
- Nâng cao nhận thức pháp luật về lao động, việc làm, y tế, giáo dục đối với NKT:
Thứ nhất, cần tăng cường nguồn lực để tổ chức phổ biến, tập huấn chính sách, pháp luật cho người khuyết tật, (chú trọng về quyền và các chính sách đối với người khuyết tật) phù hợp với từng dạng khuyết tật, đặc biệt là người khuyết tật thuộc hộ nghèo, cận nghèo, ở vùng sâu vùng xa. Trong đó, cần quan tâm phương thức phổ biến pháp luật phù hợp với các dạng khuyết tật, nhất là những dạng khuyết tật khó tiếp cận với các tài liệu định dạng thông thường như: người khiếm thính, khiếm thị. Các lớp tập huấn cần kết hợp giữa phương pháp giảng viên thuyết trình với việc thảo luận, phân tích, giải quyết các tình huống cụ thể cũng như dành thời gian giải đáp những câu hỏi, vướng mắc của học viên. Để làm tốt điều này, cần
đẩy mạnh các hoạt động cung cấp kiến thức, kĩ năng cho các giảng viên, cán bộ làm công tác liên quan đến người khuyết tật như: kiến thức về tính chất, đặc điểm của dạng tật; kỹ năng tiếp xúc, tư vấn, truyền đạt cho NKT với các dạng khuyết tật khác nhau.
Thứ hai, đẩy mạnh việc tiếp cận, ứng dụng công nghệ thông tin, trong đó, vừa giúp NKT có kiến thức, kỹ năng CNTT và phương tiện, trang thiết bị (máy tính, smartphone, radio, máy nghe MP3…) để người khuyết tật có điều kiện chủ động tìm hiểu thông tin kiến thức về chính sách, pháp luật. Cùng với đó, cần từng bước đảm bảo điều kiện tiếp cận cho NKT trên các phương tiện thông tin đại chúng như: có phiên dịch ngôn ngữ kí hiệu cho người khiếm thính và đảm bảo diễn đạt bằng lời nói những nội dung cơ bản để người khiếm thị tiếp cận được trên các chương trình truyền hình; các trang website tuân thủ chuẩn tiếp cận để người khiếm thị có thể sử dụng phần mềm hỗ trợ tiếng nói tiếp cận được nội dung thông tin.
Thứ ba, tăng cường công tác tuyên truyền và nâng cao nhận thức của gia đình người khuyết tật, người sử dụng lao động, cán bộ, nhân viên trong các ngành y tế, giáo dục, cộng đồng về quyền của người khuyết tật trong các lĩnh vực, chú trọng vấn đề quyền bình đẳng và các chính sách chống kỳ thị, phân biệt đối xử với người khuyết tật.
Thứ tư, cần nâng cao năng lực, vai trò của các hội, nhóm của và vì người khuyết tật trong việc nắm bắt nhu cầu tìm hiểu cũng như tổ chức các hoạt động tuyên truyền về chính sách, pháp luật đối với NKT. Đẩy mạnh sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, trong đó, có Trung tâm Trợ giúp pháp lí nhà nước với các tổ chức của và vì NKT trong việc triển khai các hoạt động phổ biến chính sách, pháp luật và trợ giúp pháp lí cho NKT.
- Bổ sung, sửa đổi chính sách, pháp luật về lao động, việc làm; y tế và giáo dục
- Về lĩnh vực lao động, việc làm
Thứ nhất, đối với việc đào tạo nghề trình độ sơ cấp, đào tạo nghề dưới 3 tháng, chính sách chỉ hỗ trợ tiền ăn cho những ngày thực học, không hỗ trợ cho ngày nghỉ, thứ bảy và chủ nhật; trong khi người khuyết tật do đi lại khó khăn nên phải ăn ở, học tập trung trong suốt thời gian diễn ra khóa học. Bởi vậy, cần điều chỉnh chính sách theo hướng hỗ trợ tiền ăn cho NKT trong suốt khóa học.
Thứ hai, chính sách hỗ trợ học nghề chưa có các quy định cho các khóa đào tạo nghề ở trình độ cao (trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học) mà học viên khuyết tật tham gia các khóa này chỉ được miễn học phí khi thuộc hộ nghèo, cận nghèo theo quy định trong chính sách chung về giáo dục. Cần có chính sách hỗ trợ đào tạo nghề cho NKT ở các trình độ: trung cấp, cao đẳng, đại học. Trong đó, ngoài sự hỗ trợ cho người học khuyết tật, cần có thêm sự hỗ trợ về cơ sở vật chất, trang thiết bị, giáo viên, đảm bảo điều kiện cho việc đào tạo nghề đạt chất lượng và hiệu quả.
Thứ ba, chính sách hỗ trợ cho NKT tự tạo việc làm, hộ gia đình tự tạo việc làm còn mang tính chung chung, đặc biệt, việc hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm cho NKT không có quy định và hướng dẫn cụ thể. Cần có những quy định và hướng dẫn cụ thể để hỗ trợ NKT tự tạo việc làm và tiêu thụ sản phẩm. Trong đó, có chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm cho NKT.
Thứ tư, cần sửa đổi chính sách khuyến khích doanh nghiệp nhận NKT vào làm việc, đặc biệt là chính sách miễn thuế thu nhập doanh nghiệp. Nên bổ sung các quy định rõ ràng về tỉ lệ giảm thuế thu nhập khi doanh nghiệp sử dụng dưới 30% lao động là NKT; đồng thời, bỏ quy định doanh nghiệp phải đáp ứng yêu cầu có số lao động ổn định trong năm là 20 người trở lên mới được miễn thuế.
- Về lĩnh vực y tế
Thứ nhất, theo quy định của Luật Bảo hiểm y tế và các văn bản hướng dẫn, đối tượng được cấp thẻ Bảo hiểm y tế với mức chi trả 100% chi phí khám chữa bệnh (trong phạm vi chi trả của BHYT) là NKT được nhận trợ cấp bảo trợ xã hội tức là người khuyết tật nặng và đặc biệt nặng. Nếu NKT nhẹ không thuộc hộ nghèo, cận nghèo để được hưởng chính sách cho các đối tượng này, không có việc làm để tham gia bảo hiểm y tế bắt buộc thì sẽ không được hưởng chính sách nào về bảo hiểm y tế, trong khi NKT nhìn chung có sức khỏe yếu và thường phải tham gia khám, chữa bệnh rất nhiều. Mức chuẩn nghèo, cận nghèo ở nước ta hiện còn khá thấp (hiện nay chuẩn nghèo là thu nhập từ 700.000 Đ/người/tháng trở xuống ở nông thôn và 900.000 Đ/người/tháng ở thành thị; cận nghèo là 1.000.000 Đ/người/tháng ở nông thôn và 1.300.000 Đ/người/tháng ở thành thị; từ năm 2022, chuẩn nghèo là 1.500.000 Đ/người/tháng và cận nghèo là 2.000.000 Đ/người/tháng ở cả hai khu vực), nên dù không thuộc đối tượng này thì nhiều NKT vẫn khó khăn về kinh tế. Bởi vậy, cần có chính sách hỗ trợ BHYT cho NKT nhẹ nhằm tạo điều kiện để họ được chăm sóc sức khỏe tốt hơn.
Thứ hai, phát triển các dịch vụ phục hồi chức năng ở các tuyến tỉnh, huyện và các dịch vụ phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng. Nhìn chung, điều kiện đi lại của NKT rất khó khăn, gia đình NKT thường có mức thu nhập thấp. Do đó, nếu NKT được chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng ngay tại địa phương mình sinh sống sẽ giảm bớt rất nhiều khó khăn cho bản thân NKT và gia đình.
Thứ ba, cần bổ sung dịch vụ phục hồi chức năng tâm lí cho NKT trí tuệ, thần kinh, tâm thần; các dụng cụ phục hồi chức năng như nạng, nẹp, gậy định hướng… vào danh mục vật tư y tế do BHYT chi trả.
- Về lĩnh vực giáo dục
Thứ nhất, NKT chỉ được nhập học khi có độ tuổi cao hơn quy định chung là 3 tuổi, trong khi do điều kiện gặp nhiều khó khăn của bản thân và gia đình, một số NKT xin nhập học khi đã quá độ tuổi chênh lệch đó. Như vậy, chính sách này đã ảnh hưởng đến việc tham gia học tập của NKT. Cần xem xét bỏ quy định giới hạn độ tuổi khi nhập học của NKT, giúp NKT có thêm cơ hội bảo đảm thực hiện quyền được học tập, hòa nhập cộng đồng.
Thứ hai, chính sách miễn, giảm học phí chỉ dành cho NKT thuộc hộ nghèo, cận nghèo trong khi chuẩn nghèo ở nước ta là khá thấp. Mặt khác, NKT đi học thường phải chi phí nhiều hơn so với người không khuyết tật như: mua sắm các phương tiện, đồ dùng học tập đặc thù, chi phí đi lại, chuyển đổi tài liệu sang định dạng dễ tiếp cận… nên NKT còn gặp nhiều khó khăn trong học tập. Cần có chính sách miễn, giảm học phí cho NKT không thuộc hộ nghèo và cận nghèo, nhất là NKT nặng và đặc biệt nặng.
Thứ ba, cần bố trí nguồn lực và biện pháp bảo đảm thực hiện việc sản xuất, chuyển đổi, cung cấp sách giáo khoa, tài liệu, đồ dùng học tập đặc thù cho NKT, đặc biệt là cho đối tượng học sinh, sinh viên khó tiếp cận các tài liệu học tập thông thường như người khiếm thính, khiếm thị. Mặt khác, nhà nước cũng cần bổ sung, sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ và gia nhập Hiệp ước Marrakesh về tạo điều kiện cho người khiếm thị và người khuyết tật không có khả năng đọc chữ in khác tiếp cận với các tác phẩm đã công bố nhằm tạo hành lang pháp lí cho việc chuyển đổi sách giáo khoa, tài liệu… sang định dạng dễ tiếp cận cho NKT như: chữ Braille, audio, văn bản điện tử, chữ phóng to, ngôn ngữ kí hiệu…
Thứ tư, cần xem xét thay đổi cơ chế tuyển thẳng vào trung học phổ thông, cao đẳng, đại học mà thay bằng việc tạo điều kiện hỗ trợ tiếp cận (chuyển đổi đề thi sang chữ Braille hoặc file điện tử, cho người khiếm thính sử dụng máy tính làm bài thi…) để NKT tham gia kì thi như các thí sinh khác (có thể ưu tiên cộng điểm nhất định nhưng không miễn thi). Điều này vừa bảo đảm cho NKT thực hiện quyền, vừa khuyến khích NKT nỗ lực vươn lên trong học tập.
- Về trợ giúp pháp lí
Thứ nhất, theo Luật Trợ giúp pháp lí 2017, Nghị định số 144/20147/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Trợ giúp pháp lí thì NKT thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo hoặc nhận trợ cấp xã hội hàng tháng được trợ giúp pháp lí miễn phí. Cần xem xét miễn/ giảm phí trợ giúp, tư vấn pháp lí cho NKT không thuộc đối tượng này vì như trên đã nói, mức chuẩn nghèo, cận nghèo của nước ta khá thấp nên nhiều NKT không thuộc các đối tượng này vẫn gặp khó khăn về tài chính.
Thứ hai, tại Luật Trợ giúp pháp lí 2017, Điều 27 quy định: Trợ giúp pháp lí được thực hiện trong các lĩnh vực pháp luật, trừ lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Trong khi đó, chính sách của nhà nước vẫn khuyến khích NKT tự tạo việc làm, hộ gia đình tạo việc làm cho NKT (bao gồm các hoạt động SXKD) hay các doanh nghiệp nhận NKT vào làm việc và nhiều NKT cũng như những đối tượng khó khăn khác vẫn có nhu cầu được tư vấn, trợ giúp pháp lí trong lĩnh vực này.
Cùng với các nội dung nêu trên, khi sửa đổi Luật Người khuyết tật, cần bổ sung, sửa đổi các khái niệm về phân biệt đối xử, giao tiếp, điều chỉnh hợp lí để các khái niệm này bao hàm các nội dung đầy đủ, toàn diện như trong Công ước của Liên hiệp quốc về quyền của người khuyết tật. Mặt khác, cần có các chế tài xử phạt đủ mạnh cho các hành vi vi phạm để các quy định được tuân thủ và thực thi hiệu quả; nâng cao trách nhiệm của mỗi cá nhân, tổ chức, cộng đồng trong việc bảo đảm quyền cho NKT.
Ngoài ra, Nhà nước cần quan tâm cải thiện điều kiện tiếp cận các phương tiện giao thông, công trình công cộng, cơ sở vật chất hạ tầng: trường học, bệnh viện… là những tiền đề quan trọng để NKT được bảo đảm thực hiện quyền, trong đó, có các quyền trong lĩnh vực lao động, việc làm, y tế và giáo dục, giúp họ vươn lên hòa nhập cộng đồng.