1. Cải cách hệ thống tư pháp của Nhật Bản năm 1999
Vào năm 1999, Thủ tướng chính phủ thuộc Đảng LPD lúc đó đã thành lập hội đồng cải cách tư pháp lâm thời nhằm tham mưu cho thủ tướng và nội các về các tầm nhìn và mục tiêu phù hợp cho sự phát triển của hệ thống tư pháp Nhật Bản trong bối cảnh cải cách kinh tế xã hội và chính trị tại Nhật Bản bắt đầu từ thập niên 1990. Hội đồng cải cách tư pháp lâm thời có nhiệm vụ: xem xét các chính sách cơ bản cần thiết cho việc cải cách tư pháp và sắp xếp cơ sở hạ tầng tư pháp thông qua việc xác định vai trò của các cơ quan quản lý và thực hiện nền tư pháp Nhật Bản trong thế kỷ 21. Chương trình nghị sự của Hội đồng có thể gồm cả việc hiện thực hóa ý tưởng xây dựng một hệ thống tư pháp dễ tiếp cận và dễ sử dụng, sự tham gia của công chúng trong hệ thống tư pháp, xác định lại vai trò của nghề luật và tăng cường chức năng của nghề này.
Hội đồng đã hoàn thành báo cáo cuối cùng của mình vào ngày 12/6/2001. Khuyến nghị xây dựng hệ thống tư pháp đáp ứng mong đợi của công chúng:
- Về cải cách hệ thống tư pháp dân sự bao gồm tăng cường và đẩy nhanh tốc độ thực hiện tư pháp dân sự; tăng cường khả năng giải quyết các vụ việc đòi hỏi phải có kiến thức chuyên sâu; tăng cường việc giải quyết toàn diện các vụ việc về lao động; hoàn thiện chức năng của tòa giá đình và tóa giản lược (đối với những vụ khiếu kiện nhỏ); tăng cường hệ thống thi hành án danan sự; mở rộng khả năng tiếp cận tòa án (chẳng hạn như phí thụ lý hồ sơ, trợ giúp pháp lý dân sự, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp xúc với tòa án, các biện pháp bảo vệ hiệu quả cho người bị thiệt hại); củng cố và tăng cường cơ chế giải quyết tranh chấp ngoài tòa án (ADR); tăng cường chức năng kiểm tra của hệ thống tư pháp đối với cơ quan hành pháp.
- Về cải cách hệ thống tư pháp hình sự bao gồm hoàn thiện và đẩy nhanh tiến độ xét xử án hình sự; thiết lập hệ thống bảo chữa công cho người bị tình nghi và bị cáo; thiết lập hệ thống bảo chú công cho người bị tình nghi và bị cáo; vai trò của công tôi sẽ như thế nào; điều tra và thủ tục xét xử trong thời kỳ mới; cải tạo người phạm tội được còn việc người bị hại.
- Về đáp ứng yêu cầu quốc tế hóa dân sự quốc tế: quốc tế hóa tư pháp dân sự và tư pháp hình sự; khuyến khích phát triển trợ giúp kỹ thuật pháp lý và quốc tế hóa hoạt động của luật sư.
Báo cáo cũng đưa ra khuyến nghị về việc Nhật Bản đang muốn thực hiện các biện pháp bảo đảm công khai hóa các thông tin hành chính và trách nhiệm giải trình trước nhân dân, hoàn thiện các chức năng để đánh giá chính sách, xây dựng một nền hành chính minh bạch. Những cải cách nêu trên được coi là suất phát điểm cơ bản cho việc những người dân từ vị trí là những đối tượng bị điều chỉnh sang người điều chỉnh. Đây là một quá trình chuyển hóa mà người dân sẽ dần dần từ bỏ quan điểm cho rằng chính quyền là kẻ trị vì, thay vào đó người dân sẽ tự gánh vác thì trách nhiệm quản lý chính mình, còn chính quyền thì sẽ dần dần trở thành công cụ đắc yêu cầu của nhân dân. Cùng với sự chuyển biến về cấu trúc xã hội như vậy các vùng tự xã hội trong bụng quốc tế cũng đang thay đổi từng ngày đang trở nên phức tạp hơn, tinh vi hơn, da trắng hơn và có tiền và nhiều hơn. Trong một xã hội như vậy các hoạt động tự do, sáng tạo của nhân dân sẽ có cơ hội phát triển, các cá nhân và công ty sẽ xây dựng quan hệ cuộc sống kinh tế xã hội một cách độc lập và tích cực.
Trong thế kỷ 21 mối liên hệ trong nước và quốc tế sẽ trở nên chặt chẽ hơn trong tất cả các lĩnh vực xã hội. Toàn cầu hóa đã và đang tiếp tục tìm những bước dài, công nghệ thông tin phát triển được một chiều cao biên giới sơn dầu giữ biên giới ngày càng hạ thấp xuống. Trong bối cảnh như vậy những việc làm cần thiết để Nhật Bản có thể chiếm được một “vị trí vinh hạnh trong cộng đồng quốc tế” trong khi vẫn duy trì được khả năng điều chỉnh hiệu quả sẽ làm thích thức lớn.
Về vai trò, kỳ vọng của hệ thống tư pháp Nhật Bản trong thế kỷ 21, nhánh quyền lực tư pháp, dựa trên khái niệm pháp quyền với việc đặt các bên liên quan vào một vị trí bình đẳng mà theo đó bên thứ ba khách quan ra quyết định trên cơ sở các quy định và các nguyên tắc pháp luật công bằng thông qua các thủ tục đúng và rõ ràng theo luật định, cùng với các nhánh quyền lực chính trị khác, là trụ cột để xây dựng một không gian tốt cho cộng đồng.
Nền tư pháp được mong đợi trong công việc điều chỉnh các hành vi bất hợp pháp và cung cấp giải pháp cho việc bảo vệ các quyền của bên bị thiệt hại trong các vụ tranh chấp bởi việc giải thích và áp dụng đúng đắn pháp luật; trong việc đóng vai trò xử lý thích đáng các hành vi vi phạm bằng cách thực thi quyền chế tài và trừng phạt một cách thích đáng và nhanh chóng, thông qua các thủ tục luật định, qua đó góp phần duy trì và phát triển pháp luật. Trong tinh thần đó, chức năng tư pháp có bao hàm những khía cạnh của việc hiện thực hóa các giá trị công. Tòa án sẽ được đặt vào vị trí trụ cột hỗ trợ cho “không gian tốt cho cộng đồng”. Tòa án cùng với Quốc hội và Nội các (các nhánh chính trị khác) sẽ xây dựng trật tự với các chính sách được hoạch định trên cơ sở áp dụng thống nhất cũng như sẽ thiết lập và thi hành các quy chuẩn cho tương lai.
2. Chức năng, nhiệm vụ và tổ chức Bộ Tư pháp Nhật Bản
2.1. Lịch sử hình thành và phát triển[1]
Trước khi Thế chiến II, Bộ Tư pháp (Homusho) thường được gọi là "Shihosho" trong tiếng Nhật và có thẩm quyền tương đối rộng trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp bao gồm cả hành chính tư pháp, giám sát các công việc của tòa án. Tuy nhiên, thi hành Hiến pháp mới và Luật Tổ chức Tòa án, các tòa án được tách ra khỏi Bộ Tư pháp cũ vào ngày 3/5/1947 và thẩm quyền liên quan đến việc quản lý của các tòa án đã được chuyển giao cho Tòa án Tối cao. Sau đó, vào ngày 15/2/1948, Luật thành lập Văn phòng Tổng Chưởng lý có hiệu lực, theo đó Bộ Tư pháp đã bị bãi bỏ và thay thế bằng Văn phòng Tổng Chưởng lý. Văn phòng này được thành lập như là cố vấn pháp lý tối cao cho Chính phủ để giải quyết tất cả các vấn đề pháp lý - thêm vào chức năng, nhiệm vụ của Bộ Tư pháp cũ, bao gồm cả việc thảo luận các dự thảo luật và Điều ước quốc tế; nghiên cứu về hệ thống tư pháp và pháp luật trong và ngoài nước - chức năng này từng được xử lý bởi Văn phòng lập pháp nội các. Ngoài ra, các công việc liên quan đến vụ kiện dân sự và hành chính, trong đó Nhà nước là một bên và bảo vệ nhân quyền đã thuộc thẩm quyền của Văn phòng Tổng Chưởng lý.
Sau đó, theo sự tổ chức lại các cơ quan hành chính nhà nước vào 6/1/1949, Văn phòng Tổng Chưởng lý (Homucho) đã được đổi tên thành "Homufu" và các cơ cấu tổ chức được thu nhỏ lại từ 5 Trợ lý Tổng Chưởng lý với 16 Cục xuống còn 3 Trợ lý Tổng Chưởng lý với 11 Cục.
Vào ngày 01/8/1952, khi các cơ quan chính phủ đã được tái tổ chức một lần nữa, Văn phòng Tổng Chưởng lý được đổi tên thành Bộ Tư pháp, kèm theo tổ chức lại toàn diện. Điều này có nghĩa rằng Bộ trưởng Bộ Tư pháp, giống như trong các bộ khác, là người đứng đầu Bộ, dưới Bộ trưởng là Thứ trưởng; xoá bỏ hệ thống Tổng Chưởng lý và Trợ lý Tổng Chưởng lý. Đồng thời, ba Cục Ý kiến và Lập pháp thứ nhất, thứ hai và thứ ba phụ trách công tác lập pháp được chuyển về Nội các và Bộ Tư pháp đã cơ cấu lại thành 7 Cục, đó là: (i) Dân sự, (ii) Hình sự, (iii) Quản giáo, (iv) Tái hòa nhập cộng đồng, (v) Tranh tụng, (vi) Quyền con người và Di trú (vii) Ban thư ký của Bộ trưởng.
Gần đây, khi Kế hoạch cải tổ các cơ quan trung ương của chính phủ có hiệu lực vào 6/1/2001 thì đã xóa bỏ Cục Tranh Tụng và sáu phòng của các cục khác, một số hội đồng đã được cơ cấu lại hoặc sáp nhập. Cục Tranh Tụng được thiết lập lại vào 10/4/2015, trong khi đó Cơ quan dịch vụ di trú được bổ sung thêm vào cơ cấu của Bộ Tư pháp từ ngày 1/4/2019. Do vậy, hiện nay, Bộ Tư pháp sẽ gồm các đơn vị thuộc Bộ (Ban Thư ký Bộ trưởng và 06 Cục), các tổ chức trực thuộc, các cơ quan đặc biệt và một số cơ quan khác
[2].
2.2. Cơ cấu tổ chức
2.2.1. Các đơn vị thuộc Bộ
a. Ban Thư ký Bộ trưởng
Ban Thư ký của Bộ trưởng chủ yếu thực hiện việc quản lý nội bộ của Bộ, có chức năng như một điều phối viên chung của các công việc của các phòng ban và các đơn vị của Bộ, đóng góp cho sự vận hành suôn sẻ của quản lý hành chính. Ban Thư ký Bộ trưởng bao gồm các Phòng: Phòng Thư ký, Phòng Cán bộ, Phòng Tài chính, Phòng Các vấn đề quốc tế, Phòng Tài sản, Giám đốc Phòng phúc lợi và Vụ Hệ thống Tư pháp.
b. Cục Dân sự
Cục Dân sự chịu trách nhiệm giải quyết các vấn đề liên quan đến hệ thống đăng ký công ty và bất động sản, đăng ký hộ tịch, quốc tịch, công chứng, ký quỹ, điều tra nhà cửa và đất đai, xây dựng kế hoạch và soạn thảo pháp luật về dân sự như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Thương mại và Bộ luật Tố tụng dân sự.
c. Cục Hình sự
Cục Hình sự chịu trách nhiệm về xây dựng kế hoạch và soạn thảo pháp luật hình sự như Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, các vấn đề liên quan đến truy tố, các vấn đề về dẫn độ tội phạm, tù nhân trốn trại và tương trợ tư pháp quốc tế về hình sự.
d. Cục Quản giáo
Cục Quản giáo chịu trách nhiệm về các vấn đề liên quan đến việc đối xử với tù nhân như vấn đề an ninh, các việc liên quan đến trại giam, giáo dục, phân loại, điều trị y tế, vấn đề vệ sinh trong các cơ cở cải huấn (trại giam, trại giam người chưa thành niên, trại tạm giữ, trường đào tạo người chưa thành niên, cơ sở phân loại người chưa thành niên, nhà tạm lánh cho phụ nữ); soạn thảo các văn bản pháp luật về quản giáo; tổ chức và quản lý các cơ sở cải huấn, chuyển giao người bị kết án phạt tù.
e. Cục Tái hòa nhập cộng đồng
Cục này chịu trách nhiệm quản lý các vấn đề liên quan đến hệ thống tái hòa nhập cho người phạm tội tại cộng đồng bao gồm việc tha tù nhân của các cơ sở cải huấn, quản chế đối với người chưa thành niên, những người được ra khỏi các trường đào tạo, người chưa thành niên hoặc người bị quản chế do đình chỉ thi hành hình phạt tù, các hoạt động phòng chống tội phạm, các biện pháp đối với các nạn nhân tội phạm, các vấn đề liên quan đến điều trị dựa vào cộng đồng theo Đạo luật về chăm sóc và điều trị y tế cho những người đã gây ra những tai nạn nghiêm trọng trong tình trạng mất hoặc giảm sút trí nhớ.
f. Cục Quyền con người
Cục Quyền con người là một cơ quan hành chính quốc gia có trách nhiệm bảo vệ quyền con người, điều tra và đưa ra các biện pháp xử lý cho các vụ án vi phạm quyền con người, cung cấp dịch vụ tham vấn quyền con người, thực hiện các hoạt động nhằm nâng cao nhận thức về quyền con người. Tại mỗi tỉnh thành phố của Nhật Bản, bao gồm cả Tokyo, Bộ trưởng Tư pháp sẽ chỉ định một số công dân thực hiện nhiệm vụ tình nguyện viên về quyền con người.
g. Cục Tranh Tụng
Cục Tranh Tụng sẽ giải quyết các vụ kiện về hành chính và dân sự, trong đó Nhà nước là một bên trong vụ kiện. Cục đồng thời cũng chịu trách nhiệm cung cấp các ý kiến pháp lý theo yêu cầu của các bộ, ngành liên quan đến vụ việc có thể dẫn đến tranh chấp pháp lý (Hệ thống hỗ trợ pháp lý can thiệp); giải quyết các vụ kiện liên quan đến tổ chức công địa phương, các tổ chức hành chính độc lập và các tổ chức công khác được giao trong Chỉ thị của Nội các.
2.2.2. Các cơ quan đặc biệt (Văn phòng Công tố)
Văn phòng Công tố thực hiện kiểm soát tất cả công việc do các công tố viên thực hiện. Văn phòng Công tố viên gồm Văn phòng Công tố Tối cao (đặt tại Tokyo), Văn phòng Công tố viên Cấp cao (đặt tại Tokyo, Osaka, Nagoya, Hiroshima, Fukuoka, Sendai, Sapporo và Takamatsu), Văn phòng Công tố viên cấp quận (46 quận, mỗi quận có 1 văn phòng, riêng Hokkaido do có địa giới hành chính rộng nên có 4 văn phòng) và Văn phòng Công tố viên địa phương (mỗi thành phố lớn, phường hoặc thị trấn có 01 Văn phòng). Các Văn phòng công tố cấp cao và Văn phòng công tố cấp huyện đều có các chi nhánh để giải quyết các phần việc của từng văn phòng. Mỗi Văn phòng Công tố viên gồm Tổng công tố, Phó Tổng công tố, Công tố viên cấp cao, Công tố viên và Trợ lý Công tố viên) và các nhân viên văn phòng.
2.2.3. Các tổ chức trực thuộc Bộ Tư pháp Nhật Bản
a. Cơ sở quản chế (nhà tù, trại tạm giam, nhà tù dành cho người chưa thành niên)
Chức năng của các cơ sở quản chế là hướng tới việc đối xử với người bị kết án với mục đích giúp họ phục hồi và tái hòa nhập cộng đồng một cách thuận lợi. Theo đó, dựa trên các kết quả kiểm tra tâm lý về tính cách cũng như điều chỉnh xã hội, họ sẽ được lựa chọn để đưa vào cơ sở quản chế phù hợp. Các cơ sở quản chế sẽ xây dựng các kế hoạch được cho là phù hợp nhất để áp dụng đối với từng người bị kết án, trong đó bao gồm đào tạo nghề, hướng dẫn kỹ năng sống, chương trình đào tạo khác…hoặc có thể áp dụng một số biện pháp mới do Bộ Tư pháp đưa ra.
Việc áp dụng các biện pháp quản giáo đối với nghi phạm đang chờ xét xử cũng sẽ góp phần bảo đảm cho việc xét xử thuận lợi hơn thông qua việc ngăn chặn hủy hoại chứng cứ, trong khi vẫn đảm bảo quyền con người cơ bản của nghị phạm.
b. Cơ sở phụ trách người chưa thành niên
Theo yêu cầu của Tòa án gia đình, cơ sở phụ trách người chưa thành niên (NCTN) giam giữ những NCTN để thực hiện các biện pháp bảo vệ, tiến hành đánh giá dựa trên chuyên môn về y học, tâm lý sư phạm. Các đánh giá này được sử dụng để cung cấp thông tin liên quan đến cuộc điều tra và phiên tòa xét xử NCTN tại tòa án gia đình. Việc đánh giá được thực hiện thông qua phỏng vấn, kiểm tra tâm lý và quan sát hành vi và khám tâm lý (nếu thấy cần thiết). Các biện pháp cải tạo sẽ được xây dựng trên cơ sở kết quả kiểm tra, các triệu chứng về tinh thần và thể chất của người chưa thành niên và nguyên nhân của hành vi phạm tội.
Các cơ sở phụ trách người chưa thành niên cũng sẽ tiến hành các biện pháp đánh giá để thực hiện các biện pháp bảo vệ theo yêu cầu của giám thị tại trường đào tạo người chưa thành niên.
Bên cạnh đó, các cơ sở này cũng thực hiện tư vấn các vấn đề liên quan đến người chưa thành niên phạm tội, bạo lực học đường, bạo lực gia đình cũng như những hỗ trợ cần thiết thông qua các chuyên gia, phương pháp kỹ thuật của họ, cộng đồng và giáo viên của các trường học.
c. Trường Đào tạo người chưa thành niên
Theo yêu cầu của tòa án gia đình, Trường đào tạo người chưa thành niên là nơi bảo vệ và giáo dục cải tạo những người chưa thành niên. Trường sẽ xây dựng cho mỗi cá nhân một Kế hoạch giáo dục cải tạo, trong đó xác định mục tiêu, nội dung, phương pháp thực hiện, thời hạn áp dụng phù hợp với độ tuổi, điều kiện thể chất tinh thần và xu hướng phạm tội của người chưa thành niên. Trường cũng sẽ hướng dẫn kỹ năng sống, đào tạo nghề, tổ chức các khóa học, giáo dục thể chết và các hoạt động đặc biệt khác phù hợp với đặc tính của mỗi người chưa thành niên. Ngoài ra, để đảm bảo cho việc tái hóa nhập cộng đồng thuận lợi của người chưa thành niên sau khi được thả, các trường cũng hỗ trợ cho họ học tập và làm việc, bảo đảm cho họ chỗ ở và duy trì phối hợp với các tổ chức y tế/phúc lợi.
d. Cơ sở giáo dục dành cho phụ nữ
Cơ sở giáo dục dành cho phụ nữ chịu trách nhiệm giáo dục và cải tạo phụ nữ từ 20 tuổi trở lên đã bị kết tội theo Điều 5 Đạo luật Chống mại dâm. Mục đích của Cơ sở này nhằm hướng dẫn và đào tạo phụ nữ phạm tội theo một môi trường có kỷ luật và tích cực; hướng dẫn nghề nghiệp để tái hòa nhập xã hội; thực hiện chăm sóc y tế đối với các phạm nhân bị rối loạn về thể chất và tinh thần. Thời hạn thực hiện các biện pháp tại cơ sở giáo dục này là 06 (sáu) tháng. Hiện nay, Cơ sở giáo dục phụ nữ có trụ sở tại Tokyo.
e. Viện Nghiên cứu và đào tạo của Bộ Tư pháp
- Nghiên cứu các chính sách tư pháp hình sự và các vấn đề khác của Bộ Tư pháp
- Tổ chức đào tạo cho cán bộ Bộ Tư pháp
- Hợp tác quốc tế về hình sự và dân sự với các quốc gia đang phát triển, chủ yếu là ở khu vực Châu Á.
f. Viện Đào tạo cho cán bộ quản giáo
Viện Đào tạo cho cán bộ quản giáo thực hiện các chương trình đào tạo cần thiết cho cán bộ quản giáo cũng như thực hiện các nghiên cứu về các biện pháp quản giáo.
2.2.4. Các cơ quan khác
a. Cơ quan tình báo an ninh công cộng
Cơ quan tình báo an ninh công cộng là một tổ chức hành chính có trách nhiệm thực hiện các hoạt động tình báo, yêu cầu bố trí kiểm soát những người đang tìm cách lật đổ và các tổ chức liên quan khác theo quy định của Đạo luật Phòng chống các hành vi lật đổ và Đạo luật kiểm soát các tổ chức vi phạm Luật về hành vi giết người hàng loạt. Ngoài ra, với tư cách là thành viên cốt lõi của cộng đồng tình báo Nhật Bản, Cơ quan này cũng đóng góp vào việc xây dựng các chính sách của chính phủ thông qua việc cung cấp kịp thời cho các cơ quan liên quan các tài liệu, thông tin tình báo trong và ngoài nước liên quan đến an ninh công cộng của Nhật Bản.
b. Ủy ban kiểm tra an ninh công cộng
Ủy ban kiểm tra an ninh công cộng là một tổ chức trực thuộc Bộ nhằm mục đích đảm bảo an ninh công cộng. Khi nhận được đơn của Giám đốc Cơ quan tình báo an ninh công cộng về các hành động của các tổ chức quy định trong Đạo luật về Phòng chống các hành vi lật đổ hoặc Đạo luật về kiểm soát các tổ chức vi phạm Luật giết người hàng loạt, Ủy ban này sẽ kiểm tra đơn với quan điểm khách quan, trung lập và ra quyết định về sự cần thiết áp dụng các biện pháp kiểm soát hoặc cần áp dụng biện pháp kiểm soát nào.
c. Cơ quan quản lý xuất nhập cảnh
Cơ quan quản lý xuất nhập cảnh thuộc Bộ Tư pháp được thành lập vào ngày 1/4/2019, là một cơ quan của chính phủ thực hiện nhiệm vụ quản lý và kiểm soát một cách khách quan việc nhập cảnh vào Nhật Bản hoặc xuất cảnh khỏi Nhật Bản; quản lý nơi cư trú của người nước ngoài sinh sống tại Nhật Bản và các thủ tục công nhận người tị nạn theo quy định của Luật kiểm soát nhập cư và Công nhận người tị nạn. Cơ quan này cũng sẽ chịu trách nhiệm triển khai thực hiện kế hoạch, các đề xuất và điều phối tổng thể quy trình về tiếp nhận người nước ngoài đến Nhật Bản làm việc.
3. Kết quả triển khai hoạt động hợp tác giữa Bộ Tư pháp Việt Nam và Nhật Bản
3.1. Hợp tác thông qua Chương trình, dự án ODA được ký kết giữa các cơ quan pháp luật và tư pháp hai nước
Quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Nhật Bản trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp được chính thức bắt đầu từ cuối năm 1996 bằng việc ký và thực hiện Dự án ODA của Chính phủ Nhật Bản dành cho Việt Nam qua nhiều giai đoạn. Tháng 12/2020, Dự án hợp tác giai đoạn mới với tên gọi “Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật tại Việt Nam” giai đoạn 2021-2025 đã chính thức được triển khai thực hiện thông qua Lễ khởi động dự án do Bộ Tư pháp phối hợp với Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) và Bộ Tư pháp Nhật Bản tổ chức.
3.2. Bản Ghi nhớ về hợp tác pháp luật và tư pháp giữa Bộ Tư pháp Việt Nam và Bộ Tư pháp Nhật Bản
Trong 25 năm qua, Nhật Bản luôn là đối tác thân thiết và tin cậy của các cơ quan pháp luật và tư pháp Việt Nam. Khởi đầu từ năm 1994 với một số hoạt động đơn lẻ, hợp tác pháp luật và tư pháp Việt Nam - Nhật Bản đã không ngừng được đẩy mạnh thông qua các hoạt động hợp tác song phương trực tiếp giữa các cơ quan pháp luật và tư pháp, giữa các cơ sở đào tạo pháp luật cũng như các hiệp hội nghề nghiệp pháp luật của hai nước, và đặc biệt là việc triển khai 05 dự án hỗ trợ kỹ thuật tiếp nối nhau do Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (Dự án JICA) tài trợ. Trong bối cảnh chung đó, quan hệ hợp tác giữa Bộ Tư pháp Việt Nam và Bộ Tư pháp Nhật Bản cũng ngày càng gắn bó, nhưng chủ yếu thông qua các hoạt động trong khuôn khổ các Dự án JICA.
Với mong muốn đưa quan hệ hợp tác giữa Bộ Tư pháp hai nước lên một tầm cao mới, trong buổi làm việc giữa Phó Thủ tướng Thường trực Trương Hòa Bình và Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nhật Bản nhân chuyến công tác của Phó Thủ tướng tham dự Hội nghị Tương lai châu Á lần thứ 24 kết hợp thăm Nhật Bản vào tháng 6/2018, hai Bên đã nhất trí chủ trương đàm phán, ký kết Bản ghi nhớ hợp tác giữa hai Bộ Tư pháp. Bản Ghi nhớ hợp tác trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp giữa Bộ Tư pháp hai nước xác định các nguyên tắc, lĩnh vực hợp tác cũng như hình thức hợp tác phù hợp với nhu cầu và điều kiện của cả hai Bên. Theo đó, trong thời gian tới, hai Bộ Tư pháp sẽ thực hiện hợp tác trong các lĩnh vực bao gồm: xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong các lĩnh vực dân sự, hình sự, hành chính và thương mại; đào tạo, bồi dưỡng tăng cường năng lực cho cán bộ pháp luật và tư pháp; quản lý hiệu quả các thông tin nhằm thúc đẩy công tác pháp luật và tư pháp và các lĩnh vực khác mà hai Bên cùng quan tâm. Các hoạt động hợp tác giữa hai Bên được thực hiện dưới các hình thức như: trao đổi các đoàn công tác; tổ chức hội nghị, hội thảo và các khóa đào tạo, bồi dưỡng trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp; trao đổi thông tin và kiến thức nghiệp vụ; trao đổi tài liệu và ấn phẩm đã được công bố hoặc các hình thức hợp tác khác theo thỏa thuận của hai Bên.
Việc hai Bên ký kết và trao đổi Bản Ghi nhớ hợp tác về pháp luật và tư pháp nhân chuyến chuyến thăm và làm việc tại Việt Nam đầu tiên của Tân Thủ tướng Nhật Bản Suga Yoshihide có ý nghĩa hết sức quan trọng, tạo cơ sở pháp lý chính thức để triển khai các hoạt động hợp tác song phương giữa Bộ Tư pháp hai nước. Bộ Tư pháp hai nước mong muốn Bản Ghi nhớ hợp tác này, cùng với Dự án JICA giai đoạn 2021-2025 vừa được phê duyệt, sẽ là “đòn bẩy” để thúc đẩy hợp tác pháp luật và tư pháp giữa Nhật Bản với Việt Nam ngày càng đi vào chiều sâu và hiệu quả, góp phần triển khai quan hệ “Đối tác chiến lược sâu rộng vì hoà bình và phồn vinh ở châu Á” Việt Nam - Nhật Bản, đồng thời góp phần hỗ trợ Bộ Tư pháp và các cơ quan pháp luật, tư pháp Việt Nam trong việc thực hiện các nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện pháp luật và cải cách tư pháp trong thời gian tới.
3.3. Tình hình trao đổi Đoàn công tác
Trong thời gian qua, Bộ Tư pháp Việt Nam đã tổ chức đón tiếp và trao đổi nhiều Đoàn công tác trong khuôn khổ hợp tác với Bộ Tư pháp Nhật Bản, Dự án JICA và phối hợp với các tổ chức, các cơ sở đào tạo pháp luật Nhật Bản như Trường Đại học Nagoya, Trường Đại học Keio, Nhật Bản, đón tiếp nhiều Đoàn công tác của các trường đại học đến thăm và làm việc tại Bộ Tư pháp. Theo thống kê, từ đầu năm 2018 đến tháng 3/2019, Bộ Tư pháp Việt Nam đã cử 01 Đoàn công tác thăm và làm việc tại Nhật Bản và đón tiếp 12 Đoàn công tác đến từ các cơ quan pháp luật, các trường đại học của Nhật Bản thăm và làm việc tại Việt Nam.
- Năm 2018, nhân dịp tháp tùng Phó Thủ tướng Thường trực Trương Hòa Bình tham dự Hội nghị Tương lai châu Á lần thứ 24, kết hợp thăm Nhật Bản vào tháng 6/2018, Thứ trưởng Đặng Hoàng Oanh đã có buổi làm việc với Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nhật Bản. Triển khai kết quả của chuyến công tác này, Vụ Hợp tác quốc tế đang phối hợp với Bộ Tư pháp Nhật Bản xây dựng, đàm phán Thỏa thuận hợp tác giữa hai Bộ Tư pháp trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp.
- Đoàn công tác của Bộ trưởng Lê Thành Long thăm và làm việc tại Nhật Bản trong ngày 3-4/4/2019. Bộ trưởng Lê Thành Long đã có các buổi làm việc với Bộ trưởng Tư pháp, Quốc vụ khanh Bộ Ngoại giao, Phó Chánh Văn phòng Nội các, Chánh án Toà án tối cao, Viện trưởng Viện Công tố tối cao và Chủ tịch Cơ quan Hợp tác quốc tế (JICA) Nhật Bản. Mục đích chính của chuyến thăm là đánh giá 25 năm quan hệ hợp tác pháp luật và tư pháp với Nhật Bản (từ năm 1993), từ đó thảo luận về định hướng hợp tác sau năm 2020 nhằm góp phần tăng cường tin cậy lẫn nhau giữa hai nước trong bối cảnh 2 nước vừa kỷ niệm 45 năm quan hệ hợp tác hữu nghị và đang cùng nhau đưa quan hệ Đối tác chiến lược sâu rộng Việt Nam - Nhật Bản bước vào giai đoạn phát triển mới.
Tại cuộc hội đàm với Bộ trưởng Tư pháp Nhật Bản Ymashita Takashi, phía Nhật Bản đánh giá cao chuyến thăm của Bộ trưởng Lê Thành Long, coi đây là một minh chứng cho quan hệ hợp tác nói chung, quan hệ hợp tác về pháp luật và tư pháp nói riêng giữa hai nước ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất, hiệu quả thiết thực.
Cảm ơn Bộ trưởng Lê Thành Long về sự đón tiếp nồng hậu vào tháng 8/2018 (khi ông Ymashita Takashicòn là Thứ trưởng Bộ Tư pháp), Bộ trưởng Ymashita Takashi nhấn mạnh Nhật Bản luôn tự hào được đồng hành và hỗ trợ Việt Nam trong tiến trình hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách tư pháp phục vụ Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Nhấn mạnh nét tương đồng về văn hoá giữa hai nước, Bộ trưởng Tư pháp Nhật Bản khẳng định chủ trương nhất quán của phía Nhật Bản là luôn dành sự ưu tiên cao nhất cho quan hệ hợp tác pháp luật và tư pháp với Việt Nam.
Đồng thời, Bộ trưởng Ymashita Takashi cũng vui mừng thông báo việc Quốc hội Nhật Bản vừa thông qua Luật mới về quản lý xuất nhập cảnh và lao động nước ngoài (Luật này do Bộ Tư pháp trình, có hiệu lực từ 01.04.2019), theo đó các điều kiện đối với lao động nước ngoài nói chung, trong đó có Việt Nam, được nới lỏng, thuận lợi hơn nhằm bù đắp cho sự thiếu hụt nguồn nhân lực ở Nhật Bản do dân số Nhật đang bị già hoá. Hiện nay 2 Bên cũng đang tích cực đàm phán Bản Ghi nhớ hợp tác về chế độ lao động kỹ năng đặc định người nước ngoài (MOU về lao động) nhằm cụ thể hoá các quy định tại đạo luật nói trên, tạo điều kiện thuận lợi cho lao động Việt Nam tiếp cận thị trường lao động Nhật Bản một cách minh bạch, an toàn, đóng góp tích cực vào sự thịnh vượng của xã hội Nhật Bản. Bạn cũng cho biết hiện nay đang có khoảng 330.000 lao động Việt Nam tại Nhật Bản (đứng thứ 3 trong cộng đồng người nước ngoài sinh sống tại Nhật Bản).
Bộ trưởng Lê Thành Long bày tỏ sự vui mừng được thăm trở lại đất nước Nhật Bản. Điểm lại lịch sử quan hệ hợp tác pháp luật và tư pháp giữa 2 nước trong suốt chặng đường dài 25 năm qua, Bộ trưởng Lê Thành Long bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với sự hỗ trợ của Chính phủ, Bộ Tư pháp Nhật Bản trong việc trợ giúp kỹ thuật (chia sẻ thông tin, kinh nghiệm, cung cấp chuyên gia…) phục vụ Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực pháp luật cho Bộ, ngành tư pháp Việt Nam.
Bước vào giai đoạn phát triển mới sau 2020, Bộ trưởng Lê Thành Long đề nghị phía Nhật Bản tiếp tục không ngừng quan tâm, tăng cường hợp tác pháp luật và tư pháp thông qua việc xây dựng 1 dự án hợp tác mới (sau khi dự án JICA pháp luật giai đoạn 2015-2020 kết thúc) với mục tiêu chủ yếu là hỗ trợ Việt Nam hoàn thiện hệ thống pháp luật đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ, khả thi, chỉnh tinh, đồng thời phù hợp với các cam kết quốc tế (đặc biệt là Hiệp định CPTPP) với chi phí tuân thủ thấp; tổ chức thi hành pháp luật một cách có hiệu quả, phục vụ lợi ích của người dân, của doanh nghiệp.
Đồng thời, Bộ trưởng Lê Thành Long cũng đề nghị Bộ Tư pháp Nhật Bản quan tâm và sớm tiến hành đàm phán với Bộ Tư pháp Việt Nam hiệp định song phương về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự và thương mại nhằm bảo hộ tốt nhất công dân của nước này sinh sống, làm việc trên lãnh thổ của nước kia, đặc biệt trong bối cảnh việc đàm phán các Hiệp định tương trợ tư pháp thuộc lĩnh vực hình sự tiến triển tương đối nhanh (hiện nay Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự đã hoàn thành đàm phán vòng 2, chuẩn bị đàm phán vòng 3 vào mùa thu năm nay; Hiệp định về chuyển giao người bị kết án phạt tù đã hoàn thành việc đàm phán và đang chờ thủ tục nội bộ để ký kết trong thời gian tới).
Về vấn đề lao động Việt Nam tại Nhật Bản, Bộ trưởng Lê Thành Long đánh giá cao việc Nhật Bản vừa thông qua Luật mới về quản lý xuất nhập cảnh và lao động nước ngoài và nhấn mạnh việc ban hành luật này là việc làm có lợi cho cả hai nước. Tuy nhiên, Bộ trưởng cũng đề nghị cần minh bạch thông tin về thị trường lao động cũng như các điều kiện cần đáp ứng để lao động Việt Nam có thể tiếp cận thị trường Nhật Bản một cách an toàn, tránh bị lạm dụng, kể cả sau khi đã hết hạn hợp đồng.
Bộ trưởng Tư pháp Nhật Bản bày tỏ sự đồng tình với các ý kiến của Bộ trưởng Tư pháp Việt Nam và đề nghị các cấp làm việc của hai Bên cần thảo luận thật kỹ về các đề xuất hợp tác và sớm gửi cho phía Nhật Bản. Nhân dịp này, Bộ trưởng Ymashita Takashi nhắc lại lời mời Bộ trưởng Lê Thành Long tham dự Hội nghị của Liên Hợp quốc về tư pháp hình sự được tổ chức tại Nhật Bản vào năm 2020. Ngoài ra, Bộ trưởng Ymashita Takashi cũng mong Việt Nam tiếp tục ủng hộ sáng kiến của Nhật Bản khi mong muốn được tham gia với tư cách bên thứ 3 vào cơ chế Hội nghị Bộ trưởng Tư pháp ASEAN (ALAWMM) và Hôị nghị quan chức pháp luật cao cấp ASEAN (ASLOM), trước mắt nhằm thuyết trình trước các quốc gia ASEAN về Hội nghị của Liên Hợp quốc về tư pháp hình sự được tổ chức tại Nhật Bản vào năm 2020. Kết thúc buổi hội đàm, Bộ trưởng Lê Thành Long cũng trân trọng mời Bộ trưởng Ymashita Takashi sớm trở lại thăm Việt Nam trong dịp gần nhất.
3.3. Hợp tác trong lĩnh vực đào tạo pháp luật giữa Việt Nam và Nhật Bản
3.3.1. Hợp tác giữa Bộ Tư pháp và các cơ sở đào tạo pháp luật tại Nhật Bản
- Về đào tạo
Trong thời gian qua, để đào tạo nguồn cán bộ có trình độ chuyên môn cao, tính từ năm 2002 đến nay, Bộ Tư pháp đã cử công chức, viên chức đi đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ luật (32 thạc sỹ, 04 tiến sỹ) tại Nhật Bản theo chương trình học bổng Chính phủ Nhật Bản (JDS, YLP, MEXT). Ngoài kiến thức chuyên môn các công chức, viên chức còn được tiếp cận những kỹ năng quý báu như phong cách làm việc khoa học và chuyên nghiệp, phương pháp nghiên cứu, kỹ năng làm việc theo nhóm và khả năng linh hoạt trong công việc. Phần lớn công chức, viên chức sau khi hoàn thành khóa đào tạo thạc sỹ luật tại Nhật Bản trở về công tác đều được bố trí công việc phù hợp với lĩnh vực chuyên môn được học và đảm nhiệm tốt nhiệm vụ tại đơn vị; một số khác được quy hoạch, bổ nhiệm các chức vụ quan trọng của Bộ Tư pháp và đất nước.
- Về bồi dưỡng
Tính từ năm 2010 đến nay, Bộ Tư pháp đã cử gần công chức, viên chức đi bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ tại Nhật Bản, trong đó có học tập chuyên sâu về nghề tư pháp; bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của Nhật Bản tập trung vào các chủ đề: (1) Phòng chống tội phạm, (2) Quản lý dựa trên tri thức, (3) Bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo, quản lý, (4) bồi dưỡng cấp Thứ trưởng, (5) Tổng quan về luật sở hữu trí tuệ và các hoạt động giáo dục, đào tạo nhằm nâng cao nhận thức về sở hữu trí tuệ…
3.2. Hợp tác về đào tạo luật giữa Đại học Luật Hà Nội và các cơ sở đào tạo luật Nhật Bản
- Hoạt động của Trung tâm Đào tạo và Nghiên cứu Luật Nhật Bản thuộc Đại học tổng hợp Nagoya tại Trường Đại học Luật Hà Nội
Trong khuôn khổ Dự án Đào tạo và Nghiên cứu Luật Nhật Bản được ký giữa Đại học Luật Hà Nội và Khoa luật Trường Đại học Tổng hợp Nagoya, Trung tâm Đào tạo và Nghiên cứu luật Nhật Bản của Trường Đại học Tổng hợp Nagoya đặt tại Trường Đại học Luật Hà Nội đã hoàn thành giai đoạn 1 (từ khi thành lập - 9/2007 đến 8/2012) và được gia hạn theo Quyết định số: 3688/QĐ-BTP ngày 23 tháng 11 năm 2012 để thực hiện giai đoạn 2 (từ 9/2012 đến 3/2016). Hiện tại Trung tâm đã được gia hạn và đang tiếp tục hoạt động giai đoạn 3 kể từ tháng 3/2016 và kéo dài 3 năm 6 tháng.
Từ khi thành lập và gia hạn hoạt động Trung tâm đã hoạt động được gần 12 năm, Trung tâm đạt được những thành tích rất đáng khích lệ. Đến nay, Trung tâm đã đào tạo được 9 khóa với 98 sinh viên tốt nghiệp. Trong đó có 19 sinh viên đã được nhận học bổng để tiếp tục theo học Thạc sỹ tại Nhật Bản. Các sinh viên ra trường đều thông thạo tiếng Nhật và am hiểu pháp luật Việt Nam-Nhật Bản.
Trung tâm đã tạo nhiều cơ hội cho sinh viên đang theo học chương trình cử nhân của Trường Đại học Luật Hà Nội được học tiếng Nhật và pháp luật Nhật Bản, tổ chức hoạt động phối hợp nghiên cứu pháp luật giữa Trường Đại học Luật Hà Nội và các Trường Đại học của Nhật Bản và là nơi cung cấp thông tin về học tập tại các Trường Đại học của Nhật Bản, đặc biệt là Trường Đại học Tổng hợp Nagoya cho sinh viên Việt Nam. Những hoạt động này góp phần thúc đẩy quan hệ giao lưu hợp tác giữa Việt Nam và Nhật Bản trong lĩnh vực pháp luật nói chung và quan hệ hợp tác nghiên cứu và đào tạo pháp luật giữa Trường Đại học Luật Hà Nội và Trường Đại học Tổng hợp Nagoya nói riêng.
- Hoạt động của Văn phòng đại diện Trường Đại học Tổng hợp Nagoya, Nhật Bản tại Trường Đại học Luật Hà Nội
Văn phòng Đại diện Trường đại học Tổng hợp Nagoya được thành lập dựa trên khuôn khổ hợp tác giữa Bộ Tư Pháp và Đại học Nagoya theo thỏa thuận hợp tác đã ký năm 2013. Một trong các hoạt động hợp tác là thực hiện Dự án đào tạo Tiến sỹ từ xa cho các cán bộ, công chức, viên chức của Việt Nam. Trường Đại học Luật Hà Nội là đơn vị hỗ trợ, phối hợp thực hiện dự án. Kể từ năm 2014 đến nay, Văn phòng đã tiếp nhận hai nghiên cứu sinh theo học Chương trình này.
Ngoài các hoạt động hợp tác trên, Trường Đại học Luật Hà Nội và Trường Luật –Đại học Keio Nhật Bản cũng đã ký thoả thuận hợp tác và trao đổi sinh viên giữa hai Trường vào tháng 8/2017. Hai Bên đã thực hiện nhiều hoạt động hợp tác tích cực và hiệu quả như hoạt động trao đổi giảng viên, sinh viên, hoạt động trao đổi nghiên cứu khoa học, tham dự hội thảo./.