Quan hệ hợp tác trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp giữa nước CHXHCN Việt Nam và Vương quốc Campuchia
Sign In

Quan hệ hợp tác trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp giữa nước CHXHCN Việt Nam và Vương quốc Campuchia

PHẦN I. BÁO CÁO TỔNG QUÁT TÌNH HÌNH HỢP TÁC PHÁP LUẬT VÀ TƯ PHÁP VIỆT NAM - CAMPUCHIA
  1. Quá trình hình thành và phát triển quan hệ hợp tác pháp luật và tư pháp Việt - Campuchia
  1. Sơ lược quan hệ hợp tác pháp luật và tư pháp Bộ Tư pháp Việt Nam - Bộ Tư pháp Campuchia
Là hai nước láng giềng, có chung hơn 1.000 km đường biên giới, trải dài suốt 10 tỉnh của Việt Nam và 10 tỉnh của Campuchia, trong những năm gần đây, quan hệ hợp tác giữa hai nước Việt Nam ­ Campuchia tiếp tục phát triển trên mọi lĩnh vực, nhất là quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư ngày càng phát triển mạnh mẽ. Cùng với sự phát triển trên nhiều lĩnh vực, hợp tác về pháp luật và tư pháp giữa Việt Nam và Campuchia cũng được quan tâm và chú trọng.
Trước năm 2009, hợp tác pháp luật và tư pháp song phương giữa Bộ Tư pháp hai nước Việt Nam và Campuchia chưa được thiết lập, các hoạt động hợp tác diễn ra mang tính chất đơn lẻ, chưa xây dựng được chương trình, kế hoạch hợp tác cụ thể cho từng năm. Nhận thấy tầm quan trọng của việc hình thành và phát triển mối quan hệ hợp tác giữa Bộ Tư pháp Việt Nam và Bộ Tư pháp Campuchia trong quan hệ hợp tác hữu nghị tốt đẹp giữa hai nước Việt Nam – Campuchia, nhân chuyến thăm hữu nghị chính thức Việt Nam của Bộ trưởng Vương quốc Campuchia Angvong Vathana tại Việt Nam vào tháng 5/2008, Bộ trưởng Tư pháp hai nước đã trao đổi, thảo luận về phương hướng mở rộng và tăng cường hợp tác hiệu quả trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp giữa hai nước thông qua việc ký Thỏa thuận hợp tác trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp giữa hai Bộ và khả năng ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Vương quốc Campuchia.
Tháng 12/2009, Bộ trưởng Tư pháp Hà Hùng Cường cùng Đoàn cán bộ cấp cao của Bộ Tư pháp Việt Nam đã thăm và làm việc tại Campuchia. Nhân chuyến thăm này, Bộ trưởng Tư pháp hai nước đã ký Bản Ghi nhớ về Hợp tác pháp luật và tư pháp giữa Bộ Tư pháp Việt Nam và Bộ Tư pháp Campuchia. Bản Ghi nhớ này là cơ sở pháp lý mở ra một bước phát triển mới, khẳng định những thay đổi về chất trong quan hệ hợp tác pháp luật, tư pháp giữa Bộ Tư pháp hai nước cũng như thể hiện nỗ lực và quyết tâm của không chỉ Bộ Tư pháp hai nước mà còn của Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Campuchia trong việc đẩy mạnh hợp tác pháp luật và tư pháp giữa hai nước, qua đó góp phần vào việc xây dựng và phát triển kinh tế - xã của mỗi nước trong thời kỳ mới.
  2. Những kết quả nổi bật trong hợp tác pháp luật và tư pháp Việt Nam - Campuchia
  2.1. Các văn kiện pháp lý đã ký giữa Việt Nam và Campuchia trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp
a) Điều ước quốc tế
- Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự ký ngày 21/1/2013 tại Hà Nội, có hiệu lực từ ngày 09/10/2014
- Hiệp định dẫn độ ký ngày 26/12/2013, có hiệu lực từ ngày 09/10/2014
- Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự  và Hiệp định chuyển giao người bị kết án phạt tù ký ngày 20/12/2016 tại Hà Nội. Đến nay, các Hiệp định này đều chưa có hiệu lực và phía Việt Nam đang hoàn thành các thủ tục trình phê chuẩn Hiệp định.
  Hiệp định Tương trợ tư pháp về dân sự là hiệp định đầu tiên mà Campuchia ký kết với nước ngoài. Việc chọn ta là nước đầu tiên Bạn ký Hiệp định tương trợ tư pháp thể hiện sự tin cậy cao, tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan tư pháp hai nước tương trợ lẫn nhau nhằm giải quyết các tranh chấp và các vấn đề pháp lý phát sinh, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp của hai nước khi tham gia vào các quan hệ thương mại, dân sự, đầu tư… tại nước sở tại, góp phần thúc đẩy hơn nữa sự phát triển các quan hệ hợp tác chung giữa hai nước. Cùng với Hiệp định Tương trợ tư pháp về dân sự, Hiệp định về dẫn độ được ký kết nhằm góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả hợp tác chống tội phạm giữa hai nước trên cơ sở tôn trọng chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi thông qua việc ký kết một hiệp định về dẫn độ người phạm tội. Ngoài ra, việc ký kết các Hiệp định nói trên còn góp phần thúc đẩy sự hợp tác chặt chẽ hiện có của các cơ quan tư pháp giữa các tỉnh có chung đường biên giới.
b) Thỏa thuận quốc tế
Quan hệ hợp tác giữa Bộ Tư pháp Việt Nam và Bộ Tư pháp Campuchia chính thức được thiết lập thông qua việc ký kết Bản Ghi nhớ về Hợp tác pháp luật và tư pháp giữa Bộ Tư pháp hai nước vào ngày 22 tháng 12 năm 2009 tại Phnôm-pênh.
Trên cơ sở Bản Ghi nhớ này, hai Bên đã ký và tổ chức triển khai thực hiện các Chương trình hợp tác hai năm với các hoạt động hợp tác cụ thể. Hiện nay, Bộ Tư pháp hai nước đang phối hợp xây dựng Chương trình hợp tác năm 2019-2020. Bên cạnh đó, ngày 29/7/2017,  Học viện Tư pháp thuộc Bộ Tư pháp Việt Nam và Học viện Hoàng gia về đào tạo nghề tư pháp thuộc Bộ Tư pháp Campuchia cũng đã ký Bản Ghi nhớ hợp tác về đào tạo nghề tư pháp.
  2.2. Tình hình triển khai các hoạt động hợp tác song phương giữa hai Bộ Tư pháp
Từ sau khi hai Bên ký Bản ghi nhớ hợp tác năm 2009, trong khoảng thời gian từ năm 2010-2015, chỉ có một số ít các hoạt động hợp tác được thực hiện trong khuôn khổ Bản Ghi nhớ hợp tác đã ký. Chuyến thăm và làm việc của Đoàn Bộ trưởng Tư pháp Vương quốc Campuchia Ăng Vong Vathana được tổ chức tại Hà Nội và Đà Nẵng từ ngày 20-24/01/2013 là hoạt động đầu tiên của Bộ Tư pháp Campuchia nhằm thực hiện Bản Ghi nhớ đã ký.
Quan hệ hợp tác song phương trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp giữa hai Bộ Tư pháp đã có bước phát triển quan trọng từ tháng 8/2015 nhân dịp Bộ trưởng Tư pháp Vương quốc Campuchia Ăng Vong Vathana nhận lời mời của Bộ trưởng Tư pháp Việt Nam Hà Hùng Cường tham dự Lễ kỷ niệm 70 năm ngày truyền thống ngành tư pháp. Hai Bên đã có những đánh giá khách quan về những kết quả trong lĩnh vực hợp tác về tư pháp và pháp luật mà Bộ Tư pháp hai nước đã đạt được trong thời gian qua, đồng thời, một lần nữa hai Bên tiếp tục khẳng định và dành sự quan tâm cho sự phát triển của mối quan hệ hợp tác trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp hai nước trong tương quan mối quan hệ hữu nghị truyền thống và sự hợp tác toàn diện Việt Nam - Campuchia.  
Năm 2016, Bộ Tư pháp đã tổ chức 01 đoàn do Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường thăm và làm việc tại Vương quốc Campuchia từ ngày 27/2 – 2/3/2016. Nhân chuyến thăm và làm việc này, Bộ Tư pháp đã ký Chương trình hợp tác năm 2016 với Bộ Tư pháp Campuchia và nghiên cứu tổ chức Hội nghị Tư pháp các tỉnh có chung đường biên giới hai nước để rà soát, đánh giá và giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong việc phối hợp triển khai các hoạt động hợp tác tư pháp đường biên hai nước.
Tháng 9/2017, hai Bên phối hợp tổ chức thành công Hội nghị Tư pháp các tỉnh có chung đường biên giới Việt Nam - Campuchia lần thứ nhất năm 2017 tại Tây Ninh. Hội nghị Tư pháp các tỉnh có chung đường biên giới Việt Nam - Campuchia lần thứ nhất là một dấu mốc quan trọng, tạo động lực mới cho sự tăng cường hợp tác giữa hai ngành Tư pháp Việt Nam và Campuchia, quan hệ hợp tác giữa các cơ quan tư pháp đường biên hai nước, góp phần vào sự phát triển thịnh vượng, bình yên và bền vững của các tỉnh đường biên giới cũng như vào việc gìn giữ và tiếp tục thúc đẩy quan hệ láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài Việt Nam - Campuchia, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân hai nước, vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.
Trong năm 2018, để triển khai thực hiện Bản ghi nhớ hợp tác và Kết luận Hội nghị Tư pháp đường biên lần thứ nhất, hai Bên đã phối hợp triển khai một số hoạt động hợp tác cụ thể trong đó tập trung vào việc trao đổi Đoàn công tác, ấn phẩm, tài liệu về pháp luật có liên quan về lĩnh vực cải cách tư pháp (tập trung vào xây dựng chính sách), công tác đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp. Tuy nhiên, xét về tổng thể, các hoạt động hợp tác giữa hai Bộ Tư pháp vẫn còn chưa tương xứng với nhu cầu và khả năng của hai Bên cũng như quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa hai nước Việt Nam ­ Campuchia.
Thực hiện Kết luận Hội nghị Tư pháp các tỉnh có chung đường biên giới Việt Nam – Campuchia lần thứ nhất, Bộ Tư pháp Việt Nam và Bộ Tư pháp Campuchia đã phối hợp thực hiện các thủ tục và tổ chức Hội nghị tư pháp các tỉnh có chung đường biên giới Việt Nam - Campuchia lần thứ hai vào ngày 4/12/2019 tại Campuchia. Tại hội nghị lần thứ hai, các đại biểu đã cùng nhìn nhận đánh giá về những kết quả đạt được cũng như những khó khăn, vướng mắc và đề xuất nhiều giải pháp thúc đẩy hợp tác tư pháp giữa Việt Nam - Campuchia phát triển lên tầm cao mới, đáp ứng nhiều hơn nhu cầu hợp tác pháp luật về tư pháp pháp luật đường biên nói riêng và phát triển toàn diện nói chung.
Về phía Việt Nam, Bộ trưởng Lê Thành Long cam kết, sẽ có các chương trình, kế hoạch cụ thể, từ đó tổ chức thực hiện nghiêm túc, đầy đủ các thỏa thuận đã ký kết. Tại Hội nghị này, đại diện Bộ Tư pháp Campuchia và ông Nguyễn Hữu Huyên Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Tư pháp Việt Nam đã ký Chương trình hợp tác 2019-2020 giữa hai Bộ Tư pháp.
  2.3. Về hợp tác trong khuôn khổ ASEAN
Quan hệ hợp tác pháp luật và tư pháp giữa Bộ Tư pháp hai nước không chỉ được thực hiện trong khuôn khổ hợp tác song phương mà còn vươn tới các hoạt động hợp tác đa phương với nhiều hình thức, nội dung đa dạng, phong phú, có chiều sâu và thiết thực đối với cả hai nước.
Trên các diễn đàn đa phương, hai nước đang nỗ lực thực hiện chính sách hội nhập khu vực và quốc tế vì mục tiêu phát triển và thịnh vượng. Ngành Tư pháp hai nước đã tích cực phối hợp hành động, chia sẻ quan điểm, kiên trì đấu tranh nhằm bảo vệ những nguyên tắc cơ bản của ASEAN thông qua việc tham gia đầy đủ và sâu rộng trong các hoạt động hợp tác pháp luật và tư pháp ASEAN, thông qua cơ chế Hội nghị quan chức pháp luật cấp cao (ASLOM) và Hội nghị Bộ trưởng Pháp luật các nước ASEAN (ALAWMM) cũng như trongviệc đàm phán các hiệp định, văn bản pháp lý khác nhằm thực hiện Hiến chương ASEAN.
Trong lĩnh vực tư pháp hình sự, hai quốc gia cũng có sự hợp tác tích cực trong việc tham gia xây dựng Hiệp định khu vực về dẫn độ, Luật mẫu về an ninh hàng hải, triển khai thực hiện Công ước ASEAN về chống khủng bố...
  3. Hợp tác trong các lĩnh vực hộ tịch, quốc tịch, chứng thực
  Về mặt chính thức, cho đến nay, Bộ Tư pháp chưa có hoạt động hợp tác nào với Campuchia trong lĩnh vực hộ tịch, quốc tịch, chứng thực. Trên thực tế, Bộ Tư pháp đã hoàn thiện Tiểu Đề án “Giải quyết vấn đề hộ tịch, quốc tịch, hộ khẩu và giấy tờ tuỳ thân cho người di cư tự do từ Campuchia về Việt Nam” trong “Đề án tổng thể đối với người dân di cư tự do từ Campuchia về Việt Nam” theo Thông báo số 390/TB-VPCP ngày 30/10/2013 về việc thông báo kết luận của Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh - Trưởng Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ tại cuộc họp về tình hình người dân di cư tự do từ Campuchia về Việt Nam.
Thực hiện nhiệm vụ được phân công tại Quyết định số 1748/QĐ-TTg ngày 29/9/2014 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt “Đề án tổng thể đối với người dân di cư tự do từ Campuchia về Việt Nam, ngày 19 tháng 10 năm 2015, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 1830/QĐ-BTP ban hành Kế hoạch triển khai Tiểu Đề án“Giải quyết các vấn đề về quốc tịch, hộ tịch, hộ khẩu và các giấy tờ tùy thân khác cho người di cư tự do từ Campuchia về nước”. Kế hoạch được ban hành nhằm triển khai, thực hiện có hiệu quả Tiểu Đề án, bảo đảm giải quyết cơ bản các vấn đề về quốc tịch, hộ tịch, hộ khẩu và các giấy tờ tùy thân khác cho người di cư tự do từ Campuchia về nước, tạo điều kiện thuận tiện cho họ ổn định cuộc sống, góp phần bảo đảm an ninh, trật tự trên địa bàn; xác định rõ nội dung công việc, lộ trình thực hiện, thời gian, tiến độ hoàn thành liên quan đến trách nhiệm của các đơn vị thuộc Bộ, các cơ quan, tổ chức cá nhân có liên quan và Ủy ban nhân dân 10 tỉnh có đường biên giới quốc gia với Campuchia trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện Kế hoạch.
Bên cạnh đó, trong thời gian qua, Bộ Tư pháp đã tích cực phối hợp với các cơ quan hữu quan của Việt Nam nghiên cứu, đề xuất giải pháp giải quyết vấn đề về hộ tịch, quốc tịch và giấy tờ tùy thân khác cho người dân di cư tự do từ Campuchia về nước nhằm thực hiện chủ trương của Chính phủ Việt Nam về việc giúp người di cư tự do từ Campuchia trở về và con, em của họ có thể an tâm làm ăn, sinh sống thông qua việc cấp các giấy tờ tùy thân để họ thực hiện các quyền cơ bản của công dân như thực hiện các giao dịch dân sự và yêu cầu học tập, giáo dục của con, em họ…
Bộ Tư pháp cũng đã phối hợp với Bộ Công an biên soạn tài liệu tập huấn về nghiệp vụ quốc tịch, hộ tịch, cư trú, xuất cảnh, nhập cảnh để cung cấp cho các cá nhân, tổ chức liên quan của 10 tỉnh có đường biên giới quốc gia với Campuchia.
  4. Hợp tác trong lĩnh vực tương trợ tư pháp
Tăng cường tương trợ tư pháp về dân sự, góp phần thúc đẩy giải quyết các vụ việc phát sinh từ quan hệ dân sự, thương mại giữa công dân và pháp nhân giữa Việt Nam và Campuchia là nhiệm vụ được hai Bên quan tâm thực hiện. Theo quy định của Hiệp định thì hồ sơ yêu cầu ủy thác tư pháp giữa hai nước được gửi thông qua Cơ quan trung ước giữa hai nước (Bộ Tư pháp Việt Nam và Bộ Tư pháp Cam-pu-chia). Đồng thời, Hiệp định cũng không hạn chế việc các Bên gửi yêu cầu tương trợ tư pháp qua đường ngoại giao. So với các Hiệp định/ Thỏa thuận mà Việt Nam đã ký kết với một số nước khác thì Hiệp định với Cam-pu-chia bổ sung thêm kênh ủy thác tư pháp qua đường ngoại giao. Như vậy, việc thực hiện ủy thác tư pháp thực hiện theo quy định của Hiệp định tạo điều kiện thuận lợi trong việc lựa chọn các kênh ủy thác để đạt được kết quả cao.
Sau hơn 06 (sáu) năm kể từ khi ký Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự được ký kết, các yêu cầu tương trợ tư pháp giữa 2 nước tập trung vào nội dung ủy thác tống đạt giấy tờ và thu thập chứng cứ lấy lời khai của đương sự. Tính từ thời điểm Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự có hiệu lực đến nay (từ 09/10/2014 – 30/9/2019), phía Campuchia không có yêu cầu ủy thác tư pháp về dân sự đến Việt Nam; phía Việt Nam có 80 yêu cầu[1] ủy thác tư pháp về dân sự gửi phía Bạn và đã có 43 kết quả[2].
  1. Tình hình triển khai công tác pháp luật và tư pháp tại các địa phương có chung đường biên giới với Campuchia
  1. Tình hình hợp tác pháp luật và tư pháp giữa các địa phương có chung đường biên giới với Campuchia
Trong những năm gần đây, sự phối hợp của Bộ Tư pháp hai nước ngày càng chặt chẽ ở cả cấp trung ương và địa phương. Trong lĩnh vực hợp tác pháp luật và tư pháp, các địa phương có chung đường biên Việt Nam – Campuchia chưa thiết lập quan hệ hợp tác trực tiếp với các đối tác bên kia biên giới.
Các hoạt động hợp tác chỉ diễn ra đơn lẻ giữa một vài tỉnh của Việt Nam và một số tỉnh đường biên của Campuchia với hoạt động chủ yếu là trao đổi đoàn công tác thăm và làm việc vào các dịp Lễ lớn, trao đổi đoàn, học tập kinh nghiệm phòng chống tội phạm, tương trợ tư pháp, tổ chức tuyên truyền các quy định pháp luật của hai nước cho nhân dân vùng biên giới.
Thực hiện Quyết định số 696/QĐ-BTP ngày 10/4/2018 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc ban hành Kế hoạch triển khai Kết luận Hội nghị Tư pháp các tỉnh có chung đường biên giới Việt Nam - Campuchia (Hội nghị đường biên) lần thứ nhất, các đơn vị có liên quan thuộc Bộ Tư pháp và các Sở Tư pháp các tỉnh có chung đường biên giới Việt Nam - Campuchia đang tích cực tổ chức thực hiện các nhiệm vụ cụ thể đã được Bộ trưởng hai nước thống nhất tại Hội nghị, cụ thể là: (i) Nâng cao hiệu quả công tác tương trợ tư pháp giữa hai nước; (ii) Tiếp tục triển khai thực hiện trợ giúp pháp lý cho người dân vùng biên giới; (iii) Tăng cường phối hợp tuyên truyền, phổ biến giáo dục nhân dân hai nước sinh sống tại khu vực biên giới nâng cao ý thức chấp hành luật pháp của mỗi nước và các quy định được hai nước thống nhất; (iv) Tăng cường các hoạt động hợp tác giữa hai Bộ Tư pháp, giữa các cơ quan tư pháp và thi hành án các tỉnh có chung đường biên giới Việt Nam - Campuchia và (v) Đẩy mạnh hợp tác về đào tạo cán bộ pháp luật.
Hiện nay, triển khai Kết luận Hội nghị đường biên lần thứ nhất, theo đề nghị của Bộ Tư pháp Việt Nam, các Sở Tư pháp có chung đường biên với Campuchia đang phối hợp rà soát, đánh giá tình hình triển khai thực hiện Kết luận Hội nghị đường biên lần thứ nhất, thống nhất phương hướng, giải pháp thúc đẩy hợp tác giữa các tỉnh có chung đường biên giới Việt Nam - Campuchia trong giai đoạn tiếp theo.
  1. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và hòa giải cơ sở tại các địa phương có chung đường biên giới với Campuchia
2.1. Trong thời gian qua được sự quan tâm, chỉ đạo kịp thời của Bộ Tư pháp, cấp ủy và chính quyền địa phương, các cơ quan tư pháp các tỉnh biên giới Việt Nam - Campuchia, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và hòa giải cơ sở trên địa bàn các tỉnh Việt Nam giáp Campuchia đã đạt được những kết quả nhất định, góp phần nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật, nâng cao dân trí, ý thức tôn trọng, tự giác chấp hành pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là cán bộ và nhân dân ở địa bàn biên giới.
Nội dung pháp luật tuyên truyền cho người dân vùng biên giới được lựa chọn và thực hiện đầy đủ kịp thời, phù hợp với từng đối tượng, từng địa bàn, đặc biệt chú trọng các văn bản luật có liên quan thiết thực đến đời sống, lao động của người dân vùng biên giới như: Hiến pháp; Luật quốc tịch; Luật Biên giới quốc gia; Luật Hôn nhân và Gia đình; Luật Phòng chống mua bán người; Luật Xử lý vi phạm hành chính…
 Hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật khá đa dạng và phong phú, phù hợp với tình hình thực tế ở từng địa bàn như: Tuyên truyền qua hệ thống loa truyền thanh cố định, lưu động, tuyên truyền miệng trực tiếp tại các ấp; cấp phát tờ rơi, tờ gấp, đăng tải trên Trang thông tin điện tử của Bộ đội Biên phòng (http://bienphongvietnam.vn); Cổng thông tin biên giới lãnh thổ (www.biengioilanhtho.gov.vn); Cổng thông tin điện tử của các tỉnh có chung đường biên giới;.… Nhiều địa phương đã tổ chức đối thoại trực tiếp, giải quyết các vướng mắc trong quần chúng nhân dân; tổ chức đưa các vụ án tiêu biểu xét xử lưu động tại địa bàn xã biên giới. Một số địa phương như Kiên Giang, Tây Ninh chú trọng phát triển đội ngũ tuyên truyền viên pháp luật là người dân tộc, người có uy tín trong đồng bào dân tộc, các vị sư sãi, à cha Tây Ninh…để tham gia vận động gia đình, người dân chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, quy chế khu vực biên giới đất liền…; chú trọng tuyên truyền bằng ngôn ngữ các dân tộc ít người tại khu vực có đồng bào các dân tộc ít người sinh sống.
2.2. Công tác hòa giải cơ sở tại các địa phương vùng biên cũng từng bước được đẩy mạnh thông qua việc thành lập và đưa vào hoạt động các tổ hòa giải cơ sở nhằm thực hiện việc hòa giải các tranh chấp, mâu thuân nhỏ trong cộng đồng, trong đó có cả những người Campuchia sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam. Bên cạnh đó, các hòa giải viên cũng kết hợp tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho người dân ở địa phương.
  1. Hoạt động trợ giúp pháp lý ở các địa phương có chung đường biên giới với Campuchia
Cùng với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và hòa giải cơ sở, hoạt động trợ giúp pháp lý cho người dân vùng biên giới Việt Nam – Campuchia trong thời gian qua cũng được quan tâm và chú trọng. Tại các địa phương, các Trung tâm trợ giúp pháp lý phối hợp với Phòng Tư pháp và Ủy ban nhân dân các xã biên giới thực hiện trợ giúp pháp lý lưu động và lồng ghép sinh hoạt Câu lạc bộ Trợ giúp pháp lý cho người dân ở khu vực biên giới hai bên, trong đó có người dân Campuchia, kiều bào Campuchia, người dân Việt Nam sang làm ăn, sinh sống tại khu vực biên giới tiêu biểu như tỉnh Đồng Tháp, Đắk Nông…
Các hình thức trợ giúp pháp lý cho đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn giáp biên giới Campuchia được thực hiện bằng các hình thức khác nhau: thực hiện các buổi trợ giúp pháp lý lưu động, trong đó trực tiếp tuyên truyền pháp luật về Trợ giúp pháp lý và những lĩnh vực pháp luật bà con vướng mắc; lắp các Bảng thông tin; cung cấp hàng chục nghìn tờ gấp pháp luật tại các đợt trợ giúp pháp lý lưu động.
  1. Một số tồn tại, hạn chế trong quan hệ hợp tác pháp luật và tư pháp giữa Việt Nam - Campuchia
Điểm lại tình hình hợp tác pháp luật và tư pháp giữa Bộ Tư pháp Việt Nam và Campuchia có thể thấy rằng trong thời gian qua, Bộ Tư pháp hai nước đã thực hiện được các nhiệm vụ đặt ra bằng nhiều biện pháp, bằng sự nỗ lực của đội ngũ cán bộ tư pháp của hai Bộ Tư pháp. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc thực hiện hợp tác pháp luật và tư pháp giữa Bộ Tư pháp Việt Nam và Campuchia vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như sau:
Thứ nhất, việc triển khai Bản ghi nhớ hợp tác giữa Bộ Tư pháp Việt Nam và Bộ Tư pháp Campuchia trong thời gian qua còn chưa thực sự hiệu quả như mong muốn, số lượng các hoạt động hợp tác diễn ra còn khá khiêm tốn và gián đoạn.
Thứ hai, việc thực hiện Hiệp định Tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự giữa hai nước còn tương đối hạn chế, số lượng hồ sơ ủy thác tư pháp chưa nhiều, tập trung chủ yếu từ các yêu cầu của phía Việt Nam nhưng kết quả nhận được từ phía các Cơ quan có thẩm quyền của Campuchia còn ít; việc trao đổi và đánh giá tình hình thực hiện giữa hai Bên chưa được thực hiện thường xuyên; sự phối hợp giữa các cơ quan đầu mối trung ương chưa chặt chẽ, kịp thời.
Thứ ba, việc thực hiện trợ giúp pháp lý theo quy định tại Hiệp định tương trợ tư pháp giữa hai nước chưa được triển khai do chưa có hướng dẫn cụ thể về cơ quan có thẩm quyền xác nhận mức thu nhập hoặc/và tình trạng tài sản của người có đơn yêu cầu trợ giúp pháp lý cũng như trình tự, thủ tục chuyển đơn yêu cầu trợ giúp pháp lý thông qua các Cơ quan Trung ương; nhận thức của người dân về trợ giúp pháp lý còn hạn chế.
Thứ tư, công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật, hòa giải cơ sở cho cán bộ và nhân dân vùng biên giới nói riêng còn những tồn tại, hạn chế, đó là: sự phối kết hợp giữa các cơ quan, đơn vị, địa phương còn thiếu tính đồng bộ, nhiều hoạt động còn mang tính hình thức hoặc lồng ghép thực hiện; các tài liệu tuyên truyền, phổ biến chưa được dịch sang tiếng Khmer, người thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật chỉ biết tiếng Việt, không biết tiếng Khmer nên ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả thực hiện; nguồn nhân lực phục vụ cho công tác phổ biến giáo dục pháp luật và hòa giải cơ sở chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ đề ra. Ngoài ra, người dân vùng biên giới (gồm cả người Campuchia sống trên lãnh thổ Việt Nam) giải quyết mâu thuẫn phát sinh trong cuộc sống đa phần bằng phong tục tập quán riêng mà không giải quyết theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Thứ năm, hợp tác trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp giữa các địa phương khu vực biên giới hai nước, trong đó có hợp tác trong lĩnh vực phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý còn rất hạn chế do không có sự tương đồng về mặt cơ cấu tổ chức giữa hai bên và nguồn kinh phí hạn hẹp từ cả hai phía.
IV. Về đề xuất hợp tác pháp luật và tư pháp giữa Việt Nam - Campuchia trong thời gian tới:
  Với nền tảng quan hệ hữu nghị láng giềng truyền thống và hợp tác toàn diện giữa hai nước Việt Nam - Campuchia nêu trên, cùng với sự hợp tác toàn diện trong các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, khoa học công nghệ…, quan hệ hợp tác về pháp luật và tư pháp giữa Việt Nam và Lào nói chung, giữa Ngành Tư pháp hai nước nói riêng đã được thiết lập, không ngừng được mở rộng, tăng cường. Cho tới hôm nay, sau 10 năm thiết lập và được các thế hệ lãnh đạo và cán bộ Ngành Tư pháp hai nước đặc biệt quan tâm thúc đẩy, mối quan hệ này đã và đang ngày càng phát triển đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả với nội dung hợp tác phong phú cả ở cấp Trung ương và ở cấp địa phương, thông qua việc ký kết và triển khai thực hiện các Thỏa thuận, chương trình hợp tác giữa hai Bộ Tư pháp qua các thời kỳ.
  Mặc dù hợp tác giữa hai nước và hai ngành tư pháp đã có những phát triển về lượng và chất trong những năm gần đây nhưng tiềm năng và nhu cầu thúc đẩy sự hợp tác này vẫn còn rất lớn. Do đó, Bộ Tư pháp hai nước Việt Nam và Campuchia vẫn cần phải tiếp tục rà soát, nghiên cứu để tìm biện pháp thúc đẩy một số hoạt động hợp tác dưới đây sao cho có hiệu quả và thiết thực hơn. Một số ý tưởng đề xuất cho sự hợp tác này cụ thể như sau:
  Thứ nhất, hai Bên cần quán triệt và phối hợp chặt chẽ để thực hiện các nội dung hợp tác pháp luật và tư pháp đã được Chính phủ hai nước thống nhất tại Biên bản Kỳ họp lần thứ 17 Ủy ban hỗn hợp Việt Nam - Campuchia về Hợp tác Kinh tế, Văn hóa, Khoa học kỹ thuật, Thông cáo chung của Hội nghị Hợp tác và Phát triển các tỉnh biên giới Việt Nam - Campuchia lần thứ 10.
  Thứ hai, Bộ Tư pháp hai nước cần tích cực, chủ động triển khai có hiệu quả Bản Ghi nhớ về Hợp tác pháp luật và tư pháp giữa Bộ Tư pháp Việt Nam và Bộ Tư pháp Cam-pu-chia ký ngày 22/12/2009, nỗ lực triển khai các hoạt động đã đề ra trong Chương trình hợp tác các năm nhằm mở rộng và nâng cao hơn nữa hiệu quả hợp tác toàn diện về pháp luật và tư pháp giữa hai nước trong thời gian tới, góp phần thúc đẩy mối quan hệ láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài giữa hai nước; chú trọng tới tính hiệu quả, thực chất của các hoạt động hợp tác.
Thứ ba, Bộ Tư pháp hai nước tiếp tục tích cực phối hợp thực hiện các hoạt động hợp tác trong khuôn khổ ASEAN, trong đó cùng phối hợp thực hiện các hoạt động hợp tác pháp luật và tư pháp trong năm 2020 khi Việt Nam đảm nhận vai trò chủ tịch ASEAN.
  Thứ tư, các cơ quan hữu quan của hai nước tích cực triển khai thực hiện hiệu quả Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự, Hiệp định dẫn độ. Bộ Tư pháp hai nước tiến hành rà soát việc thực hiện Hiệp định, phối hợp nghiên cứu, hướng dẫn cụ thể phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã hội của hai nước, trao đổi thông tin về đầu mối liên lạc của mỗi Bên. Đồng thời, hai Bên sớm hoàn tất thủ tục nội bộ để Hiệp định Tương trợ tư pháp về hình sự và Hiệp định chuyển giao người bị kết án phạt tù ký ngày 20/12/2016 có hiệu lực và phối hợp thực hiện tốt các Hiệp định này sau khi có hiệu lực.
Thứ năm, hai Bên cần tăng cường phối hợp tuyên truyền, phổ biến pháp luật theo nhiều hình thức cho nhân dân hai nước sinh sống tại khu vực biên giới nâng cao ý thức chấp hành luật pháp của mỗi nước và các quy định được hai nước thống nhất, hiểu biết đầy đủ các quy định pháp luật về chủ quyền, an ninh biên giới, quy chế biên giới, về xuất nhập cảnh và các quy định pháp luật có liên quan của mỗi nước…
  Thứ sáu, các cơ quan thực hiện công tác tư pháp ở các tỉnh vùng biên giới hai nước Việt Nam - Campuchia chủ động kết nối, triển khai các hoạt động hợp tác pháp luật và tư pháp, tăng cường các cuộc trao đổi, chia sẻ chuyên môn dưới nhiều hình thức, nghiên cứu, đề xuất nội dung hợp tác về pháp luật và tư pháp vào Thỏa thuận/ Bản ghi nhớ hợp tác chung giữa các địa phương vùng biên giới Việt Nam - Campuchia.
  PHẦN II. GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ CÁC CƠ QUAN PHÁP LUẬT VÀ TƯ PHÁP CỦA VƯƠNG QUỐC CAMPUCHIA
Hệ thống pháp luật của Campuchia theo truyền thống dân luật và chịu sự ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Pháp. Quyền lực nhà nước được phân chia thành 03 nhánh quyền lực: lập pháp (Nghị viện), hành pháp (Chính phủ) và tư pháp (tòa án). Quyền lực tối cao của Nhà nước thuộc về Nghị viện. Nghị viện có chức năng thông qua và sửa đổi Hiến pháp và pháp luật, giám sát việc thực hiện pháp luật, quyết định các chính sách về đối nội và đối ngoại, thông qua chương trình kinh tế, văn hoá và ngân sách nhà nước; bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm thành viên của Hội đồng Bộ trưởng, quyết định các chính sách thuế, phê chuẩn điều ước quốc tế. Hội đồng Bộ trưởng đứng đầu là Chủ tịch (hay còn gọi là Thủ tướng) nắm quyền hành pháp. Toà án là cơ quan xét xử cao nhất và độc lập trong việc xét xử.
1. Cơ quan lập pháp (Nghị viện)
Lưỡng viện (ngày 08/3/1999 Campuchia sửa đổi Hiến pháp, lập thêm Thượng viện).
 - Quốc hội:  gồm ít nhất 120 ghế; bầu đại biểu theo chế độ phổ thông đầu phiếu, nhiệm kỳ 5 năm.
 - Thượng viện: Nhiệm kỳ 5 năm; Thượng viện có số ghế không hơn một nửa của Quốc hội, trong đó 02 ghế do Quốc vương bổ nhiệm, 02 ghế do Quốc hội chỉ định.
2. Chính phủ hoàng gia
Đứng đầu Chính phủ là Thủ tướng và các Phó Thủ tướng. Nội các là Hội đồng Bộ trưởng do Nhà vua ký sắc lệnh bổ nhiệm. Các thành viên Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội về các chính sách của Chính phủ Hoàng gia và mỗi Thành viên của Chính phủ hoàng gia chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng và Quốc hội về việc thực hiện nhiệm vụ của mình.
*Bộ Tư pháp
- Là cơ quan chịu trách nhiệm xây dựng, ban hành và thực thi các chính sách pháp luật của Chính phủ Hoàng gia. Nhiệm vụ của Bộ Tư pháp là đảm bảo cơ sở pháp lý để hỗ trợ cho việc thực thi các mục tiêu kinh tế và xã hội của Campuchia
- Bộ Tư pháp có những nhiệm vụ cụ thể như sau:
+ Bảo vệ sự độc lập của thẩm phán khi thực thi các nhiệm vụ của họ tại tòa án;
+ Thực thi công lý cho mọi người trước pháp luật;
+ Tổ chức và kiểm tra quy trình hành chính của tòa án;
+ Quản lý các cán bộ công chức của Bộ Tư pháp;
+ Đảm bảo chức năng của toàn án và cơ quan công tố và ban hành pháp luật điều chỉnh các cơ quan này;
+ Đào tạo và phổ biến pháp luật liên quan đến các hoạt động tư pháp;
+ Đảm bảo áp dụng đúng đắn các lệnh của tòa án, các phán quyết của tòa và lệnh của công tố viên;
+ Tiếp tục thực thi phán quyết của tòa án, kiểm tra việc thu giữ nhà và bắt giam với các mục đính thực thi luật nói riêng;
+ Quản lý và ban hành danh sách các hồ sơ bản án;
+ Thừa nhận, chuẩn bị và quản lý việc ân xá hoặc xóa tội theo quy định của pháp luật;
+ Thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ công lý;
+ Thực hiện các nhiệm vụ khác do Chính phủ Hoàng gia giao;
- Bộ Tư pháp Campuchia có các đơn vị sau:
+ Ban Thanh tra.
+ Tổng Vụ Nghiên cứu và phát triển tư pháp.
+ Vụ Hành chính và tổng hợp.
+ Vụ Tổ chức cán bộ và đào tạo.
+ Vụ Dân sự.
+ Vụ Hình sự và ân xá.
+ Vụ Công tố.
+ Vụ Hợp tác quốc tế.
3. Hệ thống tư pháp
Hội đồng Thẩm phán tối cao
- Hội đồng Thẩm phán Tối cao là cơ quan giúp Nhà Vua đảm bảo sự độc lập của bộ máy tư pháp.
- Hội đồng Thẩm phán Tối cao có các quyền hạn và nhiệm vụ như sau:
  • Đề xuất lên Nhà Vua về việc bổ nhiệm, thuyên chuyển và thăng chức cho các Thẩm phán và các Công tố viên;
  • Kỷ luật các Thẩm phán và các Công tố viên có vi phạm;
  • Đưa ra quyết định cho thôi việc đối với các Thẩm phán hoặc các Công tố viên theo đề nghị của họ.
- Hội đồng Thẩm phán Tối cao do Nhà Vua đứng đầu. Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chánh án Tòa án Tối cao, Tổng Công tố của Tòa án Tối cao, Chánh án Tòa án phúc thẩm, Tổng công tố của Tòa án Phúc thẩm, Chánh Tòa Phúc thẩm và 3 thẩm phán được bầu có trách nhiệm giúp Nhà Vua trong Hội đồng Thẩm phán Tối cao. Nhà Vua có thể chỉ định một đại diện chủ trì Hội đồng.
Hệ thống tòa án
- Tòa án là một trong ba trụ cột của bộ máy Nhà nước. Tòa án thực thi pháp luật độc lập với cơ quan lập pháp và hành pháp. Nhà Vua đảm bảo sự độc lập này cho tòa án theo quy định của Hiến pháp Vương quốc Campuchia. Theo quy định pháp luật, quyền lực của tòa án được giao cho Tòa án Tối cao và các tòa án cấp dưới ở tất các cấp. Hệ thống tòa án được chia thành 3 cấp:
  • Sơ thẩm: Tòa án cấp tỉnh;
  • Phúc thẩm: Tòa Phúc thẩm; và
  • Cấp giám đốc thẩm/tái thẩm (chung thẩm): Tòa án tối cao.
    • Bên cạnh đó còn có Tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử đối với các vụ án có liên quan tới quân nhân. Bộ Quốc phòng là cơ quan quản lý về mặt tài chính, hành chính và hậu cần đối với Tòa án quân sự.
Cơ quan Tổng Công tố
  - Cơ quan Tổng Công tố được đặt bên cạnh Tòa án Tối cao. Theo quy định pháp luật, Cơ quan Tổng Công tố có quyền hạn sau:
+ Thực thi quyền công tố trong tố tụng hình sự;
+ Bảo đảm tính hợp pháp của hoạt động điều tra;
+ Kiểm tra tài liệu của các cơ quan điều tra về tội phạm và vi phạm pháp luật;
+ Tự tiến hành điều tra theo thẩm quyền trong trường hợp cần thiết hoặc tiến hành điều tra bổ sung.
+ Tham gia các vụ án dân sự có ảnh hưởng tới lợi ích Nhà nước, người chưa thành niên và người không đủ năng lực hành vi;
+ Thu thập thông tin và chứng cứ phục vụ cho việc đưa ra kết luận tại phiên xét xử.
- Cơ quan Tổng Công tố gồm các đơn vị:
+ Văn phòng Điều tra và giám sát điều tra.
+ Văn phòng về các vấn đề hình sự.
+ Văn phòng về các vấn đề dân sự.
 
 
[1] Theo Hiệp định: 46 yêu cầu, theo Kênh ngoại giao: 34 yêu cầu.
[2] Theo Hiệp định: 18 kết quả, theo Kênh ngoại giao: 34 kết quả