(Dự thảo 1) BÁO CÁO SƠ KẾT TIẾN TÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TÒA GIA ĐÌNH VÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
Sign In

(Dự thảo 1) BÁO CÁO SƠ KẾT TIẾN TÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TÒA GIA ĐÌNH VÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN

III. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ  
Trên cơ sở đánh giá những kết quả đạt được, những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân cần đưa ra các đề xuất, kiến nghị, tập trung vào một số nội dung trọng tâm như sau:
1.Hoàn thiện tổ chức Tòa Gia đình và người chưa thành niên
1.1. Đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định cụ thể của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014
- Thành lập Tòa Gia đình và người chưa thành niên khu vực
1.2. Đề xuất hoàn thiện các văn bản pháp luật có liên quan
2. Xây dựng kế hoạch tổng thể về tư pháp người chưa thành niên
- Việc xây dựng kế hoạch tổng thể về tư pháp người chưa thành niên là rất cần thiết. Trong đó xác định rõ định hướng xây dựng một hệ thống tư pháp người chưa thành niên toàn diện, với các bước đi ngắn, trung, dài hạn hợp lý và khả thi, nhằm phòng ngừa và ứng phó hiệu quả, đồng bộ đối với vi phạm pháp luật của người chưa thành niên. Kế hoạch này cần được xây dựng nhằm hướng tới việc bảo đảm các nguyên tắc chủ đạo lợi ích tốt nhất của trẻ em. Do đó hệ thống tư pháp cho người chưa thành niên cần bảo đảm lợi ích tốt nhất của người chưa thành niên phải là mối quan tâm hàng đầu trong bất kỳ hoạt động hành chính hay tư pháp nào có liên quan tới người chưa thành niên.
- Hệ thống tư pháp người chưa thành niên phải bảo đảm trình tự, thủ tục xử lý người chưa thành niên vi phạm pháp luật khác với người đã thành niên trong quá trình xử lý vi phạm hành chính hoặc hình sự. Đồng thời hướng tới mục tiêu thúc đẩy sự phục hồi của người chưa thành niên thay vì trừng phạt đơn thuần. Kinh nghiệm quốc tế đã chỉ ra rằng cách thức có hiệu quả nhất để giảm vi phạm pháp luật của người chưa thành niên và bảo đảm an toàn của cộng đồng là thực hiện các biện pháp can thiệp thích hợp, có hiệu quả để giúp người chưa thành niên nhận thức được lỗi lầm của mình và đi theo con đường trở thành công dân có ích, tuân thủ pháp luật. Cần tập trung xác định và giải quyết những nguyên nhân dẫn đến vi phạm pháp luật tiềm ẩn trong gia đình, nhà trường và cộng đồng, đằng sau hành vi của người chưa thành niên.
- Hệ thống tư pháp người chưa thành niên cần bảo đảm rằng người chưa thành niên được đối xử một cách phù hợp với độ tuổi và khả năng dễ bị tổn thương đặc biệt của các em ở tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự và hành chính.
3. Kiến nghị xây dựng Luật Tư pháp người chưa thành niên
2.1. Về đối tượng điều chỉnh của Luật Tư pháp người chưa thành niên
Hệ thống pháp luật hiện hành của Việt Nam vẫn còn có phân biệt giữa các đối tượng là trẻ em (người dưới 16 tuổi), người chưa thành niên (chưa đủ 18 tuổi), chưa rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc bảo vệ, xử lý người chưa thành niên. Do đó, khi xây dựng đối tượng điều chỉnh của Luật cần chú ý:
- Thống nhất sử dụng thuật ngữ “người chưa thành niên” là “người dưới 18 tuổi” để phù hợp với thông lệ quốc tế.
- Tư pháp người chưa thành niên là đó là người chưa thành niên bị tác động, ảnh hưởng trực tiếp bởi một số quyết định, phán quyết của Tòa án, cơ quan có thẩm quyền bao gồm: (1) Người chưa hành vi phạm hành chính; (2) Người chưa thành niên là bị can, bị cáo trong các vụ án hình sự; (3) Người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng trong các vụ án hình sự; (4) Người chưa thành niên là người chấp hành án phạt tù, học sinh đưa vào trường giáo dưỡng; (5) Người chưa thành niên là người nghiện ma túy.
2.2. Một số nội dung cần hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung
- Chuyên môn hóa hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng tại tất cả các giai đoạn điều tra, truy tố mà không chỉ dừng lại ở giai đoạn xét xử như hiện hành. Quy định các tiêu chuẩn về trình độ, kiến thức chuyên nghiệp về người chưa thành niên của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Luật sư... Khi tham gia quá trình tố tụng về người chưa thành niên.
- Nghiên cứu, đổi mới việc tổ chức Tòa gia đình và người chưa thành niên, theo hướng Tòa gia đình và người chưa thành niên chuyên biệt, mỗi đơn vị Tòa án nhân dân cấp tỉnh thiết lập 01 Tòa gia đình.
- Hoàn thiện, minh bạch, rõ ràng chế tài xử lý vi phạm đối với người chưa thành niên: (1) Thay thế việc xử lý vi phạm đối với người chưa thành niên bởi 02 hệ thống hình sự và hành chính như hiện nay bằng 01 hệ thống xử lý vi phạm thống nhất; (2) Nghiên cứu, mở rộng các pháp xử lý vi phạm theo xu hướng chung của quốc tế; (3) Nghiên cứu, bỏ các biện pháp xử lý vi phạm hành chính không còn phù hợp.
- Hoàn thiện, đổi mới quy trình thủ tục tố tụng tư pháp: Nghiên cứu, thiết lập quy trình tố tụng tư pháp người chưa thành niên “khép kín”, từ giai đoạn tiếp nhận, xử lý vi phạm đến tổ chức thi hành và tái hòa nhập cộng đồng; Nghiên cứu, bổ sung quy định thành một chương riêng về thủ tục tố tụng đặc thù đối với người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng, đương sự trong vụ án hình sự; Đổi mới thủ tục xét xử, theo đó nghiên cứu quy định về thủ tục xét xử gồm 02 giai đoạn: (1) Phiên tòa định tội danh và xem xét áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng; (2) Phiên tòa quyết định hình phạt. Giữa 02 giai đoạn này là thời gian thử thách.
- Nghiên cứu, mở rộng áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng. Quy định điều kiện áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng. Quy định hậu quả pháp lý của việc không tuân thủ, tuân thủ áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng. Hoàn thiện, đổi mới cơ chế thi hành các biện pháp xử lý chuyển hướng.
- Đổi mới cơ chế thi hành án phạt tù: (1) Quy định về thi hành án phạt tiền, cải tạo không giam giữ; Trình tự, thủ tục thi hành; (2) Quy định cụ thể trách nhiệm của cha, mẹ hoặc người đại diện hợp pháp; vai trò của nhân viên công tác xã hội; (3) Quy định về quyền được bảo đảm tham gia học tập hoặc học nghề theo nguyện vọng của người chưa thành niên; (4) Quy định về thi hành án phạt tù; Cơ sở giam giữ riêng, thân thiện; quyền của người chưa thành niên; tiêu chuẩn tối thiểu để chăm sóc và đối xử với người chưa thành niên (bao gồm điều kiện vật chất và chỗ ở, giáo dục, đào tạo nghề và làm việc; giải trí, chăm sóc y tế, tiếp xúc với gia đình và cộng đồng...).
- Đổi mới, hoàn thiện, nâng cao thiết chế tái hòa nhập cộng đồng: Hỗ trợ người chưa thành niên phục hồi nhân phẩm, tái hòa nhập xã hội, cộng đồng, bảo vệ lợi ích của người chưa thành niên, của xã hội, cần đổi mới, hoàn thiện nâng cao thiết chế tái hòa nhập cộng đồng, theo đó nghiên cứu, bổ sung quy định chuẩn bị trả tự do; Hỗ trợ và giám sát sau khi trả tự do; Trách nhiệm của nhân viên công tác xã hội. Thống nhất, đồng bộ các quy định về giảm thời hạn chấp hành án phạt tù; Tha tù trước thời hạn có điều kiện; Đặc xá tại các đạo luật khác nhau và văn bản quy định chi tiết còn tồn tại ở nhiều tầng nấc.
2. Về công tác tổ chức Tòa Gia đình và người chưa thành niên
Đẩy mạnh việc bổ nhiệm Thẩm phán chuyên trách về GĐ&NCTN tại các TAND chưa đủ điều kiện thành lập Toà GĐ&NCTN và thành lập Toà GĐ&NCTN tại các TAND đã đủ điều kiện thành lập Toà GĐ&NCTN, đặc biệt tại cấp sơ thẩm. Đảm bảo tính chuyên trách của các Thẩm phán về GĐ&NCTN tại các Toà GĐ&NCTN và các TAND khác nơi chưa đủ điều kiện thành lập Toà GĐ&NCTN. Cân đối thêm về vấn đề luân chuyển cán bộ và tỷ lệ huỷ, sửa án để đảm bảo tính chuyên trách trong hoạt động xét xử của các Thẩm phán. Tăng cường việc áp dụng các biện pháp xử lý chuyển hướng hay các biện pháp thay thế bên cạnh việc tiếp tục duy trì thực hiện tốt các thủ tục tố tụng thân thiện và bảo đảm cân nhắc lợi ích tốt nhất của NCTN khi ra quyết định, bản án.
Phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan, tổ chức khác xây dựng quy chế/cơ chế phối hợp để giải quyết các vụ án có sự tham gia của NCTN không chỉ giới hạn trong một số loại án nhất định, và đảm bảo sự hỗ trợ đối với NCTN hiện hữu và xuyên suốt quá trình trước, trong và sau tố tụng. Đặc biệt, cần nghiên cứu các phương án giúp tăng cường dịch vụ công tác xã hội mang tính chuyên nghiệp, xây dựng đội ngũ nhân viên công tác xã hội chuyên trách ở cấp huyện và bán chuyên ở cấp xã để xác định và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của NCTN trong hoạt động tố tụng. Trong trường hợp đã xây dựng được đội ngũ nhân viên công tác xã hội, cần cân nhắc thêm về sự cần thiết và tính hiệu quả của việc tham gia vào quá trình tố tụng đối với một số tổ chức như Hội Liên hiệp phụ nữ, Đoàn Thanh niên, nhà trường...
Thúc đẩy chuyên môn hoá tại các cơ quan tiến hành tố tụng khác cũng như tại các cơ quan, tổ chức khác có liên quan. Tiến tới xây dựng đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên chuyên trách có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và kinh nghiệm giải quyết các vụ việc liên quan tới NCTN. Việc chuyên môn hoá cũng nên được đảm bảo tại các cơ quan, tổ chức khác như tại các Trung tâm TGPL hay Đoàn Luật sư (có thể xây dựng đội ngũ TGVPL/Luật sư chuyên về NCTN theo khu vực thay vì theo mỗi địa phương để phù hợp với thực tế số lượng án liên quan tới NCTN và số lượng TGVPL/Luật sư tại các địa phương).
Xây dựng Luật Tư pháp NCTN và hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan tới tổ chức hệ thống Toà án, bao gồm cả vấn đề biên chế nhân sự. Việc xây dựng Luật Tư pháp NCTN sẽ giúp hệ thống hoá các quy định về giải quyết các vụ việc có sự tham gia của NCTN, và nên được soạn thảo theo hướng đảm bảo tính chuyên môn hoá/chuyên trách về giải quyết vụ việc liên quan tới NCTN (không chỉ giới hạn trong một số loại vụ án nhất định) một cách xuyên suốt trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bao gồm cả các hoạt động hỗ trợ NCTN trước và sau tố tụng (như quản lý trường hợp). Việc xây dựng Luật Tư pháp NCTN sẽ góp phần khắc phục những hạn chế, vướng mắc trong khung pháp luật hiện hành, đồng thời giúp hệ thống pháp luật Việt Nam tiệm cận hơn nữa các thực tiễn tốt quốc tế. Cần nghiên cứu việc thành lập TAND vùng/khu vực để xét xử sơ thẩm thay thế TAND cấp huyện ở khu vực nông thôn (vẫn có thể duy trì TAND cấp huyện tại các đô thị, nếu phù hợp) để giải quyết bài toán về biên chế nhân sự và kinh phí, cơ sở vật chất. Đặc biệt, cần thống nhất các quy định, hướng dẫn về điều kiện thành lập Toà chuyên trách về GĐ&NCTN để tránh tình trạng văn bản hướng dẫn đặt ra thêm các điều kiện khác ngoài các điều kiện đã được quy định tại văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ sáu, hoàn thiện hệ thống dữ liệu về GĐ&NCTN tại các Toà GĐ&NCTN và các TAND khác nơi chưa đủ điều kiện thành lập Toà GĐ&NCTN. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong thống kê dữ liệu của hệ thống Toà án để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của việc thu thập dữ liệu và khả năng thu thập, phân tách dữ liệu theo yêu cầu phục vụ cho quá trình ra quyết định chính sách liên quan tới NCTN. Tăng cường phối hợp với Bộ Công an, VKSNDTC, Bộ LĐTBXH, Bộ Tư pháp (Cục TGPL) trong quá trình thu thập dữ liệu về NCTN tham gia tố tụng, đảm bảo tính thống nhất của dữ liệu được thu thập cũng như tính hiệu quả của việc sử dụng dữ liệu.
ĐỀ XUẤT TIẾN TRÌNH HOÀN THIỆN TÒA GIA ĐÌNH VÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN NHƯ SAU
  GIAI ĐOẠN 2022 - 2024 GIAI ĐOẠN 2025 - 2030
Nhóm hoạt động 1: Nâng cao năng lực cho Thẩm phán, Thư ký Toà án và Thẩm tra viên
 
1.1. Hoạt động đào tạo
  • Xây dựng chương trình đào tạo cơ bản và chuyên sâu cho Thẩm phán về kiến thức, kỹ năng giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của Toà GĐ&NCTN.
  • Đào tạo và cấp chứng chỉ cho 50% Thẩm phán Toà GĐ&NCTN, Thẩm phán chuyên trách về GĐ&NCTN, và các Thẩm phán khác có xét xử các vụ án, vụ việc liên quan tới NCTN.
  • Hoàn hiện chương trình đào tạo cơ bản và chuyên sâu cho Thẩm phán.
  • Xây dựng chương trình đào tạo tương ứng cho Thư ký Toà án và Thẩm tra viên.
  • Đào tạo và cấp chứng chỉ cho 100% Thẩm phán Toà GĐ&NCTN, Thẩm phán chuyên trách về GĐ&NCTN và các Thẩm phán khác có xét xử các vụ án, vụ việc liên quan tới NCTN.
1.2. Hoạt động tập huấn, bồi dưỡng
  • Đẩy mạnh việc tập huấn và bồi dưỡng thường xuyên kiến thức, kỹ năng phục vụ cho quá trình giải quyết các vụ việc liên quan tới NCTN cho các Thẩm phán Toà GĐ&NCTN, Thẩm phán chuyên trách về GĐ&NCTN và các Thẩm phán khác có xét xử các vụ án, vụ việc liên quan tới NCTN cũng như cho đội ngũ Thư ký Toà án và Thẩm tra viên.
  • 50% Thẩm phán, Thư ký Toà án và Thẩm tra viên của các Toà GĐ&NCTN, Thẩm phán chuyên trách về GĐ&NCTN, và các Thẩm phán khác có xét xử các vụ án, vụ việc liên quan tới NCTN trên cả nước được tập huấn, bồi dưỡng hàng năm về các kiến thức, kỹ năng phục vụ cho quá trình giải quyết các vụ việc liên quan tới NCTN.
  • Xây dựng nội dung tập huấn, bồi dưỡng theo hướng chú trọng vào các kiến thức xã hội, chuyên ngành liên quan tới gia đình và NCTN (sự phát triển của NCTN, tâm lý, khoa học giáo dục, nhạy cảm giới…) và kỹ năng làm việc thân thiện với NCTN trong quá trình tố tụng.
  • Tiếp tục tập huấn và bồi dưỡng thường xuyên kiến thức, kỹ năng phục vụ cho quá trình giải quyết các vụ việc liên quan tới NCTN cho các Thẩm phán Toà GĐ&NCTN, Thẩm phán chuyên trách về GĐ&NCTN và các Thẩm phán khác có xét xử các vụ án, vụ việc liên quan tới NCTN cũng như cho đội ngũ Thư ký Toà án và Thẩm tra viên.
  • 100% Thẩm phán, Thư ký Toà án và Thẩm tra viên của các Toà GĐ&NCTN, Thẩm phán chuyên trách về GĐ&NCTN, và các Thẩm phán khác có xét xử các vụ án, vụ việc liên quan tới NCTN trên cả nước được tập huấn, bồi dưỡng hàng năm về các kiến thức, kỹ năng phục vụ cho quá trình giải quyết các vụ việc liên quan tới NCTN.
  • Đánh giá và bổ sung các nội dung tập huấn và bồi dưỡng cần thiết cho giai đoạn này.
Nhóm hoạt động 2: Đẩy mạnh việc thành lập Toà GĐ&NCTN, bổ nhiệm Thẩm phán chuyên trách và tính chuyên trách của hoạt động xét xử 2.1. Thành lập Toà GĐ&NCTN
  • Thành lập Toà GĐ&NCTN tại 30% TAND cấp huyện nơi đáp ứng đủ điều kiện thành lập Toà GĐ&NCTN (ưu tiên các TAND quận thuộc các thành phố trực thuộc Trung ương).
  • Thành lập Toà GĐ&NCTN tại 100% TAND cấp tỉnh nơi đáp ứng đủ điều kiện thành lập Toà GĐ&NCTN.
  • Thành lập Toà GĐ&NCTN tại TAND cấp cao tại Đà Nẵng.
  • Thành lập Toà GĐ&NCTN tại 100% TAND cấp huyện/cấp vùng nơi đáp ứng đủ điều kiện thành lập Toà GĐ&NCTN.
2.2. Bổ nhiệm Thẩm phán chuyên trách
  • Bổ nhiệm Thẩm phán chuyên trách tại 30% các Toà cấp huyện nơi chưa đáp ứng điều kiện thành lập Toà GĐ&NCTN và 100% Toà cấp tỉnh nơi chưa đáp ứng điều kiện thành lập Toà GĐ&NCTN.
  • Bổ nhiệm Thẩm phán chuyên trách tại 100% các Toà cấp huyện/cấp vùng nơi chưa đáp ứng điều kiện thành lập Toà GĐ&NCTN.
2.3. Các hoạt động khác nhằm đảm bảo tính chuyên trách
  • Đảm bảo 30% vụ án, vụ việc thuộc thẩm quyền của Toà GĐ&NCTN được xét xử tại các Toà GĐ&NCTN hoặc bởi Thẩm phán chuyên trách về GĐ&NCTN.
  • Đảm bảo 100% vụ án, vụ việc thuộc thẩm quyền của Toà GĐ&NCTN được xét xử tại các Toà GĐ&NCTN hoặc bởi Thẩm phán chuyên trách về GĐ&NCTN.
  • Nghiên cứu sửa đổi cơ chế luân chuyển cán bộ và tỷ lệ huỷ, sửa án để góp phần đảm bảo tính chuyên trách trong hoạt động xét xử của các Thẩm phán.
  • Hoàn thiện cơ chế luân chuyển cán bộ và tỷ lệ huỷ, sửa án để góp phần đảm bảo tính chuyên trách trong hoạt động xét xử của các Thẩm phán.
Nhóm hoạt động 3: Xây dựng và triển khai Luật Tư pháp NCTN và Luật sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức TAND 2014
 
3.1. Xây dựng Luật Tư pháp NCTN
Xây dựng và ban hành Luật Tư pháp NCTN (và các văn bản quy định chi tiết, nếu có) theo hướng chú trọng vào các quy định:
  • Đảm bảo tính chuyên trách xuyên suốt quá trình trước, trong và sau tố tụng và cũng như sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với các cơ quan, tổ chức khác;
  • Tăng cường khả năng áp dụng các biện pháp xử lý chuyển hướng và các biện pháp thay thế;
  • Xác định cơ sở pháp lý rõ ràng cho hoạt động của đội ngũ nhân viên công tác xã hội trong các vụ việc có sự tham gia của NCTN; và
  • Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong thống kê dữ liệu về tư pháp NCTN.
  • Tổ chức đánh giá định kỳ về sự phù hợp của các quy định pháp luật và tính hiệu quả của quá trình thực thi Luật Tư pháp NCTN và các văn bản quy định chi tiết, nếu có.
3.2. Xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức TAND 2014
Xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức TAND 2014 (và các văn bản quy định chi tiết, nếu có), chú trọng các quy định về:
  • TAND cấp vùng thay thế TAND cấp huyện; và
  • Hoàn thiện và thống nhất các quy định về điều kiện tổ chức Toà GĐ&NCTN theo hướng chú trọng vào Thẩm phán thay vì bộ máy hành chính của Toà chuyên trách.
  • Tổ chức đánh giá định kỳ về sự phù hợp của các quy định pháp luật và tính hiệu quả của quá trình thực thi Luật sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức TAND 2014 và các văn bản quy định chi tiết, nếu có.