1. Một số cách thức tiếp cận và sử dụng trợ giúp pháp lý của người dân
* Tiếp cận pháp luật
Tiếp cận pháp luật vừa là một nhu cầu khách quan, vừa là yêu cầu trong xã hội được quản lý bằng pháp luật của Nhà nước, khi mà pháp luật trở thành quy tắc xử sự chung của cả cộng đồng và đòi hỏi các cá nhân trong cộng đồng đó phải có trách nhiệm tuân thủ, tự giác chấp hành. Tiếp cận pháp luật nói chung có vai trò quan trọng trong việc hình thành ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, giúp con người có hành vi ứng xử văn minh, phù hợp với chiều hướng phát triển tiến bộ của thời đại, đặc biệt là trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Do đó tăng cường năng lực tiếp cận pháp luật có vai trò rất lớn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đảm bảo thực hiện dân chủ đồng thời phát huy vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội. Nhà nước pháp quyền đặt ra yêu cầu phải có hệ thống pháp luật đồng bộ, khả thi; người dân tiếp cận được các quy định của pháp luật; các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân luôn tuân thủ pháp luật; kiên quyết đấu tranh chống mọi hành vi vi phạm pháp luật; nghiêm túc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân đã được pháp luật quy định...
Nội dung của tiếp cận pháp luật bao gồm quá trình nắm bắt, tìm hiểu, nhận thức về pháp luật và sự vận hành của pháp luật trong thực tiễn; quá trình vận dụng kiến thức, hiểu biết về pháp luật để thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý trong từng sự kiện, hoàn cảnh, tình huống pháp lý cụ thể cũng như quá trình vận dụng, sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể pháp luật; quá trình nhận thức về các hành vi xã hội, về sự thẩm thấu của pháp luật trong đời sống xã hội, gắn với quá trình tác động của Nhà nước và pháp luật lên các chủ thể pháp luật, qua đó, giúp các chủ thể pháp luật hình thành tình cảm pháp luật, thói quen ứng xử phù hợp với các chuẩn mực, đòi hỏi của pháp luật.
Hiện nay, có một số hình thức tiếp cận pháp luật cơ bản sau đây:
- Thông tin pháp luật do các cơ quan Nhà nước và các tổ chức đoàn thể xã hội, các cá nhân thực hiện, nhằm cung cấp những thông tin cơ bản về các quy định của pháp luật trong hệ thống pháp luật thực định, được thể hiện trong các văn bản để người dân có thể chủ động tiếp cận hoặc tìm hiểu mỗi khi có nhu cầu.
- Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật được thực hiện bởi cơ quan, tổ chức, cá nhân, các phương tiện thông tin đại chúng, các cơ sở nghiên cứu, đào tạo luật, các trường học, các thiết chế xã hội, đặc biệt là các hoạt động tích cực của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức trong quá trình thực thi công vụ.
- Các dịch vụ pháp lý, bao gồm dịch vụ pháp lý có thu phí (do các luật sư và tổ chức hành nghề luật sư, tư vấn viên pháp luật và các trung tâm tư vấn pháp luật cung cấp) và dịch vụ pháp lý không thu phí (do các trung tâm, chi nhánh của Trung tâm trợ giúp pháp lý; các luật sư thực hiện theo nghĩa vụ hoặc các tổ chức, cá nhân tự nguyện cung cấp dịch vụ pháp lý) nhằm giúp đỡ, hỗ trợ nhân dân thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý cũng như bảo vệ các quyền và nghĩa vụ được pháp luật quy định.
- Các hình thức giúp đỡ pháp luật mang tính chất nhà nước được thực hiện bởi các cơ quan, tổ chức nhà nước; các cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang trong quá trình thực thi công vụ, giải quyết các công việc gắn liền với quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
- Các hình thức giúp đỡ pháp luật mang tính cộng đồng được thực hiện bởi các tổ chức đoàn thể xã hội trong quá trình giúp đỡ, vận động các thành viên, hội viên thực hiện pháp luật; qua hoạt động của các tổ hoà giải ở cơ sở, câu lạc bộ về pháp luật, các cá nhân có uy tín trong cộng đồng và các cá nhân có kiến thức pháp luật.
Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng các hình thức tiếp cận pháp luật trên đây chủ yếu là các hình thức tác động từ phía Nhà nước và xã hội lên chủ thể pháp luật như là những nhân tố khách quan mà chưa bao hàm nhân tố chủ quan, trong khi đó, nhân tố chủ quan trong tiếp cận pháp luật lại rất quan trọng. Đây là nhân tố quyết định đến nội dung tiếp cận pháp luật bởi lẽ nó xuất phát từ chính nhu cầu của các chủ thể pháp luật. Chính từ nhu cầu của mình, mỗi chủ thể sẽ tích cực, tự giác, chủ động tìm hiểu, học tập pháp luật; nắm bắt và nâng cao tri thức hiểu biết về pháp luật để từ đó chuyển tải thành những hành vi tích cực pháp luật cụ thể, kiềm chế đến mức thấp nhất việc thực hiện các hành vi vi phạm, tiêu cực hoặc xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác.
Bên cạnh đó, hiện nay có các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật như: (1) họp báo, thông cáo báo chí; (2) phổ biến pháp luật trực tiếp; tư vấn, hướng dẫn tìm hiểu pháp luật; cung cấp thông tin, tài liệu pháp luật; (3) thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, loa truyền thanh, internet, pa-nô, áp-phích, tranh cổ động; đăng tải trên Công báo; đăng tải thông tin pháp luật trên trang thông tin điện tử; niêm yết tại trụ sở, bảng tin của cơ quan, tổ chức, khu dân cư; (4) Tổ chức thi tìm hiểu pháp luật; (5) Thông qua công tác xét xử, xử lý vi phạm hành chính, hoạt động tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và hoạt động khác của các cơ quan trong bộ máy nhà nước; thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý, hòa giải ở cơ sở; (6) Lồng ghép trong hoạt động văn hóa, văn nghệ, sinh hoạt của tổ chức chính trị và các đoàn thể, câu lạc bộ, tủ sách pháp luật và các thiết chế văn hóa khác ở cơ sở; (7) Thông qua chương trình giáo dục pháp luật trong các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân; (8) Các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật khác
[1] phù hợp với từng đối tượng cụ thể mà các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền có thể áp dụng để bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đem lại hiệu quả.
* Trợ giúp pháp lý
Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật. Trợ giúp pháp lý ở Việt Nam hình thành từ năm 1997, đến nay trải qua hơn 26 năm hình thành và phát triển đã đạt được nhiều kết quả và có vai trò quan trọng trong bảo vệ quyền con người trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật: hoạt động trợ giúp pháp lý góp phần bảo đảm công bằng trong việc tiếp cận pháp luật, tiếp cận công lý đồng thời góp phần bảo đảm chính sách an sinh xã hội, phát triển kinh tế - xã hội tại Việt Nam; góp phần bảo đảm tố tụng tư pháp dân chủ, công bằng, văn minh, pháp quyền, hiện đại, nghiêm minh, dễ tiếp cận. Thông qua các vụ việc trợ giúp pháp lý đã bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được trợ giúp pháp lý, nhất là khi họ rơi vào tình trạng bị buộc tội, nguy cơ bị tước quyền tự do, chính là lúc Nhà nước cần có sự trợ giúp, hỗ trợ để họ được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình...; đồng thời góp phần thực thi công lý, giúp Tòa án thực hiện đúng nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, đưa ra các phán quyết đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế lượng án oan sai trong các phiên tòa hình sự, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, phù hợp với mục tiêu cải cách tư pháp. Với vai trò như vậy, hệ thống trợ giúp pháp lý có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm tiếp cận công lý. Hệ thống này có vai trò kép, đó là hỗ trợ nhân dân hiểu biết về pháp luật và giúp đỡ nhân dân trong việc theo đuổi các vụ việc ở các hệ thống tư pháp để giải quyết các vướng mắc pháp luật, tìm kiếm sự đền bù, khắc phục khi các quyền và lợi ích hơp pháp bị vi phạm mà không phải trả tiền hoặc bất kỳ lợi ích nào khác.
- Các cách tiếp cận trợ giúp pháp lý của người dân hiện nay
Qua nghiên cứu và thực tiễn triển khai nhiệm vụ trợ giúp pháp lý có thể thấy rằng hiện nay người dân có thể tiếp cận dịch vụ trợ giúp pháp lý thông qua nhiều cách thức khác nhau, chẳng hạn như:
(i) Người dân biết đến dịch vụ trợ giúp pháp lý và trực tiếp đến Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước yêu cầu trợ giúp pháp lý.
Trợ giúp pháp lý đã hình thành và phát triển ở Việt Nam hơn 26 năm và nhiều vụ việc TGPL đã được thực hiện nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho người dân thuộc nhóm người nghèo và đối tượng chính sách. Nhiều vụ việc TGPL được đánh giá là thành công, hiệu quả, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ. Vì thế, người dân đã biết đến TGPL và tự mình tìm đến tổ chức thực hiện TGPL để yêu cầu TGPL. Có người đã được trợ giúp pháp lý nhiều lần; có người biết đến TGPL thông qua chính bạn bè hoặc người thân của họ được TGPL.
(ii) Các cơ quan, tổ chức trợ giúp pháp lý tổ chức truyền thông để người dân hiểu và tiếp cận TGPL:
Trong thời gian qua, các cơ quan, tổ chức trợ giúp pháp lý ở trung ương và địa phương đã tổ chức nhiều hình thức truyền thông về TGPL và quyền được trợ giúp pháp lý cho người dân để biết và tiếp cận TGPL. Có thể kể đến các phương thức truyền thông về trợ giúp pháp lý đã được thực hiện như:
- Thông qua việc tổ chức các lớp tập huấn, hội nghị, hội thảo, các đợt truyền thông về trợ giúp pháp lý. Đây là hình thức tổ chức tập trung một số lượng người nhất định được mời đến địa điểm cụ thể (thường ở xã hoặc ở huyện, ở tỉnh) và được giảng viên/báo cáo viên giới thiệu các nội dung liên quan đến trợ giúp pháp lý, ví dụ như ai là người được trợ giúp pháp lý, quyền và nghĩa vụ của người được trợ giúp pháp lý, các tổ chức cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý, thủ tục yêu cầu TGPL… Thời gian giới thiệu thường ½ ngày hoặc 01 ngày. Qua đó người dân nắm bắt cơ bản được về dịch vụ trợ giúp pháp lý, đồng thời có cơ hội trao đổi với giảng viên/báo cáo viên, từ đó hiểu sâu hơn về trợ giúp pháp lý. Những người được mời tham dự các lớp tập huấn, hội nghị, hội thảo, đợt truyền thông thường là cán bộ công chức ở xã, phường, thị trấn hoặc hội viên thuộc các chi hội đoàn thể, già làng, trưởng bản, trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố, người có uy tín tại cơ sở và người dân sinh sống ở khu vực tổ chức hội nghị. Để tăng cường hiệu quả truyền thông, thời gian qua một số Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thực hiện truyền thông theo từng chuyên đề hướng tới các đối tượng đặc thù như người khuyết tật có khó khăn về tài chính (Thừa Thiên Huế, Tuyên Quang, Bắc Kạn...), trẻ em (Hà Nội, Bến Tre, Phú Thọ, Phú Yên...), người cao tuổi có khó khăn về tài chính (Ninh Thuận, Sơn La, Thanh Hoá...) hoặc lồng ghép vào nội dung đố vui có thưởng trong các buổi truyền thông (Tuyên Quang, Thành phố Hồ Chí Minh)...
- Thông qua việc biên soạn và phát hành các tài liệu truyền thông đến người dân như tờ rơi, tờ gấp pháp luật, cẩm nang, sách bỏ túi hoặc các tài liệu truyền thông khác về trợ giúp pháp lý. Các tài liệu này được biên soạn theo các hình thức khác nhau, trong đó có những nội dung cơ bản giới thiệu về trợ giúp pháp lý như quyền được trợ giúp pháp lý, diện người được trợ giúp pháp lý và cách thức liên hệ đến các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý… Các dạng tài liệu này thường nhỏ, gọn, dễ mang theo, do đó thông tin trên các dạng tài liệu này cũng súc tích, cô đọng, có hình vẽ minh họa bắt mắt để người dân dễ đọc, dễ hiểu, dễ tiếp cận.
- Thông qua hoạt động hỗ trợ thông tin về TGPL giúp người dân nắm bắt được các thông tin, địa chỉ, số điện thoại của các tổ chức thực hiện TGPL, người thực hiện TGPL để liên hệ khi có yêu cầu trợ giúp. Việc hỗ trợ cung cấp thông tin cho người dân trong đó có người thuộc diện được TGPL hiện nay do Trung tâm thông tin, dữ liệu TGPL thuộc Cục TGPL và Trung tâm TGPL nhà nước thuộc Sở tư pháp các tỉnh, thành phố thực hiện. Tại Cục TGPL, hoạt động hỗ trợ thông tin về TGPL được thực hiện thông qua đường dây nóng trợ giúp pháp lý
[2] và việc theo dõi các bài viết, bài nghiên cứu và xử lý thông tin liên quan đến TGPL trên các phương tiện truyền thông để kịp thời chỉ đạo các Trung tâm TGPL cử người thực hiện TGPL cho người được TGPL khi họ có nhu cầu. Ở địa phương, hầu hết các tỉnh, thành phố đều có đường dây nóng TGPL để tiếp nhận và hỗ trợ thông tin cho người dân và các cơ quan, tổ chức có nhu cầu thông tin về TGPL.
- Thông qua việc đặt Bảng tin, hộp tin trợ giúp pháp lý được niêm yết công khai tại các tổ chức thực hiện TGPL, UBND cấp xã, tại nhà tạm giam, tạm giữ,… Đến nay, 100% các cơ quan tiến hành tố tụng đã niêm yết Bảng thông tin về TGPL, đặt Hộp tin TGPL tại trụ sở ở nơi thuận tiện, dễ quan sát và nơi sinh hoạt chung của người bị tạm giữ, tạm giam; phát miễn phí tờ gấp pháp luật, đơn yêu cầu TGPL cho bị can, bị cáo, bị hại và đương sự đến làm việc tại trụ sở. Trong quá trình thực hiện, một số Bảng thông tin, Hộp tin TGPL bị hư hỏng, thất lạc đã được cơ quan tiến hành tố tụng kịp thời đề nghị Trung tâm TGPL cung cấp bổ sung, thay thế
[3]. Bảng thông tin trợ giúp pháp lý, tờ thông tin về trợ giúp pháp lý, hộp tin trợ giúp pháp lý có các nội dung về người được trợ giúp pháp lý, quyền và nghĩa vụ của người được trợ giúp pháp lý; địa chỉ, điện thoại liên hệ của Trung tâm, chi nhánh.
- Thông qua việc tổ chức xây dựng và phát hành các thông điệp, tiểu phẩm về TGPL được xây dựng, phát hành trên đài truyền thanh VOV, các phim ngắn diễn án, phóng sự, phỏng vấn về TGPL được xây dựng, phát sóng trên các kênh truyền hình khác nhau như VTV1, VTV2, VTV5, VTV8, Thông tấn xã Việt Nam... Các thông điệp về trợ giúp pháp lý thường có nội dung ngắn, gọn súc tích hoặc xây dựng dạng tiểu phẩm mô phỏng tình huống thực tế được phát hành trên đài truyền thành VOV. Các chương trình phóng sự, các phim diễn án về vụ việc trợ giúp pháp lý tham gia tố tụng thành công, hiệu quả do các Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thực hiện đước phát sóng trên Đài truyền hình Việt Nam và các Đài truyền hình khác
[4]. Nội dung của các chương trình phóng sự, phim diễn án thường đề cập đến các vụ việc TGPL cụ thể đã diễn ra trong đời sống và được đánh giá là vụ việc thành công, được biên tập, phát sóng rộng rãi, từ đó tạo điều kiện để nhiều người biết đến trợ giúp pháp lý. Ở một số địa phương còn cử trợ giúp viên pháp lý trực tiếp tham gia trả lời câu hỏi pháp luật trên đài truyền hình...(như Ninh Thuận).
- Thông qua danh sách các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, người thực hiện trợ giúp pháp lý, các tin tức, video, bài viết… về TGPL được đăng tải trên Cổng Thông tin điện tử Bộ Tư pháp, Trang thông tin điện tử trợ giúp pháp lý Việt Nam và các Trang thông tin điện tử của Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Hiện nay, danh sách tổ chức thực hiện TGPL, người thực hiện TGPL được các địa phương công bố công khai trên trang thông tin điện tử của Sở tư pháp các tỉnh, thành phố, một số địa phương cũng đã xây dựng và vận hành Trang thông tin điện tử về TGPL như Bình Định, Hải Phòng, Đồng Nai, Hưng Yên
(5), Kiên Giang, Tây Ninh. Hiện nay, ngoài Trang thông tin điện tử TGPL ở Trung ương và địa phương, trên các trang thông tin điện tử của tòa án nhân dân các cấp đều có chỉ dẫn TGPL để người dân dễ dàng tiếp cận, sử dụng khi vào các trang thông tin điện tử này. Ở một số địa phương đã thiết lập trang thông tin trợ giúp pháp lý trên mạng xã hội Facebook, Zalo (như Điện Biên, Quảng Trị, Hà Tĩnh, Hà Giang, Sơn La,...).
(iii)
Người dân được các cơ quan, người tiến hành tố tụng, các cơ quan nhà nước giải thích về quyền được TGPL, giới thiệu đến tổ chức thực hiện TGPL thông qua hoạt động của mình.
Hình thức này được thực hiện dựa trên các quy định Luật Trợ giúp pháp lý, Bộ luật tố tụng hình sự, bộ luật tố tụng dân sự, luật tố tụng hành chính, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam… và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành
[5]. Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của mình, cơ quan, người tiến hành tố tụng, các cơ quan nhà nước giải thích về quyền được TGPL, giới thiệu đến tổ chức thực hiện TGPL. Thời gian qua, đa số các cơ quan tiến hành tố tụng ở các địa phương đã thực hiện việc giải thích về quyền được TGPL, lập biên bản về việc giải thích và lưu hồ sơ vụ án; gửi thông báo, thông tin về TGPL cho Trung tâm TGPL; thực hiện thống kê vào Sổ theo dõi vụ việc TGPL trong hoạt động tố tụng theo quy định. Tại Thông tư số 03/2021/TT-BTP cũng quy định về trách nhiệm thông tin, giới thiệu về trợ giúp pháp lý của Phòng Tư pháp cấp huyện và UBND cấp xã và hiện cũng đang triển khai.
Bên cạnh đó, các cơ chế phối hợp trực TGPL trong điều tra hình sự và trực tại Tòa án nhân dân các cấp đã góp phần đáng kể trong việc tạo điều kiện thuận lợi để người dân biết và sử dụng dịch vụ TGPL kịp thời, ngay từ giai đoạn đầu của quá trình tố tụng, góp phần bảo đảm tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của người thuộc diện được TGPL, hạn chế bỏ sót diện người được TGPL
[6].
(iv) Được các tổ chức đoàn thể, người có uy tín trong cộng đồng giải thích về quyền được trợ giúp pháp lý và giới thiệu đến tổ chức thực hiện TGPL.
Thông qua các chương trình, quy chế, kế hoạch phối hợp, đa số các Trung tâm trợ giúp pháp lý đã thực hiện phối hợp với cơ quan đoàn thể (Hội Người Khuyết tật, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Nạn nhân chất độc màu da cam, Hội Bảo trợ trẻ em...) thực hiện truyền thông về TGPL cho thành viên, hội viên của tổ chức để khảo sát nhu cầu về TGPL. Thông qua cách tiếp cận trung gian này, sau khi được tiếp nhận thông tin về trợ giúp pháp lý, các tổ chức đoàn thể, người có uy tín trong cộng đồng như già làng, trưởng bản, trưởng thôn... sẽ là cầu nối giữa người được trợ giúp pháp lý biết đến quyền được trợ giúp pháp lý và khi có nhu cầu được giới thiệu đến Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
- Một số cách sử dụng trợ giúp pháp lý của người dân hiện nay:
Luật Trợ giúp pháp lý quy định nhiều cách thức nộp yêu cầu trợ giúp pháp lý để người dân có thể lựa chọn cho phù hợp với điều kiện của mình.
i)
Trường hợp nộp trực tiếp tại trụ sở của tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, người yêu cầu trợ giúp pháp lý nộp các giấy tờ, tài liệu theo quy định; xuất trình bản chính hoặc nộp bản sao có chứng thực giấy tờ chứng minh là người được trợ giúp pháp lý.
Nếu người yêu cầu trợ giúp pháp lý không thể tự mình viết đơn yêu cầu thì người tiếp nhận yêu cầu có trách nhiệm ghi các nội dung vào mẫu đơn để họ tự đọc lại hoặc đọc lại cho họ nghe và yêu cầu họ ký tên hoặc điểm chỉ vào đơn.
ii)
Trường hợp gửi hồ sơ qua dịch vụ bưu chính, người yêu cầu trợ giúp pháp lý nộp các giấy tờ, tài liệu theo quy định và bản sao có chứng thực giấy tờ chứng minh là người được trợ giúp pháp lý.
iii)
Trường hợp gửi hồ sơ qua fax, hình thức điện tử, khi gặp người thực hiện trợ giúp pháp lý, người yêu cầu trợ giúp pháp lý phải xuất trình bản chính hoặc nộp bản sao có chứng thực giấy tờ chứng minh là người được trợ giúp pháp lý.
Về cách thức cung cấp dịch vụ công nói chung, trong đó có dịch vụ giúp pháp lý, người được trợ giúp có thể được cung cấp dịch vụ theo các hình thức sau: cung cấp dịch vụ trực tiếp; cung cấp dịch vụ thông qua bưu chính; cung cấp dịch vụ thông qua .
Trong lĩnh vng cấp dịch vụ thông qua bưu chính giúp pháp một cách trực tiếp, trong một số trường hợp cung cấp dịch vụ thông qua bưu chính. Đặc biệt, hiện nay, trong bối cảnh chuyển đổi số, việc nghiên cứu để triển khai cung cấp dịch vụ công trực tuyến (có thể là dịch vụ công trực tuyến toàn trình hoặc dịch vụ công trực tuyến một phần) được nhiều địa phương quan tâm. Hiện nay, lĩnh vực TGPL có 12 thủ tục hành chính được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Trên Cổng dịch vụ công quốc gia hiện đã ghi nhận đầy đủ 12/12 thủ tục hành chính trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý
[7]. Hầu hết thủ tục hành chính trong lĩnh vực TGPL tại một số địa phương được xác định là dịch vụ công trực tuyến một phần, chỉ một số thủ tục tại một số địa phương được xác định là dịch vụ công trực tuyến toàn phần. Tuy nhiên, v trphươnó địa phương, chưa xác đng, phươthủ tục hành chính nào là dịch vụ công trực tuyến...
2. Thực trạng tiếp cận và sử dụng trợ giúp pháp lý của người dân tại tỉnh Yên Bái và tỉnh Điện Biên
a. Nhu cầu trợ giúp pháp lý của người dân
Đảng, Nhà nước ta rất quan tâm đến quyền con người, quyền công dân và quyền tiếp cận công lý của người dân, trong đó có nhóm “dễ bị tổn thương”, yếu thế như người nghèo, phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số… Thực tiễn cho thấy, nhiều người không biết hoặc không có khả năng tự tìm kiếm các biện pháp pháp lý để bảo vệ quyền lợi của mình khi bị xâm phạm. Họ thường phải đối mặt với những rủi ro, nguy cơ bị “bỏ lại phía sau” so với những người bình thường khác; thường gặp phải những khó khăn, lúng túng nhất định khi có tranh chấp hoặc vướng mắc pháp luật.
Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 ra đời đánh dấu mốc quan trọng trong thể chế về trợ giúp pháp lý. Việc mở rộng diện đối tượng TGPL nêu trên đã thể hiện rõ nét chính sách nhân văn, sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với các đối tượng yếu thế, dễ tổn thương, góp phần bảo đảm trong tiếp cận pháp lý và bình đẳng trước pháp luật. Cụ thể, theo Luật Trợ giúp pháp lý (2017) có 14 nhóm đối tượng được TGPL, bao gồm: (1) Người có công với cách mạng; (2) người thuộc hộ nghèo; (3) trẻ em; (4) người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; (5) người bị buộc tội từ đủ 16 đến 18 tuổi; (6) người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo; (7) người có khó khăn tài chính thuộc các nhóm: Cha đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng, con của liệt sĩ và người có công nuôi dưỡng khi liệt sĩ còn nhỏ; Người nhiễm chất độc da cam; người cao tuổi; người khuyết tật; người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là bị hại trong vụ án hình sự; nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình; nạn nhân của hành vi mua bán người theo quy định của Luật Phòng, chống mua bán người và người nhiễm HIV
[8].
Hiện nay, chưa có số liệu chính thức, chi tiết, tổng thể về nhu cầu trợ giúp pháp lý ở Việt Nam. Tuy nhiên, qua nghiên cứu các báo cáo về của 63 tỉnh, thành phố thì có thể đánh giá sơ bộ về nhu cầu trợ giúp pháp lý của người dân dựa trên các dữ liệu về số lượng người thuộc diện được trợ giúp pháp lý, dân số và số lượng án trên phạm vi địa phương/toàn quốc. Từ những dữ liệu này có thể đưa ra bức tranh sơ bộ về nhu cầu trợ giúp pháp lý trong toàn quốc vẫn là rất lớn. Cụ thể:
Theo Kế hoạch triển khai thi hành Luật Trợ giúp pháp lý của Thủ tướng Chính phủ (ban hành kèm theo Quyết định số 1355/QĐ-TTg ngày 12/9/2017) về việc rà soát, thống kê người thuộc diện được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật TGPL trên địa bàn, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đều đã rà soát, thống kê. Theo tổng hợp số liệu cung cấp của địa phương (năm 2022
[9]), tổng số người thuộc diện TGPL trên toàn quốc là khoảng 47 triệu người, chiếm trên 45% dân số Việt Nam.
- Đối với tỉnh Điện Biên: Dân số toàn tỉnh trên 62 vạn người, gồm 19 dân tộc sinh sống trong đó dân tộc Kinh chỉ chiếm khoảng 17,38%, còn lại là các dân tộc thiểu số khác (như dân tộc Mông, Thái,...). Năm 2022, trên địa bàn tỉnh Điện Biên rà soát, thống kê có khoảng 81% dân số thuộc diện người được trợ giúp pháp lý, trong đó người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và người thuộc hộ nghèo chiếm khoảng 60% tổng số người thuộc diện được trợ giúp pháp lý. Trong đó, người có công với cách mạng: 10.408 người; người thuộc hộ nghèo: 84.642 người; người dân tộc thiểu số: 178.164 người; người vừa thuộc hộ nghèo vừa là người dân tộc thiểu số: 46.804 người; trẻ em: 174.762 người; người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi: 300 người; người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo: 1.872 người; nhóm người có khó khăn về tài chính: 12.536 người (trong đó cha mẹ đẻ, vợ, chồng, con của liệt sĩ và người có công nuôi dưỡng khi liệt sĩ còn nhỏ: 400 người; người nhiễm chất độc da cam: 257 người; người cao tuổi: 2.500 người; người khuyết tật: 6.731 người; người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là bị hại trong vụ án hình sự: 1.512 người; nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình: 376 người; nạn nhân của hành vi mua bán người: 300 người; người nhiễm HIV: 460 người).
Từ 01/6/2018 đến hết năm 2023, Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Điện Biên đã thụ lý 12.972 vụ, việc các loại, đã giải quyết, xét xử 12.660 vụ việc đạt tỷ lệ 97.18% (án hình sự thụ lý 5.720 vụ với 6.938 bị cáo; án dân sự thụ lý 1.602 vụ, việc; án hôn nhân gia đình thụ lý 5.447 vụ, việc; án kinh doanh thương mại thụ lý 82 vụ, án lao động thụ lý 12 vụ, án hành chính thụ lý 109 vụ). Theo Báo cáo của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Điện Biên, từ ngày 01/01/2018 đến ngày 31/12/2023, Trung tâm đã thực hiện được 6.992 vụ việc TGPL. Do đó, có thể thấy rằng nhu cầu được trợ giúp về pháp luật là rất lớn do nhận thức pháp luật của các đối tượng được trợ giúp pháp lý còn hạn chế, các dân tộc có tập tục lạc hậu lại sinh sống ở những vùng có điều kiện kinh tế khó khăn, vùng sâu, vùng xa nên điều kiện để tiếp cận pháp luật, chính sách của Nhà nước còn có những trở ngại.
- Đối với tỉnh Yên Bái: Dân số toàn tỉnh trên 82 vạn người với hơn 30 dân tộc cùng sinh sống, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 57,4%. Năm 2022, kết quả rà soát số lượng một số nhóm người thuộc diện được trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh thì tổng số người thuộc diện được trợ giúp pháp lý trên địa bàn là 670.445 người, chiếm 81,6% dân số. Trong đó, người có công với cách mạng: 112.108 người; người thuộc hộ nghèo: 39.271 người; trẻ em: 259.542 người; người dân tộc thiểu số: 231.934 người; người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi: 92 người; người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo: 0 người; nhóm người có khó khăn về tài chính: 27.498 người (trong đó cha mẹ đẻ, vợ, chồng, con của liệt sĩ và người có công nuôi dưỡng khi liệt sĩ còn nhỏ: 1903 người; người nhiễm chất độc da cam: 864 người; người cao tuổi: 10.904 người; người khuyết tật: 12.384 người; người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là bị hại trong vụ án hình sự: 32 người; nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình: 126 người; nạn nhân của hành vi mua bán người: 55 người; người nhiễm HIV: 1230 người).
Tổng số lượng án trên các lĩnh vực tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính được toà án nhân dân hai cấp của tỉnh thụ lý, giải quyết khoảng gần 4.000 vụ/năm. Theo Báo cáo của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Yên Bái, từ ngày 01/01/2018 đến 31/12/2023, Trung tâm đã thực hiện trợ giúp pháp lý 3.060 vụ việc TGPL. Có thể thấy rằng, mặc dù những con số này chỉ mới phản ánh được phần nào nhu cầu trợ giúp pháp lý của người dân trên địa bàn tỉnh nhưng thông qua những dữ liệu về số lượng người thuộc diện được trợ giúp pháp lý, số lượng án trên toàn tỉnh cũng có thể nhận định được rằng nhu cầu trợ giúp pháp lý trên địa bàn tỉnh là khá cao nhưng số vụ việc trợ giúp pháp lý còn khá thấp.
b. Thực trạng tiếp cận và sử dụng trợ giúp pháp lý của người dân
Qua nghiên cứu các báo cáo, tài liệu của địa phương và đặc biệt qua tổng hợp kết quả khảo sát phiếu và phỏng vấn sâu tại các địa bàn khảo sát, có thể thấy bức tranh sơ bộ về thực trạng tiếp cận và sử dụng trợ giúp pháp lý của người dân trong thời gian qua như sau:
|
Nội dung 1: Về nhận thức, hiểu biết của người dân về trợ giúp pháp lý
|
Theo báo cáo hằng năm về công tác TGPL của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Yên Bái và tỉnh Điện Biên cho thấy, trong thời gian qua hoạt động truyền thông về trợ giúp pháp lý đã được quan tâm thực hiện, nhất là tại các xã đặc biệt khó khăn, các thôn, bản có nhiều đồng bào dân tộc và các hộ gia đình nghèo, gia đình chính sách… sinh sống. Hoạt động truyền thông được thực hiện bằng nhiều hình thức đa dạng như: biên soạn, in ấn, cấp phát các tờ gấp pháp luật, tài liệu truyền thông, hộp tin, bảng tin TGPL…. Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước đã phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan (như báo Yên Bái, Đài phát thanh- truyền hình tỉnh ...) xây dựng, phát chuyên trang, chuyên mục về TGPL bằng tiếng Việt, tiếng dân tộc thiểu số trên đài phát thanh, truyền hình; Cổng thông tin điện tử tỉnh; Trang thông tin điện tử Sở Tư pháp và Bản tin Tư pháp … Ở Điện Biên đã triển khai việc xây dựng phóng sự, truyền thông qua các ứng dụng Facebook, Zalo… để truyền thông về TGPL.
Để đánh giá về nhận thức, hiểu biết của người dân về trợ giúp pháp lý, khảo sát đã đánh giá đa chiều từ các khía cạnh khác nhau, từ những chủ thể tham gia khảo sát khác nhau để có thể đưa ra những nhận định khách quan về thực trạng này.
* Qua kết quả khảo sát người dân, có 45,8% người tham gia khảo sát ở hai tỉnh Điện Biên và Yên Bái trả lời đã biết hoặc nghe giới thiệu về trợ giúp pháp lý, còn lại 54,2% người tham gia khảo sát cho biết họ chưa biết hoặc chưa nghe về TGPL hoặc không có ý kiến trả lời nội dung này.
. Với điều kiện kinh tế - xã hội như ở phần trên đã nêu, cùng với tỷ lệ được nêu ở trên có thể thấy rằng trong thời gian gần đây các cơ quan, tổ chức về trợ giúp pháp lý đã có nhiều phương pháp truyền thông về trợ giúp pháp lý và mang lại hiệu quả khá tốt. Tuy nhiên, do phạm vi câu hỏi khảo sát khá rộng nên việc đánh giá nhận thức, mức độ hiểu biết của người dân về trợ giúp pháp lý khá đa dạng ở các mức độ khác nhau, trong số 45,8% người dân cho rằng họ đã biết hoặc đã từng nghe giới thiệu về trợ giúp pháp lý thì cũng có thể có những người biết cơ bản về trợ giúp pháp lý nhưng cũng sẽ có những người mới chỉ dừng lại được nghe giới thiệu về trợ giúp pháp lý.
Tuy nhiên, trong các cuộc thảo luận nhóm, phỏng vấn sâu thì kết quả số lượng người đã từng được nghe nói về TGPL qua người thân quen giới thiệu, qua phương tiện thông tin đại chúng ở mức trung bình
. Mặc dù vậy, bản thân họ cũng chưa có hiểu biết nhiều về trợ giúp pháp lý, ví dụ về trợ giúp pháp lý là gì, Trung tâm trợ giúp pháp lý và họ cũng không biết được rằng họ có thuộc diện không, làm thế nào để được hưởng dịch vụ này, trợ giúp pháp lý có mất phí không … điều này cũng chính là một trong những vấn đề khi nhắc tới hiệu quả của công tác truyền thông (sẽ được phân tích sâu ở phần sau).
Qua kết quả tổng hợp phỏng vấn sâu thì 66% người dân tại xã Ẳng Tở, huyện Mưởng Ảng, tỉnh Điện Biên; 76,5% người dân được khảo sát tại xã Chiềng Sinh, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên không biết mình thuộc diện được trợ giúp pháp lý hay không. Người dân được khảo sát tại xã Chiềng Đông, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên cũng biết đa số họ không biết mình thuộc diện được TGPL hay không, chỉ một số ít người biết mình là người thuộc diện được TGPL do có người thân thích là người đã từng được TGPL hoặc do được truyền thông về TGPL.
Biết nhưng số người biết không nhiều (TLNYB01, nam, người quản lý công tác trợ giúp pháp lý tại Yên Bái; TLNQL01, nam, TLNQL02, nam, cán bộ quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý tại Điện Biên).
Một số người dân có thể nghe đến, biết đến trợ giúp pháp lý nhưng lại chưa nắm được trợ giúp pháp lý là dịch vụ miễn phí của Nhà nước (Bản Công, Trạm Tấu, Yên Bái)
Trong các cuộc thảo luận khác với người dân, già làng, trưởng bản và người thực hiện TGPL, khi được hỏi nếu có vướng mắc pháp luật thì người dân thường làm như thế nào. Nhiều người dân được hỏi trả lời họ thường tìm đến người có uy tín trong cộng đồng (trưởng thôn, trưởng bản, công an viên, Chi hội trưởng phụ nữ, Trưởng ban mặt trận, tổ trưởng tổ hòa giải...); tiếp đến là đến UBND xã, Công an cấp xã. Khi được giới thiệu TGPL là chính sách miễn phí do Nhà nước cung cấp thì họ đều mong muốn nếu có vướng mắc pháp luật sẽ được trợ giúp pháp lý miễn phí của Nhà nước. Đối với người dân đã biết đến TGPL thì họ trả lời rằng họ sẽ tìm đến Trung tâm TGPL hoặc Chi nhánh của Trung tâm. 100% người dân được phỏng vấn cho biết nếu có vướng mắc, tranh chấp pháp luật trong thời gian tới thì họ sẽ sử dụng dịch vụ TGPL hoặc giới thiệu cho người thân sử dụng, bởi vì đây là dịch vụ miễn phí, hiệu quả và họ tin tưởng vào chính sách nhân đạo, nhân văn của Nhà nước trong bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.
Từ góc độ của trưởng thôn, trưởng bản, khi được phỏng vấn sâu về hiểu biết TGPL, nhiều người cho biết rằng họ đã được giới thiệu về TGPL thông qua cán bộ tư pháp huyện, trợ giúp viên pháp lý, cán bộ xã và các cuộc họp trong bản giới thiệu về TGPL. Khi hỏi sâu về trợ giúp pháp lý thì họ cho rằng TGPL là công cụ giúp ích cho những người dân chưa hiểu về quy định pháp luật, TGPL cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người nghèo, giải đáp vướng mắc pháp luật đem lại quyền lợi cho người dân.
Từ góc độ cán bộ các tổ chức đoàn thể có thể thấy rằng họ nhận thức tốt hơn về trợ giúp pháp lý. Đa số người được phỏng vấn cho biết là đã được nghe giới thiệu về trợ giúp pháp lý qua các đợt truyền thông của Trung tâm trợ giúp pháp lý, Chi nhánh; qua cán bộ tư pháp huyện, Sở Tư pháp.... Khi hỏi hiểu thế nào về trợ giúp pháp lý thì họ cũng có thể hiện một số ý hiểu cơ bản về trợ giúp pháp lý và nhận thức được rằng TGPL là chính sách của Nhà nước nhằm giúp đỡ những người yếu thế trong xã hội; là giúp đỡ miễn phí về mặt pháp luật cho các đối tượng chính sách, yếu thế,....
Chúng tôi đã được nghe giới thiệu về trợ giúp pháp lý (TLNBC10, nữ, cán bộ Hội Phụ nữ xã, TLNBC13, nữ, cán bộ Đoàn Thanh niên xã Bản Công huyện Trạm Tấu tỉnh Yên Bái; TLNCS05, nữ, dân tộc Thái, bí thư chi bộ, TLNCS01, nam dân tộc Thái, xã Chiềng Sinh huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên).
Trợ giúp pháp lý là liên quan đến pháp luật (TLNBC07, Phó bí thư Đảng ủy xã Bản Công, huyện Trạm Tấu tỉnh Yên Bái).
Trợ giúp pháp lý là liên quan đến xét xử (TLNBC13, nam, dân tộc Mông, bí thư đoàn thanh niên xã Bản Công, huyện Trạm Tấu tỉnh Yên Bái).
Trợ giúp pháp lý là giúp các bên tranh chấp giải quyết mâu thuẫn, hiểu biết được đúng, sai; khi xảy ra vi phạm pháp luật thì được giúp đỡ; giúp đỡ người dân về pháp luật; giúp người dân hiểu biết hơn về quy định của pháp luật, chủ trương chính sách; là chính sách của nhà nước giúp trợ giúp pháp lý miễn phí cho hộ nghèo, cận nghèo, người có công. (kết quả phòng vấn sâu cán bộ chi hội đoàn thể ở xã Ẳng Tở, huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên
- Từ góc độ cán bộ, công chức có liên quan ở cấp xã, Phòng Tư pháp ở cấp huyện thì có thể thấy rằng đa số trong số họ đã từng được nghe, giới thiệu hoặc cấp phát tài liệu về trợ giúp pháp lý. Họ là những người có trình độ học vấn và công việc thường xuyên gắn liền với các mảng chính sách, pháp luật khác nhau. Họ có thể biết về trợ giúp pháp lý với những nội dung cơ bản như quy định hiện hành về diện người thuộc diện trợ giúp pháp lý, địa chỉ liên hệ tới các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý trên địa bàn…, trong đó có nhiều người đã từng phối hợp tích cực trong công tác truyền thông, giới thiệu về trợ giúp pháp lý. Tuy nhiên có tới 80% cán bộ xã tham gia khảo sát thuộc tỉnh Điện Biên cho biết rằng không nhiều người thuộc diện được TGPL trên địa bàn chưa biết đến trợ giúp pháp lý để yêu cầu TGPL khi có vướng mắc pháp luật (những người đó có thể là người nghèo, trẻ em vùng sâu vùng xa, trẻ em, nạn nhân bị bạo lực gia đình…). Có 60% cán bộ, công chức cấp xã, Phòng Tư pháp ở cấp huyện trả lời đã từng giới thiệu người dân đến tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý tại địa phương, 40% cho biết việc người dân chưa biết đến chính sách TGPL nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn là rào cản trong tiếp cận và sử dụng dịch vụ TGPL.
- Ít người dân biết đến Trung tâm/Chi nhánh của Trung tâm, trợ giúp viên pháp lý, luật sư ký hợp đồng với Trung tâm, cộng tác viên trợ giúp pháp lý. Một số người biết đến Trung tâm/Chi nhánh nhưng không biết trợ giúp về vấn đề gì, đặc biệt là không biết đây là dịch vụ pháp lý miễn phí, không biết ai thuộc diện trợ giúp pháp lý, làm thế nào để được trợ giúp pháp lý (TLNBC01, nam, dân tộc Kinh, TLNBC06, nam dân tộc Mông, xã Bản Công huyện Trạm Tấu, tỉnh Yên Bái; TLNDB02, nữ, thẩm phán, Điện Biên, TLNCS13, nữ dân tộc Thái, Trưởng hội phụ nữ Bản, xã Chiềng Sinh, huyện Tuần Giáo, Điện Biên).
- Cán bộ, công chức ở xã Đồng Khê, huyện Văn Chấn, Yên Bái: Có ý kiến cho rằng người dân chưa có nhiều hiểu biết về trợ giúp pháp lý
Từ khía cạnh người thực hiện trợ giúp pháp lý là người trực tiếp thực hiện trợ giúp pháp lý và thực hiện các nhiệm vụ khác như truyền thông về TGPL thì có 81% số người được hỏi trả lời rằng, theo nắm bắt của họ có khả năng một số người thuộc diện TGPL nhưng không biết hoặc không sử dụng TGPL khi có vướng mắc pháp luật. Khi phỏng vấn sâu, người thực hiện TGPL cũng cho rằng, nhận thức và hiểu biết của người dân về TGPL trên địa bàn còn hạn chế, đa số chưa biết đến quyền được TGPL, diện người được TGPL..., rất ít người bết đến Trung tâm TGPL nhà nước, Chi nhánh của Trung tâm, trợ giúp viên pháp lý.
- Ở khía cạnh những người được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác trợ giúp pháp lý thì họ đánh giá rằng nhu cầu của người dân đến tìm hiểu và yêu cầu TGPL trên địa bàn là rất nhiều và họ cũng trả lời rằng đã từng giới thiệu hoặc gặp người được TGPL tới tổ chức thực hiện TGPL tại địa phương (66,7% người được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước TGPL ở tỉnh Điện Biên đánh giá có một số người thuộc diện được trợ giúp pháp lý nhưng không biết về hoạt động này để yêu cầu trợ giúp pháp lý (khi được hỏi đánh giá tỷ lệ này thì có người đánh giá 70%, có người cho rằng rất khó đánh giá).
Trong điều kiện kinh tế - xã hội trên địa bàn còn khá khó khăn thì việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người dân (trong đó chú trọng đến người yếu thế), nhất là ở các địa bàn miền núi, vùng sâu vùng xa như các địa điểm khảo sát lại càng cần được quan tâm bảo vệ đúng mức.
Người quản lý nhà nước về công tác TGPL tỉnh Điện Biên cho biết rằng ở thành phố thì nhiều người dân biết về trợ giúp pháp lý, nhưng ở các huyện xa thì đa số người dân không biết đến. Nếu biết đến thì người dân rất tin tưởng.
Tóm lại, trong các phiếu đánh giá, cuộc thảo luận nhóm, phỏng vấn sâu thì các chủ thể tham gia khảo sát cũng đều đánh giá rằng nhận thức, hiểu biết của người dân về trợ giúp pháp lý ở các vùng khảo sát đa số hiểu biết về trợ giúp pháp lý còn hạn chế; vẫn còn một bộ phận người dân chưa nghe nói đến trợ giúp pháp lý, hoặc nghe đến nhưng chưa để ý, chưa biết đến quyền được trợ giúp pháp lý miễn phí, chưa biết đến Trung tâm trợ giúp pháp lý và người thực hiện trợ giúp pháp lý.
* Sau khi được giải thích sơ lược về trợ giúp pháp lý là dịch vụ pháp lý miễn phí của Nhà nước dành cho người dân là người nghèo, người dễ bị tổn thương nhằm giúp họ bảo vệ quyền lợi hợp pháp trong vụ việc của mình thì người dân tại các buổi thảo luận đều cho biết rằng sau này, nếu có vướng mắc pháp luật, họ sẽ nhờ Trung tâm trợ giúp pháp lý trên địa bàn giúp đỡ. Các đánh giá tại các phiếu phỏng vấn, thảo luận và hội thảo cũng đều cho rằng nhu cầu trợ giúp pháp lý của người dân trên địa bàn là nhiều, khá đa dạng. Khi được hỏi về những diện người nào có khả năng không biết hoặc chưa sử dụng trợ giúp pháp lý khi có vướng mắc pháp luật thì câu trả lời khá đa dạng; xoay quanh một số nhóm người chủ yếu như người dân tộc thiểu số, người thuộc hộ nghèo, người thuộc hộ cận nghèo, trẻ em... ngoài ra cũng có các ý kiến cho rằng nạn nhân bị mua bán, nạn nhân bạo lực gia đình, người cao tuổi, bị hại trong vụ án hình sự nữa....
Các vướng mắc pháp luật mà người dân gặp phải rất đa dạng, liên quan mật thiết đến đời sống của người dân hằng ngày bao gồm cả hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, đất đai và hành chính, lao động việc làm, an sinh xã hội cho trẻ em, người nghèo, người dân tộc thiểu số… ở các hình thức tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng. Tuy nhiên, khi nghiên cứu sâu thì thấy rằng: các vướng mắc pháp luật của người dân mang tính đặc thù vùng miền và các đối tượng khác nhau.
Ở Yên Bái thì kết quả phỏng vấn sâu cho thấy:
Người quản lý nhà nước về công tác TGPL tỉnh Yên Bái cho biết:
- Thường những người nghèo, phụ nữ, trẻ em và đồng bào dân tộc thiểu số có nhu cầu trợ giúp pháp lý. Tuy vậy, người có công với cách mạng cũng có nhu cầu trợ giúp pháp lý chủ yếu về chế độ chính sách.
- Bên cạnh lĩnh vực hình sự thì người dân trên địa bàn có nhu cầu trợ giúp pháp lý thường về lĩnh vực đất đai, hôn nhân và gia đình, các chính sách quy định mới của nhà nước như chính sách người có công, người khuyết tật, chất độc màu da cam...
Chế độ chính sách, hôn nhân gia đình, quyền của người dân tộc thiểu số, tranh chấp đất đai;quyền của trẻ em, pháp luật hình sự, dân sự, chính sách nông, lâm nghiệp (cán bộ công chức xã)
Tranh chấp đất đai, tài sản gia đình, mâu thuẫn vợ chồng, tệ nạn ma túy; bạo lực gia đình (cán bộ chi hội đoàn thể)
Xã Bản Công, Trạm Tấu, Yên Bái
Người dân trên địa bàn có nhu cầu tìm hiểu các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp về tranh chấp nguồn nước, tranh chấp đất đai.
- Chủ yếu người dân có nhu cầu trong lĩnh vực hình sự (Buôn bán, vận chuyển ma tuý, hiếp dâm trẻ em, hiếp dâm tập thể).
- “Diện đối tượng có nhu cầu TGPL là Người dân tộc thiểu số (98% là người dân tộc Mông)”; Hộ nghèo, hộ cận nghèo hoặc “ Trẻ em, phụ nữ (do ít hiểu biết hơn vì ít được đi học); người dân tộc thiểu số (người Mông)”.
Ở Điện Biên thì kết quả phỏng vấn sâu cho thấy:
- Người quản lý nhà nước về công tác TGPL tại tỉnh Điện Biên thì cho rằng người thuộc diện được TGPL trên địa bàn là người nghèo, người cận nghèo, người dân tộc thiểu số. Lĩnh vực mong muốn được TGPL chủ yếu là chế độ chính sách cho người dân tộc, người có công với cách mạng, đền bù đất đai, dự án đầu tư...
- Trưởng thôn, trưởng bản tại xã Ẳng Tở, xã Chiềng Đông, xã Chiềng Sinh, tỉnh Điện Biên thì cho biết: Người dân địa bàn có gặp vướng mắc về hình sự, dân sự như tranh chấp đất đai, chăn thả gia súc không đúng quy định, bạo lực gia đình, ly hôn...
Người thực hiện TGPL thì cho rằng:
Các vướng mắc chủ yếu là hình sự, hôn nhân gia đình (chia tài sản, tranh chấp nuôi con), dân sự (tranh chấp đất đai, chia thừa kế)... Theo đánh giá của họ thì
các vụ việc phức tạp trên địa bàn thường là các vụ việc hình sự, dân sự và liên quan đến người dân tộc thiểu số.Bên cạnh đó, những người tham gia phỏng vấn sâu cũng cho biết trên địa bàn có những người dân không thuộc diện mà vẫn có nhu cầu được trợ giúp pháp lý để hỗ trợ miễn phí về mặt pháp luật.
Rất nhiều người có nhu cầu do hoàn cảnh khó khăn nhưng chưa phải là hộ nghèo, hoặc là người dân tộc thiểu số nhưng không phải địa bàn đặc biệt khó khăn - Cán bộ công chức xã Ẳng Tở, huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên
Phụ nữ là người từ 15 tuổi (Cán bộ chi hội đoàn thể tại xã Đồng Khê, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái); phụ nữ, người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi (Cán bộ công chức xã Đồng Khê, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái).
|
Nội dung 2: Việc tiếp cận thông tin trợ giúp pháp lý của người dân thông qua nhiều kênh khác nhau
|
Việc biết hoặc đã nghe giới thiệu về trợ giúp pháp lý có thể thông qua nhiều cách thức khác nhau, tùy thuộc điều kiện hoàn cảnh, trình độ nhận thức... của từng cá nhân. Theo kết quả khảo sát cho thấy các cách thức được người dân tiếp cận trợ giúp pháp lý khá đa dạng, phong phú có thể kể đến như:
- Tự người dân biết đến dịch vụ trợ giúp pháp lý, trực tiếp đến Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước yêu cầu trợ giúp pháp lý khi có nhu cầu.
- Các cơ quan, tổ chức trợ giúp pháp lý tổ chức các phương thức truyền thông để tiếp cận đến người dân.
- Người dân được các cơ quan, người tiến hành tố tụng, các cơ quan nhà nước giải thích về quyền được TGPL, giới thiệu đến tổ chức thực hiện TGPL thông qua hoạt động của mình
- Được các tổ chức đoàn thể, người có uy tín trong cộng đồng giải thích về quyền được trợ giúp pháp lý và giới thiệu đến tổ chức thực hiện TGPL.
Từ những đánh giá, phân tích các kênh tiếp cận thông tin trợ giúp pháp lý theo nhiều khía cạnh khác nhau bởi các chủ thể khác nhau có thể cho chúng ta thấy được đa dạng hơn việc tiếp cận thông tin trợ giúp pháp lý của người dân:
Đánh giá của người dân qua phiếu khảo sát cho thấy rằng: số người cho biết họ biết TGPL thông qua cán bộ đoàn thể ở cơ sở (hội viên Hội nông dân, Hội cựu chiến binh, đoàn thanh niên, Hội phụ nữ...) chiếm 23%; số người biết thông qua cán bộ cấp xã giới thiệu chiếm 33%, số người biết do cán bộ thôn, bản chiếm 18%, số người biết thông qua Bảng thông tin, Hộp tin về TGPL chiếm 5%, số người biết thông qua người thân quen chiếm 13%, Số người biết qua phương tiện thông tin đại chúng (đài phát thanh, truyền hình, báo...) chiếm 26%; số người biết qua tờ gấp/tờ rơi pháp luật chiếm 10%; số người biết do cơ quan tiến hành tố tụng giới thiệu chiếm 8%; số người biết do người có uy tín trong cộng đồng (trưởng bản…) chiếm 10%; số người do cơ quan/tổ chức khác giới thiệu chiếm 3%; hình thức khác chiếm 7,7%. Kết quả này là do người dân có thể biết đến TGPL thông qua nhiều hình thức khác nhau.
Biểu đồ thể hiện các kênh thông tin người dân biết đến trợ giúp pháp lý (từ đánh giá của người dân)
Cũng với câu hỏi này đặt ra cho những người từng được trợ giúp pháp lý ở tỉnh Yên bái thì khoảng 90% số người được hỏi trả lời đã biết về trợ giúp pháp lý, 10% còn lại không có ý kiến đối với nội dung này. Trong đó, có 80% cho biết do cơ quan tiến hành tố tụng giới thiệu, 20% người tham gia khảo sát trả lời thông qua người thân quen, 20% người tham gia khảo sát trả lời phương tiện thông tin đại chúng như đài phát thanh, truyền hình, báo…, 20% người tham gia khảo sát trả lời thông qua tờ gấp, tờ rơi pháp luật… Kết quả thảo luận nhóm, phỏng vấn sâu các nhóm tham gia khảo sát cũng cho thấy rằng hiện nay người dân tiếp cận trợ giúp pháp lý qua nhiều kênh thông tin khác nhau.
Như thế có thấy rằng, đối với người dân nói chung thì kênh tiếp cận khá đa dạng và chủ yếu thông qua cán bộ cấp xã, cán bộ đoàn thể ở cơ sở, cán bộ thôn, bản và phương tiện thông tin đại chúng. Người đã từng được trợ giúp pháp lý cũng tiếp cận dịch vụ TGPL thông qua nhiều kênh khác nhau, nhưng có thể thấy rằng một trong những kênh giúp người được trợ giúp pháp lý tiếp cận và sử dụng trợ giúp pháp lý hiệu quả là sự phối hợp tốt giữa cơ quan, người tiến hành tố tụng với các tổ chức, người thực hiện trợ giúp pháp lý. Theo Báo cáo của địa phương năm 2023, tại tỉnh Yên Bái có 314 vụ việc do các cơ quan tiến hành tố tụng chuyển thông tin đến Trung tâm TGPL. Ở tỉnh Điện Biên, trong năm Toà án nhân dân hai cấp đã thông tin và chuyển về Trung tâm 185 vụ việc giam gia tố tụng.
Về nội dung này, người được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác trợ giúp pháp lý và người thực hiện trợ giúp pháp lý trên địa bàn khảo sát cho rằng người dân có thể tự tìm đến Trung tâm/Chi nhánh do biết được các thông tin về TGPL qua truyền hình đài phát thanh, tờ gấp, tờ rơi...; cơ quan, tổ chức trên địa bàn giới thiệu (cơ quan tiến hành tố tụng, UBND xã, Phòng Tư pháp, Chi nhánh, Trung tâm TGPL nhà nước; Văn phòng luật sư, công ty luật, Trung tâm tư vấn pháp luật); tổ chức đoàn thể trên địa bàn giới thiệu (Hội nông dân, Hội phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn thanh niên, khác); cá nhân trên địa bàn giới thiệu (Cán bộ tư pháp hộ tịch xã; công an xã, hòa giải viên, hội viên các hội, đoàn thể phụ nữ, nông dân, cựu chiến binh, đoàn thanh niên, trưởng thôn, trưởng bản, trợ giúp viên pháp lý, luật sư, tư vấn viên pháp luật, cộng tác viên trợ giúp pháp lý, người quen đã được trợ giúp pháp lý. Trong đó một số kênh thông tin trợ giúp pháp lý đến người dân chủ yếu như Trung tâm TGPL, Chi nhánh, cơ quan tiến hành tố tụng, ủy ban nhân dân cấp xã, cán bộ tư pháp hộ tịch, Trợ giúp viên pháp lý, trưởng thôn, trưởng bản giới thiệu.
Qua kết quả khảo sát cho thấy, có 57,1% người thực hiện TGPL và 66,7% người làm công tác quản lý hoạt động TGPL cho rằng người được TGPL sẽ tìm đến Trung tâm/Chi nhánh do biết được các thông tin về TGPL qua truyền hình, đài phát thanh, tờ gấp, tờ rơi... Kết quả do người thực hiện TGPL khảo sát về việc các cơ quan, tổ chức khác giới thiệu TGPL cho người dân như sau: 100% người thực hiện TGPL cho rằng cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn giới thiệu TGPL cho người dân; 85,7% cho rằng UBND xã giới thiệu TGPL cho người dân; 57,1% cho rằng Phòng Tư pháp giới thiệu TGPL cho người dân; 85,7% cho rằng Chi nhánh, Trung tâm TGPL nhà nước giới thiệu TGPL cho người dân; 33,3% cho rằng Văn phòng luật sư, Công ty luật giới thiệu và 19% cho rằng Trung tâm tư vấn pháp luật giới thiệu TGPL đến người dân.
| Người được TGPL tự tìm đến Trung tâm/Chi nhánh do biết được các thông tin về TGPL qua truyền hình đài phát thanh, tờ gấp, tờ rơi,... |
57,1% |
| Cơ quan/tổ chức trên địa bàn giới thiệu |
|
- Cơ quan tiến hành tố tụng
|
100% |
|
|
85,7% |
|
|
57,1% |
- Chi nhánh, Trung tâm TGPL nhà nước
|
85,7% |
- Văn phòng luật sư, Công ty luật
|
33,3% |
- Trung tâm tư vấn pháp luật
|
19% |
Biểu đồ thể hiện đánh giá của người thực hiện TGPL về việc các cơ quan, tổ chức trên địa bàn giới thiệu cho người dân về TGPL
Hoặc có thể người dân biết đến trợ giúp pháp lý do tổ chức đoàn thể trên địa bàn giới thiệu, cụ thể theo đánh giá của người thực hiện trợ giúp pháp lý tham gia khảo sát như sau: 28,6% cho rằng Hội Nông dân, 33,3% cho rằng Hội Phụ nữ, 23,8% cho rằng Hội Cựu Chiến binh, 23,8% cho rằng Đoàn Thanh niên và 19% cho rằng tổ chức đoàn thể khác giới thiệu TGPL đến người dân.
| Tổ chức đoàn thể trên địa bàn giới thiệu |
|
|
|
28.6% |
|
|
33,3% |
|
|
23,8% |
|
|
23,8% |
|
|
19% |
Biểu đồ thể hiện đánh giá của người thực hiện TGPL về việc các tổ chức đoàn thể trên địa bàn giới thiệu cho người dân về TGPL
Bên cạnh đó, người dân cũng có thể biết đến trợ giúp pháp lý do các cá nhân khác giới thiệu, cụ thể theo đánh giá của người thực hiện trợ giúp pháp lý tham gia khảo sát như sau: 85,7% cho rằng cán bộ tư pháp hộ tịch xã, 47,6% cho rằng công an xã, 28,6% cho rằng hòa giải viên, 33,3% cho rằng hội viên các hội/đoàn thể, 66,7% cho rằng trưởng thôn, trưởng bản, 85,7% trợ giúp viên pháp lý, 47,6% cho rằng luật sư, 19% cho rằng tư vấn viên pháp luật, 81% cho rằng người quen đã từng được TGPL giới thiệu về TGPL cho người dân.
| Cá nhân trên địa bàn giới thiệu |
|
- Cán bộ tư pháp hộ tịch xã
|
85,7% |
|
|
47,6% |
|
|
28,6% |
- Hội viên các hội/đoàn thể: phụ nữ, nông dân, cựu chiến binh, đoàn thanh niên
|
33,3% |
|
|
66,7% |
|
|
85,7% |
|
|
47,6% |
|
|
19% |
|
|
0 |
- Người quen đã từng được TGPL
|
81% |
Biểu đồ thể hiện đánh giá của người thực hiện TGPL về việc các cá nhân trên địa bàn giới thiệu cho người dân về TGPL
- Người quản lý về TGPL tỉnh Điện Biên cho biết người dân biết đến TGPL có thể do qua truyền hình, truyền thanh, Phòng Tư pháp, UBND cấp xã, cán bộ chi hội đoan thể, người có uy tín và người dân giới thiệu với nhau, qua fanpage của Trung tâm, do cơ quan tiến hành tố tụng giới thiệu…
- Truyền thông trực tiếp, phát thanh, treo bảng tin, hộp tin tại trụ sở, cấp phát tờ rơi, tờ gấp… (người thực hiện TGPL tỉnh Điện Biên).
Thông qua kết quả phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm, hội thảo cũng cho thấy rằng, các hình thức để người dân tiếp cận trợ giúp pháp lý đang được triển khai đồng bộ, có sự phối hợp giữa cơ quan, tổ chức trợ giúp pháp lý với các cơ quan, tổ chức khác, trong đó sự phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng, Ủy ban nhân dân cấp xã, cán bộ Tư pháp, trưởng thôn, trưởng bản, của người quen đã từng được trợ giúp pháp lý… đã phát huy vai trò trong thời gian qua. Ở địa bàn khảo sát là khu vực miền núi, thậm chí có những nơi vùng sâu vùng xa, vùng kinh tế xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn thì cán bộ xã, trưởng thôn, trưởng bản là những địa chỉ mà người dân thường tìm đến mỗi khi có vấn đề liên quan đến pháp luật. Thời gian gần đây, còn có một cách thức nữa đó là thông qua việc theo dõi thông tin trên các kênh thông tin đại chúng hoặc mạng xã hội, các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý cũng chủ động hơn trong việc tiếp cận một cách chủ động đến người thuộc diện trợ giúp pháp lý trong vụ việc cụ thể.
|
Nội dung 3: Việc sử dụng trợ giúp pháp lý của người dân
|
Theo Luật TGPL thì trợ giúp pháp lý là cung cấp vụ việc cụ thể liên quan trực tiếp, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được trợ giúp pháp lý trong tất cả các lĩnh vực pháp luật, trừ lĩnh vực kinh doanh, thương mại. TGPL được cung cấp theo các hình thức gồm: Tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật và đại diện ngoài tố tụng.
Theo kết quả đánh giá của người dân tại các địa bàn khảo sát thì cho thấy rằng, có 12,9% số người tham gia khảo sát trả lời đã từng sử dụng dịch vụ trợ giúp pháp lý; còn lại 87,1% người tham gia khảo sát cho biết chưa từng sử dụng dịch vụ trợ giúp pháp lý hoặc không trả lời nội dung này.
Biểu đồ thể hiện tình trạng sử dụng dịch vụ TGPL của người dân (qua đánh giá của người dân)
Trong số những người đã từng sử dụng dịch vụ TGPL, hình thức trợ giúp pháp lý được yêu cầu nhiều nhất là tham gia tố tụng, tiếp đến là tư vấn pháp luật và đại diện ngoài tố tụng. Kết quả khảo sát từ thông tin thu thập được của người dân (bao gồm người đã từng được TGPL và người chưa được TGPL) của Yên Bái và Điện Biên và đánh giá từ người đã từng được TGPL tỉnh Yên Bái như sau:
| |
Đánh giá từ người dân (bao gồm người đã từng được TGPL và người chưa được TGPL) của Yên Bái và Điện Biên |
Đánh giá từ người đã từng được TGPL tại tỉnh Yên Bái |
| Tham gia tố tụng |
36,4% |
88,9% |
| Tư vấn pháp luật |
18,2% |
55,6% |
| Đại diện ngoài tố tụng |
9,1% |
0% |
Biểu đồ về các hình thức trợ giúp pháp lý người được trợ giúp pháp lý
đã được cung cấp
Về lĩnh vực trợ giúp pháp lý đã được cung cấp, kết quả khảo sát cho thấy người dân chủ yếu được trợ giúp pháp lý trong lĩnh vực hình sự, tiếp đến là lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình, lĩnh vực hành chính và lĩnh vực pháp luật khác.
| |
Đánh giá từ người dân (bao gồm người đã từng được TGPL và người chưa được TGPL) của Yên Bái và Điện Biên |
Đánh giá từ người đã từng được TGPL tại tỉnh Yên Bái |
| Pháp luật hình sự |
45,5% |
55,6% |
| Pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình |
9,1% |
11,1% |
| Pháp luật hành chính |
18,2% |
0% |
| Pháp luật khác |
9,1% |
0% |
Biểu đồ về các lĩnh vực trợ giúp pháp lý người được trợ giúp pháp lý
đã được cung cấp
Ngoài ra, qua khảo sát có 27,1% người dân ở hai tỉnh và 20% người đã từng được trợ giúp pháp lý ở Yên Bái cho rằng họ biết được điều việc người thân, người quen của mình được TGPL, còn lại là không biết hoặc không có ý kiến trả lời.
Từ báo cáo công tác TGPL của 02 tỉnh năm 2023, cũng có thể thấy rằng lượng vụ việc trợ giúp pháp lý được thực hiện trong thời gian qua còn khá khiêm tốn. Đặc thù 02 địa phương là các địa bàn này số lượng cá nhân, tổ chức hành nghề luật tham gia trợ giúp pháp lý không nhiều (Yên Bái chỉ có 6 luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý, không có tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý; Điện Biên có 7 luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý, không có tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý), do đó mà trong thời gian qua số lượng vụ việc trợ giúp pháp lý chủ yếu do Trợ giúp viên pháp lý thực hiện (86,5% vụ việc ở Điện Biên do Trợ giúp viên pháp lý thực hiện; 83% vụ việc ở tỉnh Yên Bái do Trợ giúp viên pháp lý thực hiện). Trong số các vụ việc trợ giúp pháp lý này, chủ yếu là các vụ việc tham gia tố tụng (có 78,2% vụ việc tham gia tố tụng trên tổng số vụ việc kết thúc trong kỳ tỉnh Điện Biên), có 93,5% vụ việc tham gia tố tụng trên tổng số vụ việc kết thúc trong kỳ tại tỉnh Yên Bái). Trong số các vụ tham gia tố tụng này, lĩnh vực pháp luật mà người dân được trợ giúp pháp lý nhiều nhất là lĩnh vực hình sự (chiếm 93,2% tổng số vụ việc tham gia tố tụng ở tỉnh Điện Biên, chiếm 77,3% tổng số vụ việc tham gia tố tụng ở tỉnh Yên Bái), sau đó là lĩnh vực pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình; lĩnh vực pháp luật hành chính. Trong lĩnh vực hình sự chủ yếu là các vụ việc liên quan đến ma túy hoặc các tội khác như cố ý gây thương tích, trộm cắp tài sản… (ví dụ như năm 2023 ở Điện Biên các vụ việc liên quan đến ma túy khoảng 60% tổng số vụ việc tham gia tố tụng hình sự, ở Yên Bái khoảng 20% tổng số vụ việc tham gia tố tụng hình sự…).
Bảng1: Số lượng vụ việc TGPL tỉnh Yên bái, Điện Biên năm 2023
(số vụ việc kết thúc trong kỳ)
| Tỉnh |
Tổng số |
Chia theo người thực hiện TGPL |
Chia theo hình thức TGPL |
| Trợ giúp viên pháp lý thực hiện |
Luật sư thực hiện TGPL |
Tư vấn viên pháp luật |
Cộng tác viên TGPL |
Tham gia tố tụng |
Tư vấn pháp luật |
Đại diện ngoài tố tụng |
| Điện Biên |
811 |
702 |
109 |
0 |
0 |
634 |
104 |
73 |
| Yên Bái |
400 |
332 |
68 |
0 |
0 |
374 |
26 |
0 |
Bảng 2: Số lượng lượt người đã được trợ giúp pháp lý tỉnh Yên bái, Điện Biên năm 2023
| |
Tổng số |
Chia theo đối tượng được trợ giúp pháp lý |
|
| Người có công với cách mạng |
Người thuộc hộ nghèo |
Người dân tộc thiểu số |
Người vừa thuộc hộ nghèo, vừa là Người dân tộc thiểu số |
Trẻ em |
Người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi |
Người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo |
Người có khó khăn về tài chính |
|
| Cha mẹ đẻ, vợ, chồng, con của liệt sĩ và người có công nuôi dưỡng khi liệt sĩ còn nhỏ |
Người nhiễm chất độc da cam |
Người cao tuổi |
Người khuyết tật |
Người từ đủ 16 tuổi đến 18 tuổi là bị hại trong vụ án hình sự |
Nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình |
Nạn nhân của hành vi mua bán người |
Người nhiễm HIV |
|
| |
| Tỉnh Điện Biên |
811 |
1 |
13 |
738 |
0 |
32 |
17 |
1 |
0 |
0 |
1 |
0 |
8 |
0 |
0 |
0 |
|
| Tỉnh Yên Bái |
400 |
29 |
34 |
241 |
0 |
45 |
35 |
7 |
2 |
0 |
1 |
6 |
0 |
0 |
0 |
0 |
|
Đối với 02 tỉnh có các địa phương khảo sát, tỷ lệ người dân tộc thiểu số chiếm đa số, do vậy số lượng vụ việc trợ giúp pháp lý thực hiện ở các địa phương này cũng chủ yếu thực hiện cho người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn (theo báo cáo của địa phương: tỷ lệ này ở Điện Biên chiếm 90,9%; tỷ lệ này ở Yên Bái chiếm 60,3%).
Về lý do chưa được trợ giúp pháp lý
Đối với những người chưa được hưởng dịch vụ trợ giúp pháp lý của Nhà nước, cho biết lý do mà họ chưa được trợ giúp pháp lý cũng khá đa dạng, họ không có nhu cầu trợ giúp pháp lý hoặc chưa muốn yêu cầu trợ giúp pháp lý; một số không biết về quyền được trợ giúp pháp lý; ngoài ra còn có các lý do khác như có nhu cầu nhưng vì nhiều lý do khác nhau chưa đến Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước để yêu cầu; thậm chí có thể có trường hợp chưa tin tưởng vào kết quả trợ giúp pháp lý. …
Theo kết quả khảo sát từ người dân, 33,3% người trả lời rằng họ có nhu cầu nhưng không biết về quyền được TGPL; 23,8% người trả lời họ không muốn và không có hoặc chưa có nhu cầu TGPL, 4,8% người trả lời họ có nhu cầu nhưng họ chưa đến yêu cầu, còn lại 38,1% không trả lời về nội dung này hoặc lý do khác.
Biểu đồ thể hiện các lý do mà người dân chưa được sử dụng dịch vụ trợ giúp pháp lý (đánh giá từ phía người dân)
Mức độ hài lòng về dịch vụ trợ giúp pháp lý của người đã được trợ giúp pháp lý
Hiện nay Bộ Tư pháp đã ban hành các quy định về tiêu chí thẩm định, đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý và các tiêu chí đánh giá mức độ thành công, hiệu quả của vụ việc trợ giúp pháp lý. Trong đó có tiêu chí đánh giá về sự hài lòng của người được trợ giúp pháp lý trên cơ sở ý kiến phản hồi của người được trợ giúp pháp lý hoặc người thân thích
[10].
Kết quả khảo sát nhóm người dân đã từng được trợ giúp pháp lý tại hai tỉnh Yên Bái và Điện Biên về mức độ hài lòng về trợ giúp pháp lý, có 63,6% người tham gia khảo sát đánh giá rất hài lòng và hài lòng về dịch vụ TGPL, 34,6%% người cho rằng chưa hài lòng. Đối với khảo sát dành riêng cho người đã từng được trợ giúp pháp lý tại tỉnh Yên Bái, 100% người đánh giá rằng họ rất hài lòng với dịch vụ trợ giúp pháp lý.
Trong số những người dân tham gia khảo sát ở hai tỉnh biết về việc người quen, người thân của mình đã được trợ giúp pháp lý thì có 91,3% người trả lời rằng người quen, người thân đã được TGPL hài lòng với kết quả mà TGPL thực hiện, 8,7% người trả lời rằng người quen, người thân đã được TGPL không hài lòng với kết quả mà TGPL thực hiện hoặc không có ý kiến. Đối với khảo sát người đã từng được TGPL tỉnh Yên Bái, 100% người biết về việc người thân, người quen họ đã được TGPL và đánh giá hài lòng về chất lượng được cung cấp. Một trong những lý do mà người dân cho rằng người quen, người thân của mình được trợ giúp pháp lý nhưng chưa hài lòng với dịch vụ này là do sau khi trợ giúp pháp lý thì kết quả cơ quan có thẩm quyền giải quyết không được như mong muốn của họ (ví dụ là đã được TGPL rồi nhưng vẫn phải chịu án tù…). Điều này cũng phần nào phản ánh hạn chế trong nhận thức của một bộ phận người dân, khi cho rằng đã nhờ trợ giúp pháp lý thì phải được như ý muốn của mình, không bị xử lý, không phải đi tù cho dù có vi phạm pháp luật...
Phản ánh từ người thực hiện trợ giúp pháp lý tại các tỉnh khảo sát, cũng cho rằng, nhiều trường hợp người được TGPL có yêu cầu không phù hợp (ví dụ, yêu cầu Trợ giúp viên pháp lý bảo vệ cho họ không phải chịu trách nhiệm hình sự hoặc hành chính cho dù họ có vi phạm pháp luật; phải đòi bằng được quyền sử dụng đất dù đất đó đang thuộc quyền sử dụng hợp pháp của người khác; phải được hưởng chế độ chính sách cho dù không đủ điều kiện hoặc không có giấy tờ chứng minh...) hoặc chưa hiểu đúng quy định pháp luât, chưa được cập nhật quy định pháp luật liên quan đến vụ việc TGPL; người được TGPL không được cung cấp thông tin hoặc không có đầy đủ thông tin... Đây là những khó khăn của họ trong quá trình thực hiện vụ việc, và do đó cũng ảnh hưởng đến chất lượng vụ việc, mức độ hài lòng của người thụ hưởng dịch vụ.
Ở một góc độ khác (góc độ của tổ chức quản lý và thực hiện TGPL), khi nghiên cứu các báo cáo công tác TGPL hàng năm của Cục TGPL và các địa phương
[11] thì thấy rằng, trong những năm qua, số lượng vụ việc TGPL theo hình thức tham gia tố tụng tăng lên. Cùng với số lượng vụ việc trợ giúp pháp lý tăng lên thì chất lượng các vụ việc trợ giúp pháp lý cũng được quan tâm xem xét, đánh giá để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thuộc diện được trợ giúp pháp lý. Qua công tác thẩm định, đánh giá chất lượng vụ việc TGPL thực hiện hàng năm thì thấy rằng: 100% các vụ việc đều được đánh giá là đạt chất lượng trở lên, cơ quan quản lý TGPL không nhận được khiếu nại, tố cáo về chất lượng TGPL
[12]. Thông qua các tiêu chí cụ thể do Bộ Tư pháp ban hành theo từng lĩnh vực tham gia tố tụng, tư cách tham gia tố tụng và giai đoạn tham gia tố tụng của người được trợ giúp pháp lý, các cơ quan có thẩm quyền đã đánh giá hiệu quả vụ việc trợ giúp pháp lý để xác định vụ việc thành công
[13]. Năm 2023, tỉnh Yên Bái có 40% số lượng vụ việc tham gia tố tụng thành công, trong đó 75,7% là vụ việc tham gia tố tụng thành công trong lĩnh vực hình sự; 24,3% là vụ việc tham gia tố tụng thành công trong lĩnh vực dân sự. Năm 2023, ở tỉnh Điện Biên có 33,4% số lượng vụ việc tham gia tố tụng thành công (trong đó 86,6% là vụ việc tham gia tố tụng thành công trong lĩnh vực hình sự; 13,4% là vụ việc tham gia tố tụng trong lĩnh vực dân sự). Những kết quả này đã minh chứng vai trò của Trợ giúp pháp lý trong việc góp phần bảo vệ quyền tiếp cận công lý và công bằng trước pháp luật của người dân, đặc biệt là những đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội.
CÁC RÀO CẢN TRONG TIẾP CẬN VÀ SỬ DỤNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CỦA NGƯỜI DÂN TẠI TỈNH ĐIỆN BIÊN VÀ YÊN BÁI
Trên cơ sở thực trạng, những khó khăn trong việc tiếp cận và sử dụng trợ giúp pháp lý của người dân từ các khía cạnh khác nhau, được đánh giá bởi các chủ thể khác nhau, cùng với việc phân tích những yếu tố khác như văn hóa, giới tính, ngôn ngữ, địa lý… để tìm ra các phát hiện về rào cản trong tiếp cận và sử dụng trợ giúp pháp lý của người dân. Những khó khăn được đánh giá trực tiếp từ phía người dân, người thực hiện trợ giúp pháp lý, người quản lý trợ giúp pháp lý, người phối hợp trong TGPL, cán bộ công chức cấp xã... đây là những nhóm người mà thông công việc trực tiếp của mình có thể hiểu và đánh giá cụ thể về những rào cản khiến người dân còn hạn chế trong tiếp cận và sử dụng trợ giúp pháp lý thời gian qua.
2.1. Tâm lý, giới tính đã ảnh hưởng nhiều tới việc tiếp cận TGPL của người dân
Theo thông tin từ các cuộc thảo luận nhóm và phỏng vấn sâu thì, nhiều người nghèo, người dân tộc thiểu số, phụ nữ và trẻ em ở miền núi và nông thôn... thường mang tâm lý tự ti, mặc cảm, e ngại khi tiếp xúc với người lạ, với các cơ quan tổ chức; không biết và cũng không chủ động tiếp cận các thông tin pháp luật, thậm chí có trường hợp từ chối ngay nếu không được người thân quen, người có uy tín giải thích kỹ. Kết quả khảo sát cho thấy, có 44,4% người dân được khảo sát cho rằng địa điểm của tổ chức thực hiện TGPL ở trụ sở của cơ quan nhà nước nên người dân ngại đến; 100% ý kiến của cán bộ công chức cấp xã cũng đồng ý với quan điểm này. Có 47% người dân được khảo sát và 87% người thực hiện trợ giúp pháp lý, 100% người quản lý công tác TGPL cho biết nhiều người dân thường có tâm lý e ngại khi gặp cán bộ nhà nước. Bên cạnh đó, có 29% người dân cho rằng họ gặp khó khăn khi gặp cán bộ TGPL. 15% người dân cho rằng họ gặp khó khăn khi găp chính quyền địa phương để trình bày, 15 % người dân cho rằng họ gặp khó khăn khi gặp cán bộ xã trên địa bàn; 12% người dân cho rằng họ gặp khó khăn khi gặp cán bộ đoàn thể ở cơ sở và chỉ 6% người dân cho rằng họ khó khăn khi gặp cán bộ thôn, bản, 6% người dân cho rằng họ khó khăn khi gặp người có uy tín trong cộng đồng.
Cán bộ công chức xã Đồng Khê, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái tham gia khảo sát cho biết: Nhiều người dân ở đia phương có tâm lý e ngại khi tìm đến các cơ quan nhà nước.
Hơn nữa, bản thân nhiều người dân cũng có thể chưa hiểu về trợ giúp pháp lý là dịch vụ pháp lý miễn phí mà Nhà nước ưu đãi dành cho họ, bởi vậy họ luôn có tâm lý rằng, có người giúp mình, bảo vệ mình trước tòa thì phải trả tiền. Vốn dĩ bản thân họ đã là người nghèo, người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa thì khi nghĩ tới việc sẽ phải mất một khoản tiền (mà họ thường tin rằng đó là một khoản tiền lớn). Do đó khi có vướng mắc pháp luật hoặc gặp vấn đề liên quan đến pháp luật họ có tâm lý e dè, cân nhắc, không dám tìm đến yêu cầu giúp đỡ, kể cả là trợ giúp pháp lý. Đối với một số nhóm biết về trợ giúp pháp lý thì có thể lại có tâm lý rằng, đây là chính sách miễn phí, mà miễn phí thì có thể chất lượng chưa chắc đã tốt, nên họ cũng có tâm lý băn khoăn khi lựa chọn, sử dụng.
Ngoài ra, với đặc thù là các tỉnh miền núi, vùng sâu vùng xa, có điều kiện kiện kinh tế xã hội khó khăn, việc tiếp cận trợ giúp pháp lý của một số đối tượng đặc thù như phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật..., nhất là khi họ là nạn nhân của bạo lực gia đình, tội phạm mua bán người.v.v sẽ càng gặp khó khăn. Bởi vì, khi rơi vào những hoàn cảnh này họ sẽ có tâm lý mặc cảm tự ti, cam chịu, e ngại, xấu hổ hoặc sợ bị trả thù..., hơn nữa đa số sinh sống ở những nơi có hoàn cảnh sống khó khăn, trình độ dân trí thấp, thiếu hiểu biết pháp luật, không rõ về các quyền và nghĩa vụ của mình. Chính vì vậy, khi bị xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình họ cũng không biết để tiếp cận được quyền trợ giúp pháp lý cho bản thân mình. Đáng chú ý là vấn đề giới tính, độ tuổi... cũng có thể có tác động nhất định, dù là rất nhỏ, đối với người dân khi tiếp cận và sử dụng dịch vụ công này. Có khoảng 10% người dân được khảo sát cho rằng lý do chưa phù hợp về giới tính, 10% chưa phù hợp về độ tuổi... cũng có thể là những rào cản khi tiếp cận TGPL của người dân các tỉnh miền núi. Theo số liệu khảo sát, có 61,9% người thực hiện TGPL đánh giá rằng họ cũng gặp khó khăn trong quá trình làm việc với đối tượng được TGPL khác giới tính. Việc gặp khó khăn trong quá trình làm việc có thể xuất phát từ các đặc điểm giới tính của người được trợ giúp pháp lý, ví dụ như người được trợ giúp pháp lý là nữ, nhất là trong các vụ việc có liên quan đến yếu tố giới tính như bạo lực tình dục, hiếp dâm, cưỡng dâm, bạo lực gia đình... họ thường có tâm lý e ngại, xấu hổ, tâm lý khép mình ... hoặc nam giới có tính gia trưởng nên họ không chia sẻ hoặc chỉ chia sẻ phần nào nội dung sự việc, vì vậy người thực hiện TGPL sẽ khó khăn để có đầy đủ các thông tin, tài liệu liên quan vụ việc, từ đó có các phương án, lập luận để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Nhiều chị em bị bạo lực gia đình thường có tâm lý lo sợ, e ngại, mặc cảm, xấu hổ không dám công khai, không sẵn sàng chia sẻ câu chuyện của bản thân – Chia sẻ của người có uy tín xã Ẳng Cang tại hội thảo tham vấn tỉnh Yên Bái
2.2 Bất đồng ngôn ngữ là một khó khăn, rào cản trong tiếp cận TGPL của người dân
Tại các địa bàn khảo sát, người dân tộc chiếm tỷ lệ cao. Yên Bái với đặc điểm người dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ 57,4% dân số, đồng bào Mông chiếm số lượng lớn, sinh sống tập trung ở 02 huyện nghèo Trạm Tấu và Mù Cang Chải (trên 90% dân số của huyện). Điện Biên là tỉnh có 19 dân tộc trong đó trên 80% là người dân tộc thiểu số, nhiều người dân không nghe, nói, đọc, viết được tiếng Việt, không biết chữ; trong khi đó, đa số người làm công tác TGPL không biết hoặc không thông thạo tiếng dân tộc thiểu số; nhiều trường hợp nhờ phiên dịch là người dân địa phương nhưng lai không có kiến thức pháp luật, không biết từ chuyên ngành nên việc dịch để người dân hiểu được rất khó khăn, không chuyển tải được hết nội dung. Do đó, khi mà người dân còn e ngại về tâm lý, lại thêm rào cản về ngôn ngữ, thì họ càng e ngại tìm đến các cơ quan nhà nước, trong đó có Trung tâm TGPL nhà nước để đề nghị được giúp đỡ. Trong khi đó, những người làm công tác pháp luật và TGPL không thông thạo các tiếng dân tộc thiểu số thì khó có thể tiếp cận nhóm đối tượng này để làm quen, trao đổi, giải thích.
- Cán bộ chi hội đoàn thể xã Ẳng Tở, huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên: Một vài trường hợp trả lời khó tiếp cận được TGPL do không biết chữ, không biết tiếng phổ thông.
- Thậm chí trong trường hợp nhờ người phiên dịch thì bản thân người phiên dịch cũng không có khả năng phiên dịch được hết các từ ngữ pháp lý (chia sẻ của đại diện Đoàn Luật sư tại Hội thảo tỉnh Điện Biên và Đại diện Sở Tư pháp tỉnh Yên Bái).
Đồng quan điểm về sự khác biệt ngôn ngữ gây khó khăn trong cả việc tiếp cận và sử dụng TGPL cho người dân, khi được hỏi về vấn đề này các đối tượng tham gia khảo sát đều thể hiện ở các mức độ khác nhau. Cụ thể, có 9% người dân, 85,7% người thực hiện TGPL, 100% người quản lý công tác TGPL tham gia khảo sát cho rằng một trong những khó khăn mà người dân gặp phải trong tiếp cận các dịch vụ công trong đó có dịch vụ TGPL là vì bất đồng ngôn ngữ, ít cán bộ, công chức biết tiếng dân tộc. Cũng theo kết quả khảo sát cho thấy, trong quá trình thực hiện TGPL có 66,7% người thực hiện TGPL cho rằng họ đã từng gặp khó khăn này, họ thấy khó có thể hiểu rõ vụ việc do đối tượng là đồng bào dân tộc thiểu số ít người không biết tiếng phổ thông, phiên dịch cũng không thể diễn đạt chính xác và rõ ràng hết ý được. Việc người dân không thông thạo tiếng phổ thông và người đi truyền thông không biết tiếng dân tộc thiểu số thì dẫn tới hiệu quả của công tác truyền thông không cao. Người dân có thể đến tham dự đầy đủ, rất trật tự nhưng không tiếp nhận được đầy đủ thông tin, không hiểu được nội dung truyền thông thì khó có thể tiếp cận và yêu cầu TGPL.
Trong cuộc thảo luận nhóm, nhiều ý kiến cho rằng một số cán bộ truyền thông trong đó có Trợ giúp viên pháp lý chưa nói được tiếng dân tộc để truyền thông, nội dung trình bày chưa hấp dẫn, chưa sinh động; một số người nói nhỏ; chưa lồng ghép tình huống thực tế (thảo luận nhóm cán bộ bộ hội, đoàn thể tại huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái: TLNDK10, nữ, dân tộc Tày, TLNDK13, nữ; TLNDK8, nữ, dân tộc Tày).
Truyền thông chưa thực sự phù hợp vì nhiều người dân không biết tiếng phổ thông nên không tiếp cận được thông tin về TGPL. (Cán bộ, công chức ở xã bản Công, huyện Trạm Tấu, Yên Bái).
Đối với những địa phương có nhiều nhóm người dân tộc ít người khác nhau sinh sống, với lực lượng người thực hiện TGPL mỏng, nếu có học tiếng dân tộc thì cũng thường chỉ biết 01 -02 thứ tiếng (ví dụ tiếng Thái, Mông, Tày...); một số nhóm dân tộc thiểu số khác khó có thể học được (ví dụ tiếng Khơ Mú, Hà Nhì, La Hủ, Giáy...), nên việc truyền thông về pháp luật và TGPL tại các địa bàn này càng gặp khó khăn, chủ yếu thông qua người địa phương nên không truyền tải được đầy đủ và chính xác các thông điệp truyền thông. Trường hợp có người dân đến yêu cầu TGPL nhưng người thực hiện không biết tiếng dân tộc hoặc biết nhưng chưa thông thạo mà chưa kịp nhờ phiên dịch thì cũng ảnh hưởng đến việc tiếp nhận thông tin của Trung tâm TGPL và tâm lý của người dân.
Phỏng vấn sâu người quản lý công tác TGPL ở tỉnh Yên Bái cho biết: Người có nhu cầu được TGPL là người dân tộc thiểu số nên thường gặp rào cản về ngôn ngữ giao tiếp; Yên Bái là vùng nhiều đồng bào dân tộc thiểu số trong khi đó đa phần nguồn lực thực hiện TGPL chỉ biết tiếng phổ thông nên có sự bất đồng ngôn ngữ.
Công chức Phòng Tư pháp huyện Trạm Tấu, tỉnh Yên Báicho rằng người dân có nhu cầu tìm hiểu và sử dụng dịch vụ TGPL, tuy nhiên do khả năng nhận thức phần nào còn hạn chế, bất đồng trong ngôn ngữ nên cần sự hỗ trợ, giải thích từ người khác.
2.3. Văn hóa, thói quen khi gặp vướng mắc pháp luật đã ảnh hưởng đến tiếp cận TGPL
Thông thường, trong đời sống hằng ngày khi gặp những khó khăn, vướng mắc pháp luật, người dân chưa có thói quen sử dụng các dịch vụ pháp lý; nhiều người dân ở nông thôn, miền núi vùng sâu, vùng xa còn sử dụng phong tục, tập quán hoặc hỏi người thân, cán bộ tại cộng đồng tư vấn, hướng dẫn, giải đáp thông tin về pháp luật hoặc hỏi kinh nghiệm của người thân, hàng xóm về giải quyết vấn đề vướng mắc.
Kết quả khảo sát cho thấy, có 18% người dân tham gia khảo sát, cho rằng phong tục tập quán là một trong những rào cản khiến việc tiếp cận, sử dụng dịch vụ TGPL của người họ còn khó khăn, hạn chế. Trong khi đó, có 80% cán bộ công chức xã, 76,2% người thực hiện TGPL và đặc biệt 100% người quản lý công tác TGPL đánh giá người dân trên địa bàn sẽ gặp khó khăn trong tiếp cận, sử dụng dịch vụ TGPL do phong tục tập quán tại địa phương.
Người quản lý nhà nước về công tác TGPL tỉnh Yên Bái cho biết: “Do chưa có thói quen sử dụng pháp luật nên người dân chưa tự tìm hiểu về dịch vụ trợ giúp pháp lý”.
Người quản lý nhà nước về công tác TGPL tỉnh Điện Biên cũng cho rằng: “Do chưa có thói quen sử dụng pháp luật mà vẫn sử dụng phong tục tập quán”.
Ở những nơi vẫn tồn tại các hủ tục lạc hậu thì việc người dân giải quyết tranh chấp phù hợp với quy định pháp luật còn gặp những hạn chế nhất định, bởi vì hầu hết những mâu thuẫn, tranh chấp, vướng mắc ở vùng này đều được giải quyết theo tục lệ của làng, của bản mà ít có thói quen sử dụng dịch vụ pháp lý. Khi có vướng mắc pháp luật, họ thường tìm đến trưởng thôn, trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng… để chia sẻ, nhờ cậy bởi họ tin tưởng, hy vọng trưởng thôn, trưởng bản… sẽ giải quyết được hoặc cho ý kiến quan trọng đối với những vấn đề của mình. Đa số đội ngũ cán bộ tại tại thôn bản (Bí thư chi bộ thôn, Bí thư Đoàn thanh niên, Chi hội trưởng chi hội phụ nữ, già làng, trưởng bản, trưởng dòng họ…) là những người gắn bó với người dân, hiểu phong tục tập quán của địa phương, dễ dàng nắm bắt các vấn đề phát sinh trong cộng đồng dân cư. Tuy nhiên, cũng có thể có trường hợp, nếu những vấn đề mâu thuẫn không được giải quyết triệt để thì sẽ dẫn tới phức tạp hơn, kéo dài và có thể dẫn đến hệ lụy lớn hơn. Với thói quen giải quyết các sự, vụ theo phong tục, tập quán của địa phương thì có thể sẽ làm chuyển biến quan hệ pháp luật từ tranh chấp nhỏ thành lớn, từ dân sự, hôn nhân gia đình thành quan hệ pháp luật hình sự hoặc có thể bỏ lỡ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, trong đó có quyền được trợ giúp pháp lý của người dân, đặc biệt là nhóm yếu thế.
Khi có tranh chấp hay sự kiện gì trong thôn chúng tôi đều nắm bắt được thông tin (Qua thảo luận nhóm với cán bộ chi hội đoàn thể xã Ẳng Tở, xã Chiềng Sinh: TLNAT05, TLNAT03, TLNAT03; xã Chiềng Đông huyện Mường Ảng tỉnh Điện Biên: TLNCD01, nam, dân tộc Thái, TLNCD08, nam, dân tộc Mông)
Chúng tôi thường xuyên tham gia hòa giải những tranh chấp nhỏ trong nhân dân, chẳng hạn tranh chấp bờ rào, tranh chấp lối đi, tranh chấp mương nước… (thảo luận nhóm cán bộ chi hội đoàn thể xã Chiềng Sinh huyện Mường Ảng tỉnh Điện Biên: TLNAT01, nam, dân tộc Khơ Mú, TLNAT02, nam, dân tộc Thái).
Chúng tôi đã được tập huấn về công tác hòa giải (thảo luận nhóm với già làng, trưởng bản, trưởng dòng họ và cán bộ chi hội đoàn thể tại xã Chiềng Đông huyện Mường Ảng tỉnh Điện Biên: TLNCD01, nam, dân tộc Thái, TLNCD02, nam, dân tộc Thái, TLNCD07,nam, dân tộc Thái, TLNCD09, nam, dân tộc Thái).
2.4. Trình độ văn hoá, nhận thức, hiểu biết của một bộ phận người dân về pháp luật và TGPL còn hạn chế
Ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, nơi có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, trình độ dân trí, nhận thức, hiểu biết của người dân về pháp luật nói chung và về TGPL nói riêng không đồng đều, nhiều nơi còn khá hạn chế.
Theo kết quả khảo sát cho thấy, có 90,5% người thực hiện TGPL, 66,7% người quản lý công tác TGPL, 80% cán bộ công chức xã tham gia khảo sát cho rằng nhận thức, hiểu biết pháp luật của người được TGPL hiện này là một rào cản trong tiếp cận và sử dụng dịch vụ TGPL. Có 40% cán bộ, công chức xã cho rằng nếu người dân không biết về TGPL, những lợi ích mà TGPL mang đến cho mình thì họ sẽ không quan tâm, không tiếp cận và sử dụng dịch vụ TGPL. Cũng chính vì nhận thức, hiểu biết của một số người dân chưa cao nên trong quá trình thực hiện TGPL cho họ, người thực hiện TGPL cũng gặp những khó khăn trong quá trình tiếp cận và khai thác tình tiết nội dung vụ việc, thu thập tài liệu, chứng cứ, giấy tờ có liên quan (66,7% người quản lý công tác TGPL, 90,5% người thực hiện TGPL đưa ra nhận xét này), hoặc người được TGPL có đòi hỏi không phù hợp như yêu cầu người thực hiện TGPL phải giúp được không bị xử lý hình sự hoặc nếu bị xử thì chỉ bị tuyên phạt với mức án nhất định nhẹ hơn quy định; hoặc yêu cầu TGPL giúp họ đòi bằng được quyền sử dụng đất mặc dù đang thuộc quyền sử dụng hợp pháp của người khác...(71,4% người thực hiện TGPL, 33,3% người quản lý công tác TGPL đưa ra nhận định này).
Khi mà nhận thức, hiểu biết của người dân về xã hội, về pháp luật nói chung và về TGPL nói riêng còn hạn chế, họ có thể không biết và không nghĩ tới các hậu quả pháp lý có thể nhận được khi có hành động vi phạm pháp luật. Ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, nơi có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vướng mắc, vi phạm của người dân chủ yếu là trong lĩnh vực hình sự, thường có hành vi như: trộm cắp tài sản, hủy hoại rừng, buôn bán, sử dụng trái phép ma túy hoặc tranh chấp đất đai… Nguyên nhân là do nhận thức, trình độ hiểu biết pháp luật của người dân còn hạn chế, suy nghĩ đơn giản trong khi bận rộn với nhứng mối lo về việc làm, khó khăn về kinh tế, kiếm sống... phần nào đã tác động tiêu cực đến hành vi của họ. Hơn nữa, cuộc sống khó khăn, vất vả, lại thuộc vùng dân tộc thiểu số cách xa trung tâm, điều kiện tiếp cận với thông tin pháp luật còn hạn chế nên khi có những vụ việc liên quan đến pháp luật, họ không biết phải làm thế nào, phải tìm đến ai để bảo vệ quyền và lợi ích của họ. Có trường hợp người dân đã được giải thích, hướng dẫn yêu cầu TGPL nhưng họ từ chối vì cho rằng đã vi phạm pháp luật thì không có ai giúp đỡ được, TGPL sẽ chẳng thể làm gì để giúp họ hoặc bản thân họ cho rằng nếu nhờ TGPL sẽ phức tạp hơn... nên từ chối yêu cầu giúp đỡ, hỗ trợ và TGPL.
- Một số người dân không chủ động tìm hiểu về TGPL vì không quan tâm đến lĩnh vực TGPL.
- Một phần người dân biết dịch vụ TGPL do nhà nước cung cấp là miễn phí, tuy nhiên người dân vẫn không nắm được đối tượng nào thuộc diện được TGPL, thủ tục chứng minh mình thuộc diện được TGPL, lĩnh vực nào được TGPL.
- Người dân còn e ngại nên chưa chủ động tìm đến Trung tâm TGPL khi có nhu cầu. Nhiều người ngại các loại giấy tờ, thủ tục kể cả thủ tục TGPL.
(Kết quả phỏng vấn sâu Cán bộ, công chức ở xã Bản Công, huyện Trạm Tấu, tỉnh Yên Bái)
Cán bộ công chức xã Đồng Khê, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái:
Do trình độ dân trí không đồng đều, nhận thức pháp luật của nhiều người dân còn chưa cao nên mặc dù đã được truyền thông nhưng một số nhóm người dân không nắm được quy định của pháp luật về TGPL, khi có nhu cầu thì họ không biết liên hệ với cơ quan nào để được giúp đỡ.
Do nhận thức pháp luật và hiểu biết xã hội của những người này chưa cao, nên việc giải thích cho họ về những vấn đề xã hội, gắn với các quy định pháp luật là khá khó khăn. Ngay trong quá trình khảo sát đã thấy rằng, nhận thức của một bộ phận người dân còn khá hạn chế nên với những câu hỏi khảo sát còn khá đơn giản (chỉ cần trả lời có/không và được cán bộ thực hiện khảo sát hướng dẫn, giải thích cụ thể), tuy nhiên vẫn còn khá nhiều câu trả lời chưa cung cấp thông tin chính xác, mâu thuẫn, không hợp lý nên chưa đánh giá chính xác thực trạng của việc tiếp cận, sử dụng trợ giúp pháp lý và những rào cản trong việc này đối với một số người dân, nhất là nhóm dân tộc thiểu số cao tuổi.
Chia sẻ của đại diện Đoàn Luật sư tại hội thảo tham vấn tỉnh Điện Biên
- Trong các vụ án về hôn nhân, gia đình cho thấy mặc dù các đối tượng đều còn trẻ nhưng không biết đến quy định của pháp luật về độ tuổi kết hôn, về tảo hôn, về hôn nhân cận huyết thống, nên khi được giải thích, hướng dẫn họ vẫn không chấp nhận và còn khẳng định: Khi 2 người thích nhau, được bố mẹ, anh em, họ hàng hai bên tổ chức đám cưới theo phong tục địa phương thì đương nhiên họ là vợ chồng và đã là vợ chồng thì quan hệ tình dục là quy luật tự nhiên, nên họ không thừa nhận là họ đã vi phạm pháp luật;
- Trong các vụ án vi phạm quy định về bảo vệ rừng, người dân cho rằng diện tích họ chặt phá là nương rẫy luân canh từ nhiều năm trước, từ ông bà, tổ tiên khai hoang …, nhà nước đưa vào quy hoạch rừng không thông báo cho dân, thậm chí có trường hợp còn cho rằng phải đền bù cho dân.
2.5. Khoảng cách địa lý, giao thông đi lại khó khăn là một rào cản không nhỏ trong tiếp cận và sử dụng TGPL
Tại các tỉnh khảo sát, cho thấy, địa bàn sinh sống của người dân thường ở thôn, bản cách xa Trung tâm TGPL tỉnh (thậm chí có nơi cách xa trên 200km- 300km)
[14] (như ở huyện Mù Cang Chải cách thành phố Yên Bái khoảng 200 km, huyện Mường Nhé cách thành phố Điện Biên khoảng 200 km,...), đường giao thông đi lại khó khăn, địa hình phức tạp, đa dạng, đèo dốc nguy hiểm. Theo phản ảnh từ các Trung tâm này, nhiều trường hợp đồng bào ở vùng sâu, vùng xa; có vướng mắc về pháp lý nhưng do quá xa Trung tâm TGPL và các chi nhánh của Trung tâm, thậm chí có trường hợp không biết được phải đến đâu để được TGPL, cho nên nhiều người chấp nhận thiệt thòi, hoặc đến khi sự việc rất khó giải quyết mới đến yêu cầu TGPL. Các phương tiện công công như xe buýt... thường di chuyển giữa các trục đường lớn hoặc các địa điểm nhằm phục vụ thúc đẩy, phát triển du lịch, kinh tế... Ở những nơi xa, hoặc có địa hình phức tạp thì người dân thường di chuyển bằng xe đạp, xe máy để đến trung tâm thôn, bản. Những người không có phương tiện để di chuyển thì phải đi bộ. Do đó, đời sống kinh tế còn khó khăn, không có phương tiện đi lại phù hợp cũng là một trở ngại khi người dân muốn tìm đến các tổ chức thực hiện TGPL.
Kết quả khảo sát cho biết, có 44% người dân cho rằng trụ sở của tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý ở quá xa, trong khi đó có 60% cán bộ công chức cấp xã, 90,5% người thực hiện TGPL cho rằng giao thông đi lại đến tổ chức TGPL còn gặp khó khăn, đặc biệt có tới 95,2% người thực hiện TGPL và 100% người quản lý công tác TGPL đều đánh giá rằng người dân sẽ ngại đến tổ chức thực hiện TGPL vì đường xa;…. Như vậy, khoảng cách địa lý, giao thông đi lại khó khăn là một rào cản không nhỏ trong tiếp cận và sử dụng TGPL của người dân.
Người dân sống xa địa điểm tổ chức truyền thông; do các hộ dân ở rải rác trên thôn bản nên công tác tuyên truyền gặp nhiều khó khăn; Việc di chuyển giữa các thôn bản cũng còn gặp nhiều khó khăn do địa hình trắc trở (kết quả phỏng vấn sâu cán bộ chi hội đoàn thể Bản Công, Trạm Tấu, Yên Bái)
Do điều kiện đi lại xa xôi, khó khăn nên người dân e ngại mất nhiều thời gian và tốn kém chi phí đi lại, ăn nghỉ khi đến yêu cầu trợ giúp pháp lý. Nhiều ý kiến cho biết, khi mà cuộc sống mưu sinh còn vất vả, khó khăn, hàng ngày đi làm rẫy, nay no mai đói nên các vấn đề khác chưa phải là mối quan tâm của những người dân nghèo, đặc biệt là người dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa. Ở các bản làng xa ở miền núi, vùng sâu, vùng xa đi đến Ủy ban nhân dân xã có khi còn mất cả tiếng đồng hồ, đi lên trung tâm huyện và trung tâm tỉnh để yêu cầu TGPL còn xa hơn nhiều nên đây cũng là một trở ngại khiến người dân có thể sẽ không sử dụng quyền được yêu cầu TGPL của mình.
2.6. Một số quy định về việc tiếp cận và sử dụng trợ giúp pháp lý chưa đầy đủ, chưa chi tiết
Pháp luật về TGPL đã quy định trách nhiệm cơ quan quản lý TGPL Trung ương và địa phương trong việc tổ chức và thực hiện truyền thông về TGPL; đồng thời quy định trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan nhà nước có liên quan, Phòng Tư pháp, UBND cấp xã trong việc giới thiệu người được trợ giúp pháp lý đến Trung tâm trợ giúp pháp lý. Bên cạnh đó, các quy chế, chương trình phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức về trợ giúp pháp lý với các cơ quan, tổ chức ở Trung ương và địa phương (Công an, Tòa án, Ban dân tộc, Hội Luật gia, Đoàn Luật sư, Hội phụ nữ…) góp phần tăng cường sự tiếp cận trợ giúp pháp lý của người dân. Như đã trình bày ở trên, hiện nay có rất nhiều hình thức để người dân tiếp cận TGPL; tuy nhiên chưa có hướng dẫn cụ thể về các hình thức tiếp cận dịch vụ TGPL, cách thức tổ chức thực hiện và tiêu chí đo lường về hiệu quả của việc tiếp cận dịch vụ TGPL của người dân.
Điều 29 Luật TGPL 2017 quy định về các cách thức người dân có thể lựa chọn để nộp hồ sơ yêu cầu TGPL (từ trực tiếp, điện tử, bưu chính...). Tuy nhiên, chưa có hướng dẫn cụ thể về quy trình người dân được cung cấp dịch vụ công thông qua hình thức điện tử (trực tuyến) để người dân thuận lợi hơn khi được TGPL.
2.7. Cách thức tổ chức thực hiện và nội dung, hình thức truyền thông trợ giúp pháp lý ở một số nơi, trong một số thời điểm hiệu quả chưa cao
Mặc dù trong thời gian gần đây ở cả Trung ương và địa phương đều tập trung đổi mới công tác truyền thông với nhiều hình thức đa dạng, phong phú và mang lại một số hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, nội dung, phương thức truyền thông chưa thực sự phù hợp đối với một số nhóm đối tượng (ví dụ người khuyết tật với các dạng tật khác nhau, các nhóm người dân tộc thiểu số khác nhau, trẻ em nhất là trẻ có hoàn cảnh đoặc biệt, trẻ khuyết tật, phụ nữ và trẻ em là nạn nhân bạo lực gia đình...); chưa đáp ứng được nhu cầu, đặc điểm của từng nhóm dân cư, cũng như đặc thù của các khu vực khác nhau.
Theo kết quả khảo sát về cách thức tổ chức, nội dung, hình thức truyền thông trong thời gian qua vẫn còn có những hạn chế như nội dung truyền thông chưa thật sự phù hợp với nhu cầu của người dân tại thời điểm truyền thông hoặc thông tin chưa dễ hiểu, chưa phong phú, đa dạng hoặc chưa được thông báo về TGPL. Cụ thể, có 11.7% người dân và 4,8% người thực hiện TGPL cho rằng một số nội dung thông tin truyền thông chưa thật sự phù hợp với nhu cầu của người dân tại thời điểm truyền thông. Trong khi đó có 29,4% người dân, 20% công chức xã, 38,1% người thực hiện TGPL cho rằng thông tin chưa dễ hiểu. Bên cạnh đó, có 11,7% người dân, 20% công chức xã, 66,7% người thực hiện TGPL cho rằng thông tin chưa phong phú, chưa đa dạng và 70,5% người dân, 57,1% người thực hiện TGPL cho biết chưa thông tin về TGPL ở vùng sâu vùng xa, hẻo lánh... Đây là những rào cản trong công tác thông tin, truyền thông về TGPL.
Tại các địa phương, Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước và chi nhánh của Trung tâm đã luân phiên tổ chức các đợt truyền thông về trợ giúp pháp lý theo nhiều phương thức và vào các thời điểm khác nhau. Người thực hiện truyền thông chủ yếu là cán bộ của Trung tâm, Chi nhánh; nhiều trường hợp phối hợp với cơ quan tư pháp địa phương, Hội phụ nữ, Hội nông dân, Hội khuyết tật... Hình thức truyền thông phổ biến là tổ chức hội nghị để truyền thông giới thiệu trực tiếp tại hội nghị, phát tờ gấp pháp luật, tờ rơi về TGPL, dán bảng thông tin tại trụ sở các cơ quan tiến hành tố tụng, Ủy ban nhân nhân cấp xã... Ngoài ra hiện nay còn có một số hình thức truyền thông mới như xây dựng các thông điệp TGPL với nội dung ngắn gọn phát ở Đài tiếng nói Việt Nam, xây dựng và phát sóng những kịch bản phim, phóng sự về các vụ việc TGPL tham gia tố tụng hiệu quả, thành công hoặc tiếp nhận thông tin qua đường dây nóng, theo dõi thông tin TGPL trên các phương tiện thông tin đại chúng...
Nội dung truyền thông bao gồm: thông tin giới thiệu về trợ giúp pháp lý, người thuộc diện trợ giúp pháp lý, lợi ích của việc được TGPL, thủ tục yêu cầu trợ giúp pháp lý,… Ngoài thông tin về trợ giúp pháp lý, người dân còn được giới thiệu về quyền và nghĩa vụ của công dân, chính sách an sinh xã hội đối với trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật, người có công với cách mạng và đặc biệt là người dân tộc thiểu số; chính sách đất đai, hợp đồng mua bán, vay mượn, quy định pháp luật về hình sự,… Đây là những vấn đề người dân hay quan tâm vì có liên quan đến những vụ việc cụ thể xảy ra tại địa phương. Tuy nhiên, qua phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm nhiều ý kiến cho rằng hiện nay còn ít phương thức phù hợp với người dân, đặc biệt là người dân tộc thiểu số, chưa có phương thức truyền thông riêng, phù hợp cho đối tượng đặc thù. Một số người cho biết họ đã từng tham dự một số hội nghị truyền thông về pháp luật và TGPL, tuy nhiên về nội dung thì không còn nhớ nữa, có trường hợp mặc dù đã đi truyền thông về TGPL thì vẫn không biết trợ giúp pháp lý là gì.
Nội dung tuyên truyền hơi khó hiểu, chưa thu hút được người dân tham gia (thảo luận nhóm với người dân xã Ẳng Tở, huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên: TLNAT16, TLNAT26, TLNAT21, TLNAT36).
Người dân chỉ tiếp thu được khoảng 40- 60% nội dung truyền thông (thảo luận nhóm công chức xã, huyện tại huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái: TLNDK1, nam, dân tộc Tày, TLNDK3).
Cán bộ ở xã bản Công, huyện Trạm Tấu, Yên Bái cho biết nếu có thể nên trình bày các quy định của pháp luật cô đọng, tóm gọn hơn, có các tình huống ví dụ thực tế đơn giản để người dân dễ nắm bắt hơn.
Nguồn lực cho công tác truyền thông còn thiếu, viên chức của Trung tâm trợ giúp pháp lý đa số có trình độ cử nhân trở lên chuyên ngành luật nhưng chưa được đào tạo kỹ năng, nghiệp vụ truyền thông. Kinh phí truyền thông cũng còn hạn chế do đó công tác truyền thông về TGPL chưa hiệu quả.
Thiếu một số thiết bị cơ bản như loa, màn chiếu nên khi cán bộ truyền thông nói thì không có hình ảnh minh họa, khiến bà con thấy nhàm chán (thảo luận nhóm trưởng thôn, trưởng bản tại xã Chiền Sinh, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên: TLNCS08, nam, dân tộc Thái, TLNCS07, nữ, dân tộc Thái)
Người quản lý nhà nước về công tác TGPL tỉnh Điên Biên cho biết việc truyền thông về TGPL trên địa bàn còn gặp khó khăn do nguồn nhân lực hạn chế, phương tiện truyền thông chưa bảo đảm, tài liệu truyền thông chưa phong phú, chưa phù hợp với các nhóm người tham dự khác nhau, chưa được dịch ra các tiếng dân tộc khác nhau; nhiều người dân không biết tiếng Kinh hoặc chưa được thông báo kịp thời vì ở vùng sâu vùng xa.
Bên cạnh đó, nhiều ý kiến cho rằng nội dung một số tài liệu truyền thông về TGPL như tờ gấp pháp luật, một số chương trình truyền thông trên đài phát thanh, đài truyền hình đôi lúc có nội dung khá phức tạp, chưa phù hợp với trình độ dân trí, hiểu biết của người dân, nhất là người dân tộc thiểu số; chưa có ngôn ngữ ký hiệu cho người khuyết tật; ít được dịch ra các tiếng dân tộc thiểu số. Một số quy định pháp luật khá khó hiểu đối với người dân. Thời lượng và tần suất truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng còn thấp, chưa thường xuyên, thường tập trung ở một vài thời điểm nhất định trong năm, mức độ phủ sóng chưa rộng.
Cán bộ, công chức xã Đồng Khê, huyện Văn Khê, tỉnh Yên Bái cho biết: Tài liệu TGPL được cấp phát, ở vị trí của một số người dân thì thấy chưa thực sự phù hợp bởi trình độ, mức độ hiểu biết của họ còn chưa cao. Để phù hợp hơn thì tài liệu cần được trình bày ngắn gọn, dễ hiểu hơn, song ngữ tiếng phổ thông – tiếng Tày (bởi 60% người dân sinh sống trên địa bàn xã là người Tày).
Việc truyền thông chưa thực sự phù hợp vì nhiều người dân không biết tiếng phổ thông nên không tiếp cận được thông tin về TGPL. Vậy nên cần kết hợp truyền thông song ngữ tiếng phổ thông và tiếng dân tộc, ngoài ra có thêm các video, hình ảnh lồng ghép trong các buổi truyền thông để người dân dễ hiểu hơn (Kết quả phỏng vấn sâu cán bộ chi hội đoàn thể - Bản Công, Trạm Tấu, Yên Bái)
Việc tổ chức tuyên truyền riêng về Luật TGPL còn ít, hiệu quả chưa cao, hình thức truyền thông chưa sinh động, chủ yếu chỉ tuyên truyền bằng miệng…vì vậy, trên địa bàn còn nhiều người dân còn chưa biết đến dịch vụ này nhất là người dân tại các bản vùng cao, người dân tộc thiểu số (dân tộc Mông, khơ mú)... (chia sẻ của người có uy tín trong cộng đồng xã Ẳng Cang tại Hội thảo tham vấn của tỉnh Yên Bái).
2.8. Nguồn lực của tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý còn hạn chế
Như đã trình bày ở phần trên, trong khi nhu cầu tiếp cận và sử dụng trợ giúp pháp lý ở nhiều tỉnh miền núi (trong đó có địa bàn khảo sát) là khá cao, thì nguồn lực của các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý (bao gồm cả nguồn nhân lực và cơ sở vật chất, kinh phí) vẫn còn hạn chế. Như ở tỉnh Điện Biên, ước tính khoảng hơn 80% dân số thuộc diện người được trợ giúp pháp lý, Yên Bái khoảng trên 60% dân số, trong khi đó, mỗi Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh có 12 Trợ giúp viên pháp lý. Ở 02 địa phương này, số lượng cá nhân, tổ chức hành nghề luật tham gia trợ giúp pháp lý không nhiều (Yên Bái chỉ có 6 luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý, 0 tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý; Điện Biên có 7 luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý, 0 tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý). Theo báo cáo sơ kết 05 năm triển khai Luật TGPL 2017 của hai tỉnh này, với đặc thù của các địa bàn miền núi hiện nay một số luật sư trẻ năng động không hoạt động trên địa bàn mà về thành phố hành nghề thì chủ yếu các luật sư cao tuổi, là cán bộ đã về hưu, hành nghề tại địa phương nên khả năng đi cơ sở, gặp đối tượng tại các địa bàn xa xôi, đi lại khó khăn... là rất hạn chế; bên cạnh đó, một số luật sư được miễn đào tạo nghiệp vụ luật sư nên chưa có nhiều kỹ năng, kinh nghiệm tham gia tố tụng…
Kết quả khảo sát cũng cho thấy, có 50% người dân, 81% người thực hiện TGPL, 66,7% người quản lý công tác TGPL, 100% cán bộ công chức xã đánh giá số lượng người thực hiện TGPL hiện nay còn ít. Bên cạnh đó, kỹ năng thực hiện TGPL của một số người thực hiện TGPL trong một số lĩnh vực với một số vụ việc còn chưa đáp ứng được yêu cầu, người thực hiện TGPL không biết tiếng dân tộc thiểu số cũng là một rào cản (theo đánh giá của 20% người dân, 52,4% người thực hiện TGPL, 66,7% người quản lý công tác TGPL, 80% cán bộ công chức xã tham gia khảo sát). Bên cạnh đó, 29% người dân tham gia khảo sát cho rằng có thể có khó khăn khi người dân thuộc diện “dễ bị tổn thương” gặp cán bộ TGPL. 31,8% người tham gia khảo sát cho rằng thủ tục hành chính còn phức tạp hoặc thông tin chưa được dễ hiểu là một trong những nguyên nhân gây khó khăn trong sử dụng dịch vụ.
Ngoài ra, còn có một số khó khăn khác cũng phần nào ảnh hưởng đến việc tiếp cận và sử dụng TGPL của người dân như: cơ sở vật chất của một số tổ chức thực hiện TGPL, trong đó có Trung tâm TGPL và Chi nhánh của Trung tâm còn chưa được bảo đảm, địa điểm tiếp người được TGPL chưa thật thuận lợi với người dân, nhất là những đối tượng dễ bị tổn thương. Theo kết quả khảo sát, có 29% người dân đánh giá là việc chưa có địa điểm tiếp riêng cũng ảnh hưởng tới việc người dân tiếp cận với dịch vụ. Theo đánh giá của công chức cấp xã, trụ sở, cơ sở vật chất trang thiết bị của các tổ chức thực hiện TGPL chưa đáp ứng yêu cầu công việc (khoảng 80% người khảo sát chọn ý kiến này); chưa có phòng riêng để tiếp người được TGPL khi họ có yêu cầu (60% chọn ý kiến này); thủ tục hành chính còn phức tạp (40% chọn ý kiến này)
Theo báo cáo của tỉnh Điện Biên và tỉnh Yên Bái thì các tỉnh này còn khó khăn, chưa tự cân đối được ngân sách. Hằng năm, tuy Tỉnh đã quan tâm dành nguồn lực cho công tác TGPL, nhưng do kinh phí hạn hẹp, nên chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế đặt ra đối với các hoạt động truyền thông về TGPL cũng như chi trả thù lao vụ việc TGPL. Các trang thiết bị văn phòng của Trung tâm TGPL (đơn vị nòng cốt cung cấp dịch vụ TGPL) phần lớn được mua sắm từ lâu, thường xuyên hỏng hóc cần được thay mới để đáp ứng thực hiện chủ chương chuyển đổi số trong các hoạt động công tác.
Cơ sở vật chất TGPL chưa đáp ứng yêu cầu TGPL trên địa bàn, chưa có phòng riêng để người dân trình bày cụ thể vụ việc của mình (cán bộ công chức cấp xã Đồng Khê, Văn Chấn, Yên Bái).
Như vậy, nguồn nhân lưc, kinh phí, cơ sở vật chất, thủ tục hành chính của Tổ chức thực hiện TGPL cũng tác động đến khả năng cung cấp dịch vụ TGPL kịp thời, có chất lượng cho người dân; nói cách khác là phần nào tác động đến khả năng tiếp cận và sử dụng dịch vụ trợ giúp pháp lý của người dân tại địa phương.
2.9. Phối hợp giới thiệu, giải thích, thông tin, thông báo về trợ giúp pháp lý của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác chưa thực hiện thường xuyên, kịp thời
Trong thời gian qua, ở Trung ương và địa phương đều có những nỗ lực tích cực trong công tác phối hợp về trợ giúp pháp lý, nhất là giữa cơ quan, tổ chức trợ giúp pháp lý với các cơ quan, người tiến hành tố tụng. Tại các tỉnh thuộc diện khảo sát, Trung tâm TGPL nhà nước và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm phối hợp trong công tác TGPL đã triển khai các hoạt động phối hợp và đạt được những kết quả tích cực. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, đôi lúc, đôi khi sự quan tâm của các cơ quan, tổ chức có liên quan đối với việc phối hợp trong công tác TGPL còn chưa đáp ứng yêu cầu thực tế. Việc thông báo, giải thích về quyền được TGPL theo quy định của pháp luật trong một số trường hợp chưa đạt hiệu quả. Một số cơ quan nhà nước, tổ chức có chức năng, nhiệm vụ tiếp nhận, xử lý, giải quyết các vụ việc có liên quan đến công dân chưa chú trọng hoặc ít giới thiệu người thuộc diện TGPL đến Trung tâm Trợ giúp pháp lý.
Người quản lý nhà nước về công tác TGPL tỉnh Điện Biên cho biết:
- Sự phối hợp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quá trình thực hiện vụ việc TGPL đôi lúc chưa được bảo đảm kịp thời, chất lượng: một số cơ quan tổ chức chưa thật nhiệt tình phối hợp; một số chưa quan tâm triển khai đầy đủ các quy định pháp luật về TGPL
- Công tác chuyển, gửi giới thiệu đối tượng được TGPL đôi khi chưa được thường xuyên, đồng bộ, kịp thời, hiệu quả.
Theo kết quả khảo sát, có 15% người dân cho biết họ cảm thấy khó khăn khi gặp chính quyền để trình bày vụ việc của mình; 15% người dân cho rằng có chút khó khăn khi gặp cán bộ cấp xã ở địa phương; 12% người dân cho rằng có thấy khó khăn khi gặp cán bộ đoàn thể ở cơ sở (hội viên Hội nông dân, Hội cựu chiến binh, đoàn thanh niên…), 6% người dân cho rằng khó khăn khi gặp cán bộ thôn, bản; 6% người dân cho rằng khó khăn khi gặp người có uy tín trong cộng đồng. Bên cạnh khó khăn xuất phát từ tâm lý người dân khi làm việc với các cơ quan, tổ chức thì nhận thức của cơ quan, tổ chức, cá nhân trên địa bàn về TGPL cũng rất quan trọng và có thể ảnh hưởng đến việc giải thích, giới thiệu người được TGPL đến tổ chức thực hiện TGPL trên địa bàn (có 80% cán bộ công chức xã, 76,2% người thực hiện TGPL, 66,7% người quản lý công tác TGPL tham gia khảo sát cho biết điều này).
Ở những vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, một số cấp ủy, chính quyền địa phương chưa thực sự quan tâm tới TGPL vì còn phải tập trung vào các vấn đề để phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương để nâng cao đời sống của người dân trên địa bàn. Do đó, sự phối hợp trong truyền thông, giới thiệu, chuyển gửi vụ việc trợ giúp pháp lý từ những cơ quan, tổ chức, đặc biệt là các cơ quan có chức năng tiếp công dân sẽ có lúc, có nơi, có thời điểm chưa thực sự được quan tâm đúng mức. Theo báo cáo sơ kết 05 triển khai Luật TGPL của tỉnh Điện Biên
[15], trong thời gian qua việc phối hợp thực hiện TGPL chủ yếu được triển khai với các cơ quan tiến hành tố tụng và trong các vụ án hình sự; sự phối hợp với các cơ quan, tổ chức khác chưa được chú trọng hoặc còn mang tính hình thức. Quá trình phối hợp thì các cơ quan tiến hành tố tụng cũng mới chỉ chủ yếu tập trung vào nhóm đối tượng người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn mà chưa chú trọng đến sự phối hợp trong tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ TGPL cho các đối tượng được TGPL khác. Theo Báo cáo sơ kết 05 năm triển khai Luật TGPL ở tỉnh Yên Bái, nhận thức về trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng của một số cơ quan tiến hành tố tụng, nhất là tại cấp huyện còn có một số hạn chế, việc giải thích về quyền được trợ giúp pháp lý cho người được trợ giúp pháp lý là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và các đương sự khác trong một số trường hợp chưa thực hiện đầy đủ.
Qua kết quả khảo sát cho thấy, có 81% người thực hiện TGPL và 66,7% người quản lý công tác TGPL cho rằng trên thực tế vẫn còn có một số cơ quan, tổ chức, cá nhân có thời điểm chưa triển khai đầy đủ hoặc kịp thời các quy định về TGPL nên chưa tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân tiếp cận và sử dụng TGPL khi có nhu cầu. Công tác chuyển gửi, giới thiệu đối tượng được TGPL đôi khi chưa được kịp thời (57,1% người thực hiện TGPL và 33,3% người quản lý TGPL nhận định) và 57,1% người quản lý công tác TGPL đánh giá công tác cung cấp thông tin liên quan đến vụ việc chưa được đầy đủ, kịp thời. 66,7% người quản lý công tác TGPL đồng ý với ý kiến rằng vẫn có một số cơ quan, tổ chức, cá nhân chưa nhiệt tình phối hợp trong quá trình thực hiện TGPL... 14.3% người thực hiện cho biết rằng cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có lúc chưa tạo điều kiện thuận lợi để họ thực hiện các nghĩa vụ theo bộ luật, luật về tố tụng.
Chúng tôi thực hiện trách nhiệm giải thích về trợ giúp pháp lý cho người bị buộc tội, tuy nhiên, khối lượng công việc rất nhiều nên đôi khi việc giải thích khó có thể được cặn kẽ và sâu. (thảo luận nhóm người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tại Điện Biên: TLNDB 01, TLNDB 02).
2.10 Rào cản khác.
Bên những thông tin thu được từ các cuộc khảo sát thực tiễn, qua nghiên cứu một số tài liệu có liên quan thì thầy rằng: hiện nay trong bối cảnh đẩy mạnh chuyển đổi số, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong tất cả các lĩnh vực, trong đó có TGPL, do đó ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số vào hoạt động TGPL cần trở thành công cụ hữu hiệu để giúp người dân tiếp cận và sử dụng TGPL. Việc ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số trong hoạt động TGPL mới ở bước đầu, hiện tại chưa có cơ sở dữ liệu TGPL hoàn chỉnh, việcc tích hợp, kết nối với các cơ sở dữ liệu quốc gia và chuyên ngành khác để khai thác dữ liệu còn mới ở bước đầu; chưa có cổng thông tin điện tử, TGPL trực tuyến, ứng dụng TGPL giúp người dân thuận tiện trong quá trình tra cứu và thụ hưởng dịch vụ TGPL; việc triển khai dịch vụ công trực tuyến ở các địa phương còn ở mức độ thấp và không đồng đều ở các địa phương... Các thủ tục hành chính về TGPL được thực hiện ở cấp tỉnh, do đó phụ thuộc nhiều vào sự quan tâm về nguồn lực, kinh phí, cơ sở vật chất từ chính quyền địa phương. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dịch vụ công thiết yếu TGPL cũng gặp khó khăn nhất định do người thụ hưởng dịch vụ này chủ yếu là người nghèo, người yếu thế, dễ tổn thương trong xã hội, chưa có kỹ năng sử dụng và kiến thức, thói quen sử dụng dịch vụ công trực tuyến. Người thực hiện TGPL, người tiếp nhận, hỗ trợ thông tin vẫn còn thiếu kiến thức, kỹ năng thực hiện TGPL, tiếp nhận và hỗ trợ thông tin trong bối cảnh chuyển đổi số…
Có th y ttng và kichính về TGPL được thực hiện ở cấp tỉnh, do đó phụ thuộc nhiều vào sự quan tâm về nguồn lực, kinh phí, cơ sở vật chất từ chính quyền địa phương. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dịch vụ công thiết yếu TGPL cũng gặp khó khăn nhất định thực thực hiện ở cấp tỉnh, do đó phụ thuth y ttng và kichính về TGPL được thực hiện ở cấp tỉnh, do đó phụ thuộc nhiều vào sự quan tâm về nguồn lực, kinh phí, cơ sở vật chất từ chính quyền địa phương. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dịch vụ công thiế tổng thể có thể thấy rằng, những rào cản này có mối liên hệ qua lại, tác động lẫn nhau.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG KHẢ NĂNG TIẾP CẬN VÀ SỬ DỤNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CỦA NGƯỜI DÂN
Trên cơ sở xác định những rào cản trong việc tiếp cận TGPL ở các khu vực vùng sâu, vùng xa…, nhóm chuyên gia khảo sát đã nghiên cứu, đề xuất một số giải pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, rào cản để từng bước tăng cường khả năng tiếp cận và sử dụng dịch vụ trợ giúp pháp lý của người dân, đặc biệt là nhóm người nghèo, dân tộc thiểu số và những người dễ bị tổn thương khác ở tỉnh Điện Biên, Yên Bái nói riêng và các địa phương khác..
1. Hoàn thiện một số quy định có liên quan đến tiếp cận và sử dụng dịch vụ trợ giúp pháp lý
Để bảo đảm tốt hơn nữa việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ TGPL trong thời gian tới, thì cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện những quy định pháp luật này:
- Nghiên cứu, rà soát, đánh giá tổng thể, toàn diện nhu cầu trợ giúp pháp lý của người dân, trong đó có một số nhóm hiện chưa được quy định là người được trợ giúp pháp lý theo Luật TGPL nhưng có khó khăn hoặc cần hỗ trợ, trợ giúp để bổ sung vào diện người được TGPL nhằm giúp họ tiếp cận bình đẳng trước pháp luật, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, quyền tiếp cận công lý. Việc mở rộng một số diện người được trợ giúp pháp lý cần phải tính toán phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong thời gian tới và các cam kết quốc tế trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Chẳng hạn như cần nghiên cứu quy định “điều kiện có khó khăn về tài chính” đối với nạn nhân bạo lực gia đình, nạn nhân mua bán người, người từ đủ 16 – dưới 18 tuổi là bị hại trong vụ án hình sự, người khuyết tật....
- Cần có hướng dẫn cụ thể và các biện pháp hữu hiệu để các cơ quan nhà nước, các tổ chức có liên quan phối hợp kịp thời, thực hiện giải thích, giới thiệu người dân đến tổ chức TGPL. Bên cạnh đó, cần có hướng dẫn cụ thể để các tổ chức đoàn thể, cá nhân khác (như già làng, trưởng bản, trưởng thôn...) phát huy vai trò trong phối hợp với các tổ chức thực hiện TGPL (trong công tác truyền thông, giới thiệu người được TGPL...).
- Nghiên cứu hướng dẫn cụ thể các hình thức, nội dung, quy trình tiếp cận pháp luật và TGPL, cách thức tổ chức thực hiện để các địa phương triển khai thực hiện phù hợp với các điều kiện cụ thể. Do nhóm đối tượng yếu thế có những hạn chế nhất định trong việc hiểu các quy định của pháp luật, do đó, cần có hướng dẫn, khuyến nghị việc cung cấp và xử lý thông tin nhanh chóng, chính xác và hiệu quả. Việc quy định thông tin được cung cấp nhanh chóng, đúng thời hạn là một yêu cầu quan trọng, bởi sự trì hoãn cung cấp thông tin có khả năng gây ra tổn thất đến lợi ích của nhóm đối tượng yếu thế khi có yêu cầu.
- Tiếp tục rà soát các quy định về các thủ tục hành chính trợ giúp pháp lý, đặc biệt các giấy tờ, thủ tục liên quan trực tiếp đến người dân để đề xuất sửa đổi theo hướng đơn giản hóa, tạo thuận lợi tối đa cho người dân khi sử dụng TGPL.
- Tiếp tục hoàn thiện các quy định về quy trình sử dụng dịch vụ TGPL, nhất là quy trình thực hiện TGPL thông qua hình thức trực tuyến (dịch vụ công trực tuyến) để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận và sử dụng dịch vụ này.
- Cần có cơ chế, công cụ đánh giá, giám sát việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ TGPL của người dân.
2. Tăng cường, đổi mới việc truyền thông về trợ giúp pháp lý
Đẩy mạnh truyền thông về TGPL với đa dạng hình thức, đổi mới nội dung, phương pháp bởi truyền thông trong TGPL giữ một vai trò quan trọng trong việc truyền tải thông tin về TGPL đến với người dân, là một yếu tố quan trọng giúp người dân tiếp cận và trực tiếp biết đến quyền được TGPL và thụ hưởng dịch vụ pháp lý theo quy định. Mục đích của việc truyền thông TGPL là giới thiệu để người được TGPL biết về dịch vụ TGPL và vượt qua các rào cản để tìm đến yêu cầu được TGPL khi có vướng mắc, quy định pháp luật. Do đó, các nội dung, hình thức truyền tải phải hướng đến mục đích trên, nhất là khi người được TGPL lại là những người yếu thế trong xã hội, nhận thức pháp luật nói chung còn hạn chế, tâm lý e dè và thói quen sử dụng dịch vụ pháp lý còn ít. Truyền thông về TGPL cho người dân trước hết làm nâng cao nhận thức của người dân về quyền được TGPL gắn liền với họ, làm cho họ hiểu trợ giúp pháp lý là giúp họ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trước pháp luật một cách miễn phí, có chất lượng, để từ đó có thể khiến họ chủ động tìm đến TGPL khi có nhu cầu.
- Khảo sát nhu cầu tìm hiểu thông tin của người dân trước khi tổ chức truyền thông. Trên cơ sở kết quả khảo sát xác định nhu cầu tìm hiểu thông tin của từng nhóm người dân tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý sẽ có kế hoạch cụ thể về nội dung truyền thông phù hợp cho từng nhóm đối tượng.
- Nội dung truyền thông cần đơn giản, ngắn gọn và phù hợp với nhu cầu của người dân từng địa bàn, trong đó chú trọng đến quyền được TGPL, vai trò của trợ giúp pháp lý, trợ giúp viên pháp lý, thông tin và cách thức liên hệ... Ngôn ngữ truyền thông cần được thể hiện đa dạng, ở những vùng núi, vùng sâu, vùng xa cần có phiên dịch hoặc thiết bị phiên dịch hoặc được dịch sẵn tiếng dân tộc thiểu số song song với Tiếng Việt. Hình thức truyền thông phải sáng tạo, với nhiều cách trình bày, thể hiện khác nhau, bắt mắt, có hình ảnh, âm thanh minh họa một cách phong phú và ấn tượng để thu hút sự quan tâm của người dân.
- Tùy từng điều kiện tại địa phương có thể tổ chức truyền thông về quyền được TGPL cho từng đối tượng đặc thù, trong đó chú trọng đến các địa phương ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, những địa phương có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống...
- Khi truyền thông cần kết hợp giữa các hình thức khác nhau để tạo hiệu quả cao hơn, như mời người dân tham gia các hội nghị truyền thông đồng thời phát các video về các vụ việc thành công đã được thực hiện hoặc các tình huống vụ việc thường xảy ra trong đời sống xã hội trên địa bàn hoặc kết hợp phát tài liệu như tờ gấp, tài liệu hỏi đáp, sách bỏ túi gắn với các tình huống, câu chuyện pháp luật cụ thể...
- Việc truyền thông về TGPL cần được thực hiện thường xuyên, liên tục, là một trong những nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức trợ giúp pháp lý. Để tạo hiệu ứng mạnh mẽ, có thể xây dựng chương trình truyền thông với những hoạt động gây hiệu ứng mạnh, trong thời gian gắn và gắn với từng đối tượng cụ thể.
- Đẩy mạnh các hình thức truyền thông được nhiều người dân quan tâm, đạt hiệu quả cao trong thời gian qua như xây dựng thông điệp TGPL phát sóng trên Đài tiếng nói Việt Nam; các chương trình, chuyên mục, phóng sự, phim diễn án TGPL dạng tình huống vụ việc cụ thể thường xảy ra trên thực tiễn, các vụ việc được TGPL thành công, hiệu quả hoặc các dạng video ngắn 2D... Các chương trình này cần được phát sóng ở những kênh truyền thông lớn, có số lượng người xem nhiều hoặc được phát sóng trong một khung giờ nhất định để tăng hiệu suất người xem... Ở vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa, thường xuyên phát các bản tin về TGPL trên hệ thống đài phát thanh xã (có thể là dạng tiểu phẩm, thông điệp...). In ấn, cấp phát tờ gấp, tài liệu về TGPL, niêm yết bảng thông tin về TGPL tại các cơ quan tiến hành tố tụng, Trại tạm giam, Nhà tạm giữ; Trụ sở các xã, Hội trường thôn/bản; nhà văn hóa, điểm sinh hoạt cộng đồng thôn, bản; các tổ chức của người khuyết tật, các cơ sở bảo trợ xã hội...
- Tổ chức một số cuộc thi tìm hiểu pháp luật TGPL trực tuyến theo từng quy mô khác nhau; tổ chức cuộc thi trợ giúp viên pháp lý giỏi toàn quốc...
3. Tăng cường năng lực tổ chức thực hiện TGPL, người thực hiện TGPL
- Tăng cường năng lực cho các tổ chức thực hiện TGPL, đặc biệt là các Trung tâm trợ giúp pháp lý:
+ Bảo đảm kinh phí, cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật để bảo đảm quyền được tiếp cận và sử dụng TGPL cho người dân trên địa bàn (như có phòng tiếp dân riêng biệt và thuận lợi, phù hợp với tính đặc thù của đối tượng khi họ đến yêu cầu và trình bày vụ việc; các trang thiết bị hỗ trợ cho hoạt động nghiệp vụ TGPL cần được trang bị đầy đủ, kịp thời để triển khai những nhiệm vụ như điểm cầu TGPL trong phiên tòa trực tuyến, chuyển đổi số trong hoạt động TGPL, truyền thông)
+ Có cơ chế kiểm soát chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý do các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, người thực hiện trợ giúp pháp lý cung cấp cho người được trợ giúp pháp lý trên toàn quốc.
- Hướng dẫn cụ thể hơn các tiêu chí đánh giá chất lượng vụ việc TGPL (có sử dụng phương pháp thu thập, sử dụng phản hồi của các đối tượng thụ hưởng dịch vụ TGPL và dẫn chiếu đến kinh nghiệm quốc tế, thực tiễn tốt phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên).
- Bồi dưỡng, tập huấn các kỹ năng thẩm định, đánh giá chất lượng vụ việc TGPL, đánh giá vụ việc thành công hiệu quả cho tổ chức thực hiện TGPL và các cơ quan liên quan quan.
+ Khảo sát các điều kiện về nhu cầu TGPL, nguồn lực... đề xuất thành lập thêm các Chi nhánh nơi vùng sâu vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định pháp luật về trợ giúp pháp lý và nhu cầu thực tế tại địa phương để tạo điều kiện thuận lợi cho việc người dân đến gặp và tiếp cận TGPL.
+ Tăng cường trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm trợ giúp pháp lý trong hệ thống tổ chức trợ giúp pháp lý, giữa những người thực hiện trợ giúp pháp lý với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong quá trình thực hiện trợ giúp pháp lý, về các vụ việc TGPL thành công, hiệu quả và những vụ phức tạp.
- Tăng cường số lượng và nâng cao năng lực cho đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về trợ giúp pháp lý của người dân thông qua xây dựng đội ngũ trợ giúp viên pháp lý chuyên sâu trong từng lĩnh vực:
+ Tăng số lượng người thực hiện TGPL bằng các chế độ ưu đãi trong tuyển dụng viên chức làm việc tại Trung tâm TGPL, tăng cường bồi dưỡng, đào tạo để tạo nguồn bổ nhiệm Trợ giúp viên pháp lý, đặc biệt là các vùng sâu, vùng xã, nơi nhu cầu về TGPL của người dân nhiều, số lượng luật sư tham gia TGPL ít...
+ Chủ động trong việc truyền thông và tiếp cận nhu cầu TGPL của người dân. Tập trung thực hiện vụ việc TGPL khi người dân yêu cầu một cách nhanh chóng, kịp thời, bảo đảm chất lượng;
+ Tăng cường năng lực thông qua bồi dưỡng, tập huấn cho đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý nói riêng và đội ngũ người thực hiện TGPL nói chung các kỹ năng: Kiến thức và kỹ năng truyền thông TGPL; kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin, kỹ năng khai thác dữ liệu điện tử trong quá trình thực hiện dịch vụ trợ giúp pháp lý cho các đối tượng đặc thù…; Bồi dưỡng tiếng dân tộc thiểu số, ít nhất là 01-02 thứ tiếng dân tộc phổ biến trên địa bàn
; Các kỹ năng mềm như kỹ năng giao tiếp với người dân để giúp họ tránh khỏi tâm lý e ngại, chủ động tìm đến TGPL; Kỹ năng phối hợp với các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong thông tin và giới thiệu người được TGPL và trong thực hiện TGPL; Kỹ năng thực hiện TGPL chuyên sâu theo các hình thức TGPL (tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng, lĩnh vực TGPL (hình sự, dân sự, đất đai, hôn nhân và gia đình...); Kỹ năng thực hiện TGPL chuyên sâu cho các đối tượng yếu thế, nhất là các đối tượng đặc thù hoặc có yếu tố giới tính... như phụ nữ dân tộc thiểu số, nạn nhân bạo lực gia đình, người khuyết tật...; Kiến thức về pháp luật, áp dụng pháp luật tố tụng, trong đó có những nội dung liên quan trực tiếp đến sự tham gia của người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.
4 Tăng cường sự phối hợp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác
- Tăng cường sự phối hợp của các cơ quan, người tiến hành tố tụng:
+ Triển khai hiệu quả các cơ chế phối hợp giữa tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý và các cơ quan tiến hành tố tụng: Thực hiện đúng các quy định của pháp luật về việc niêm yết, giải thích, thông báo, thông tin về trợ giúp pháp lý; tăng cường giải thích, thông báo, thông tin về TGPL, tạo điều kiện cho người thực hiện TGPL trực tại Tòa án, trực trợ giúp pháp lý trong điều tra hình sự và trong quá trình thực hiện TGPL.
+ Chủ động nắm bắt nhu cầu TGPL của người dân thông qua nhiệm vụ, hoạt động của mình để giải thích, giới thiệu người dân đến Trung tâm/Chi nhánh khi có nhu cầu.
+ Tổ chức các lớp tập huấn cho đội ngũ người tiến hành tố tụng có liên quan như thẩm phán, công tố viên, điều tra viên.. trong giới thiệu người được TGPL đến Trung tâm và trong thực hiện TGPL nhằm nâng cao nhận thức và tăng cường sự phối hợp.
+ Tổ chức tập huấn về cơ chế phối hợp, phản ứng nhanh giữa các tổ chức thực hiện TGPL và các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan liên quan trong việc cung cấp TGPL và các dịch vụ hỗ trợ cho nhóm đối tượng đặc thù.
+ Phối hợp bồi dưỡng, tập huấn theo chuyên đề về pháp luật, áp dụng pháp luật tố tụng do Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an tổ chức cho trợ giúp viên pháp lý nói riêng và người thực hiện trợ giúp pháp lý nói chung, trong đó có những nội dung liên quan trực tiếp đến sự tham gia của người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.
- Bên cạnh đó, cần có đẩy mạnh sự phối hợp với các cơ quan nhà nước khác trong quá trình xử lý, giải quyết vụ việc liên quan đến công dân, nếu công dân thuộc diện được TGPL thì có trách nhiệm giải thích, hướng dẫn người dân tìm đến Trung tâm TGPL.
- Bồi dưỡng, tập huấn kiến thức về trợ giúp pháp lý cho đội ngũ công chức thuộc các ngành, lĩnh vực khác nhau, nhất là các công chức thực hiện nhiệm vụ trực ban, tiếp công dân hoặc các công chức có nhiệm vụ gắn liền với việc xử lý, giải quyết các vụ việc liên quan đến người dân
- Hướng dẫn, tập huấn kỹ năng phối hợp, chuyển thông tin về người được trợ giúp pháp lý, yêu cầu trợ giúp pháp lý đến tổ chức thực hiện TGPL kịp thời.
- Tăng cường phối hợp trong truyền thông về TGPL cho người dân, trong giới thiệu người dân tiếp cận dịch vụ TGPL và trong quá trình thực hiện TGPL.
- Phát huy vai trò của mạng lưới cán bộ ở cơ sở, người có uy tín trong cộng đồng trong việc kết nối TGPL với người dân
Để hỗ trợ, giúp đỡ người dân trong việc kịp thời tiếp cận pháp luật, tiếp cận công lý và TGPL, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội ngay tại địa bàn xã, phường, thị trấn, Nhà nước từng bước thiết lập và không ngừng hoàn thiện các thiết chế để người dân tiếp cận pháp luật và TGPL tại cơ sở, bởi lẽ khi người dân có vấn đề gì trong cuộc sống, đặc biệt vấn đề liên quan đến chính sách và pháp luật họ thường tìm đến các tổ chức gần gũi với họ nhất. Do đó việc bồi dưỡng kiến thức TGPL và nâng cao năng lực, kỹ năng cho họ là rất cần thiết.
+ Tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về trợ giúp pháp lý cho đội ngũ cán bộ ở cơ sở, người có uy tín trong cộng đồng: trưởng thôn, trưởng bản, già làng, cán bộ chi hội phụ nữ, hội nông dân… để trang bị cho họ những kiến thức, thông tin về TGPL giúp họ hiểu được công việc TGPL là gì, người thực hiện TGPL là ai, trình tự, thủ tục người dân cần thực hiện để được TGPL....
+ Tập huấn cho đội ngũ cán bộ ở cơ sở, người có uy tín trong cộng đồng về kỹ năng phối hợp thông tin TGPL đến người dân, nắm bắt nhu cầu TGPL của người dân để kết nối, hướng dẫn, giới thiệu người dân đến Trung tâm/Chi nhánh khi có nhu cầu.
+ Tăng cường phối hợp trong truyền thông về TGPL cho người dân, trong giới thiệu người dân tiếp cận dịch vụ TGPL và trong quá trình thực hiện TGPL.
5 Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ trợ giúp pháp lý
- Trong xu thế phát triển của công nghệ thông tin hiện nay, cần ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong việc quản lý, theo dõi, cung cấp thông tin về TGPL; tiếp tục xây dựng, quản lý, khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu trợ giúp pháp lý và thực hiện kết nối, chia sẻ cơ sở dữ liệu trợ giúp pháp lý với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, cơ sở dữ liệu của các cơ quan tiến hành tố tụng và cơ sở dữ liệu chuyên ngành của các Bộ, ngành, cơ quan có liên quan theo quy định của pháp luật
, giúp người dân tiếp cận và được trợ giúp pháp lý sớm khi có nhu cầu; tăng cường thực hiện dịch vụ công trực tuyến trong lĩnh vực TGPL để người dân tiếp cận được dịch vụ TGPL một cách nhanh chóng, thuận lợi.
- Đẩy mạnh truyền thông trên Trang thông tin điện tử TGPL Việt Nam và của các địa phương, nền tảng xã hội Youtube, fanpage facebook, thiết lập trang Zalo (Tài khoản OA) của Cục TGPL và các Trung tâm TGPL tỉnh để truyền tải các thông tin về TGPL theo hướng thân thiện, dễ dàng truy cập và thuận tiện tra cứu thông tin đối với người dùng. Về nội dung, ngoài những tin tức, quy định, thông tin liên hệ… có thể lựa chọn biên tập các video ngắn về các vụ việc TGPL thành công hoặc xây dựng các tình huống mô phỏng, câu chuyện pháp luật minh họa trên các nền tảng này sẽ thu hút lượt người xem nhiều hơn. Triển khai cách thức truyền thông gắn mã QR lên các sản phẩm truyền thông như tài liệu truyền thông, tờ gấp pháp luật hoặc các sản phẩm truyền hình (thông tin mã QR là đường link dẫn tới danh sách thông tin địa chỉ, số điện thoại Trung tâm TGPL nhà nước 63 tỉnh, thành phố) hoặc trang thông tin Zalo (OA) TRỢ GIÚP PHÁP LÝ hoặc App về TGPL, đường dây nóng TGPL… để người dân dễ dàng tiếp cận thông tin.
- Vận hành hiệu quả vừa truyền thông về TGPL vừa có thể tương tác, tiếp nhận thông tin đa kênh. Tăng cường kết nối trang mạng xã hội với các nhóm xã hội, đặc biệt là giới trẻ dân tộc thiểu số, phụ nữ, nghèo và nhóm dễ bị tổn thương.
- Tiếp tục triển khai hiệu quả các nhiệm vụ tiếp nhận và hỗ trợ thông tin qua phương thức đường dây nóng TGPL. Vận hành đường dây nóng theo hình thức tổng đài 24/7 kết nối với ứng dụng trên điện thoại, trở thành điện thoại thông minh là nơi tiếp nhận và cung cấp thông tin pháp luật, giải đáp vướng mắc đơn giản của người dân.
- Song song với nâng cao nhận thức của người dân về trợ giúp pháp lý cần phát huy sự chủ động từ người thực hiện trợ giúp pháp lý. Người thực hiện trợ giúp pháp lý có thể chủ động tiếp cận người dân thông qua việc nắm bắt thông tin trên các kênh truyền thông đại chúng hoặc mạng xã hội, qua phản ánh, cung cấp thông tin của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Đây là những nỗ lực của TGPL nhằm không bỏ sót, bỏ lọt những người cần được TGPL khi vụ án được giới truyền thông, hoặc mạng xã hội đưa tin…
6. Trước mắt, có thể thực hiện thí điểm một số nội dung sau:
- Thí điểm về mô hình tiếp cận, sử dụng TGPL thân thiện với người chưa thành niên, phụ nữ, đồng bào dân tộc thiểu số tại các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và nhiều người dân tộc thiêu số sinh sống.
- Thí điểm việc tham gia thẩm định, đánh giá chất lượng, hiệu quả vụ việc TGPL
- Xây dựng ứng dụng TGPL (app) trên nền tảng di động để giúp người dân dễ dàng tiếp cận đến các thông tin của tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý và thụ hưởng dịch vụ trợ giúp pháp lý miễn phí của Nhà nước khi gặp vướng mắc pháp luật.
[1] Điều 11 Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật.
[2] Đường dây nóng TGPL ở Trung ương với số điện thoại được thiết lập từ năm 2018, đến nay đã tiếp nhận và hỗ trợ thông tin cho hàng nghìn lượt người.
[3] Theo báo cáo sơ kết 04 năm triển khai Thông tư liên tịch số 10: Từ 2019-2021, Trung tâm TGPL nhà nước đã phối hợp, kịp thời cung cấp cho các cơ quan tiến hành tố tụng 10.237 Bảng thông tin về TGPL, 146.443 Tờ thông tin về TGPL, 1.820 Hộp thông tin về TGPL
[4] Như các phóng sự: Phóng sự “TGPL cho người nghèo, người dân tộc thiểu số vùng miền núi”; phóng sự “TGPL bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đồng bảo DTTS”; phóng sự “TGPL cho người DTTS trong vụ tranh chấp đất đại”; phóng sự “TGPL – Niềm tin cho người yếu thế; phóng sự “TGPL bào chữa cho người dưới 18 tuổi”; phóng sự “TGPL cho người có công với Cách mạng” ... ; Phim diễn án “TGPL - Hành trình trên mảnh đất được tìm lại”; “TGPL cho người dân tộc thiểu số”...
[5] Tại Điều 41, Điều 42 Luật TGPL quy định về trách nhiệm của các cơ quan có liên quan đến hoạt động trợ giúp pháp lý trong tố tụng và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có liên quan về giải thích quyền được trợ giúp pháp lý và giới thiệu đến tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý. Bộ luật tố tụng hình sự, bộ luật tố tụng dân sự, luật tố tụng hành chính, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam cũng có quy định về trách nhiệm của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc thông báo, giải thích quyền được TGPL (Điều 71 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 9 khoản 3 Bộ luật tố tụng dân sự , Điều 19 khoản 3, khoản 6 Điều 38 Luật tố tụng hành chính, Điều 9 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam).
[6] Theo thông tin của Cục Trợ giúp pháp lý, số vụ việc TGPL đã tiếp nhận thông qua hình thức trực năm 2023 tại trụ sở Toà án nhân dân là: 837 vụ việc, số vụ việc tiếp nhận thông qua trực qua hình thức điện thoại là: 1.152 vụ việc.
[8] Điều 7, Luật TGPL năm 2017
[9] Theo yêu cầu tại Công văn số 166/CTGPL-CS&QLNV ngày 7/4/2022 của Cục Trợ giúp pháp lý về việc cung cấp số liệu người thuộc diện trợ giúp pháp lý.
[10] Thông tư số 03/2021/TT-BTP
[11] Ví dụ BC số 103/BC-CTGPL của Cục TGPL về kết quả công tác TGPL năm 2022 và nhiệm vụ, giải pháp công tác năm 2023; BC số 238/BC-TGPL ngày 20/11/2023 về kết quả công tác TGPL năm 2023 của Trung tâm TGPL nhà nước tỉnh Điện Biên; Báo cáo số 04/BC-TGPL ngày 10/11/2023 của Trung tâm TGPL nhà nước tỉnh Lai Châu về kết quả công tác trợ giúp pháp lý năm 2023…
[12] Báo cáo kết quả công tác TGPL năm 2023 của Cục TGPL; Báo cáo kết quả hoạt động TGPL của Trung tâm TGPL nhà nước tỉnh Điện Biên, Trung tâm TGPL nhà nước tỉnh Yên Bái.
[13] Theo quy định tại Thông tư số 03/2021/TT-BTP ngày 25/5/2021 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp thì Cục TGPL ; Sở Tư pháp; tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý là các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đánh giá hiệu quả vụ việc TGPL tham gia tố tụng để xác định vụ việc TGPL tham gia tố tụng thành công
[14] Theo các Báo cáo kết quả tổ chức Hội thảo định hướng xác định rào cản trong tiếp cận và sử dụng TGPL trên địa bàn tỉnh Yên Bái, Điện Biên
[15] Báo cáo số 861/BC-CTP ngày 16/6/2922 của Sở Tư pháp tỉnh Điện Biên.