MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG KHẢ NĂNG TIẾP CẬN VÀ SỬ DỤNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CỦA NGƯỜI DÂN
Trên cơ sở xác định những rào cản trong việc tiếp cận TGPL ở các khu vực vùng sâu, vùng xa…, nhóm chuyên gia khảo sát đã nghiên cứu, đề xuất một số giải pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, rào cản để từng bước tăng cường khả năng tiếp cận và sử dụng dịch vụ trợ giúp pháp lý của người dân, đặc biệt là nhóm người nghèo, dân tộc thiểu số và những người dễ bị tổn thương khác ở tỉnh Điện Biên, Yên Bái nói riêng và các địa phương khác..
1. Hoàn thiện một số quy định có liên quan đến tiếp cận và sử dụng dịch vụ trợ giúp pháp lý
Để bảo đảm tốt hơn nữa việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ TGPL trong thời gian tới, thì cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện những quy định pháp luật này:
- Nghiên cứu, rà soát, đánh giá tổng thể, toàn diện nhu cầu trợ giúp pháp lý của người dân, trong đó có một số nhóm hiện chưa được quy định là người được trợ giúp pháp lý theo Luật TGPL nhưng có khó khăn hoặc cần hỗ trợ, trợ giúp để bổ sung vào diện người được TGPL nhằm giúp họ tiếp cận bình đẳng trước pháp luật, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, quyền tiếp cận công lý. Việc mở rộng một số diện người được trợ giúp pháp lý cần phải tính toán phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong thời gian tới và các cam kết quốc tế trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Chẳng hạn như cần nghiên cứu quy định “điều kiện có khó khăn về tài chính” đối với nạn nhân bạo lực gia đình, nạn nhân mua bán người, người từ đủ 16 – dưới 18 tuổi là bị hại trong vụ án hình sự, người khuyết tật....
- Cần có hướng dẫn cụ thể và các biện pháp hữu hiệu để các cơ quan nhà nước, các tổ chức có liên quan phối hợp kịp thời, thực hiện giải thích, giới thiệu người dân đến tổ chức TGPL. Bên cạnh đó, cần có hướng dẫn cụ thể để các tổ chức đoàn thể, cá nhân khác (như già làng, trưởng bản, trưởng thôn...) phát huy vai trò trong phối hợp với các tổ chức thực hiện TGPL (trong công tác truyền thông, giới thiệu người được TGPL...).
- Nghiên cứu hướng dẫn cụ thể các hình thức, nội dung, quy trình tiếp cận pháp luật và TGPL, cách thức tổ chức thực hiện để các địa phương triển khai thực hiện phù hợp với các điều kiện cụ thể. Do nhóm đối tượng yếu thế có những hạn chế nhất định trong việc hiểu các quy định của pháp luật, do đó, cần có hướng dẫn, khuyến nghị việc cung cấp và xử lý thông tin nhanh chóng, chính xác và hiệu quả. Việc quy định thông tin được cung cấp nhanh chóng, đúng thời hạn là một yêu cầu quan trọng, bởi sự trì hoãn cung cấp thông tin có khả năng gây ra tổn thất đến lợi ích của nhóm đối tượng yếu thế khi có yêu cầu.
- Tiếp tục rà soát các quy định về các thủ tục hành chính trợ giúp pháp lý, đặc biệt các giấy tờ, thủ tục liên quan trực tiếp đến người dân để đề xuất sửa đổi theo hướng đơn giản hóa, tạo thuận lợi tối đa cho người dân khi sử dụng TGPL.
- Tiếp tục hoàn thiện các quy định về quy trình sử dụng dịch vụ TGPL, nhất là quy trình thực hiện TGPL thông qua hình thức trực tuyến (dịch vụ công trực tuyến) để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận và sử dụng dịch vụ này.
- Cần có cơ chế, công cụ đánh giá, giám sát việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ TGPL của người dân.
2. Tăng cường, đổi mới việc truyền thông về trợ giúp pháp lý
Đẩy mạnh truyền thông về TGPL với đa dạng hình thức, đổi mới nội dung, phương pháp bởi truyền thông trong TGPL giữ một vai trò quan trọng trong việc truyền tải thông tin về TGPL đến với người dân, là một yếu tố quan trọng giúp người dân tiếp cận và trực tiếp biết đến quyền được TGPL và thụ hưởng dịch vụ pháp lý theo quy định. Mục đích của việc truyền thông TGPL là giới thiệu để người được TGPL biết về dịch vụ TGPL và vượt qua các rào cản để tìm đến yêu cầu được TGPL khi có vướng mắc, quy định pháp luật. Do đó, các nội dung, hình thức truyền tải phải hướng đến mục đích trên, nhất là khi người được TGPL lại là những người yếu thế trong xã hội, nhận thức pháp luật nói chung còn hạn chế, tâm lý e dè và thói quen sử dụng dịch vụ pháp lý còn ít. Truyền thông về TGPL cho người dân trước hết làm nâng cao nhận thức của người dân về quyền được TGPL gắn liền với họ, làm cho họ hiểu trợ giúp pháp lý là giúp họ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trước pháp luật một cách miễn phí, có chất lượng, để từ đó có thể khiến họ chủ động tìm đến TGPL khi có nhu cầu.
- Khảo sát nhu cầu tìm hiểu thông tin của người dân trước khi tổ chức truyền thông. Trên cơ sở kết quả khảo sát xác định nhu cầu tìm hiểu thông tin của từng nhóm người dân tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý sẽ có kế hoạch cụ thể về nội dung truyền thông phù hợp cho từng nhóm đối tượng.
- Nội dung truyền thông cần đơn giản, ngắn gọn và phù hợp với nhu cầu của người dân từng địa bàn, trong đó chú trọng đến quyền được TGPL, vai trò của trợ giúp pháp lý, trợ giúp viên pháp lý, thông tin và cách thức liên hệ... Ngôn ngữ truyền thông cần được thể hiện đa dạng, ở những vùng núi, vùng sâu, vùng xa cần có phiên dịch hoặc thiết bị phiên dịch hoặc được dịch sẵn tiếng dân tộc thiểu số song song với Tiếng Việt. Hình thức truyền thông phải sáng tạo, với nhiều cách trình bày, thể hiện khác nhau, bắt mắt, có hình ảnh, âm thanh minh họa một cách phong phú và ấn tượng để thu hút sự quan tâm của người dân.
- Tùy từng điều kiện tại địa phương có thể tổ chức truyền thông về quyền được TGPL cho từng đối tượng đặc thù, trong đó chú trọng đến các địa phương ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, những địa phương có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống...
- Khi truyền thông cần kết hợp giữa các hình thức khác nhau để tạo hiệu quả cao hơn, như mời người dân tham gia các hội nghị truyền thông đồng thời phát các video về các vụ việc thành công đã được thực hiện hoặc các tình huống vụ việc thường xảy ra trong đời sống xã hội trên địa bàn hoặc kết hợp phát tài liệu như tờ gấp, tài liệu hỏi đáp, sách bỏ túi gắn với các tình huống, câu chuyện pháp luật cụ thể...
- Việc truyền thông về TGPL cần được thực hiện thường xuyên, liên tục, là một trong những nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức trợ giúp pháp lý. Để tạo hiệu ứng mạnh mẽ, có thể xây dựng chương trình truyền thông với những hoạt động gây hiệu ứng mạnh, trong thời gian gắn và gắn với từng đối tượng cụ thể.
- Đẩy mạnh các hình thức truyền thông được nhiều người dân quan tâm, đạt hiệu quả cao trong thời gian qua như xây dựng thông điệp TGPL phát sóng trên Đài tiếng nói Việt Nam; các chương trình, chuyên mục, phóng sự, phim diễn án TGPL dạng tình huống vụ việc cụ thể thường xảy ra trên thực tiễn, các vụ việc được TGPL thành công, hiệu quả hoặc các dạng video ngắn 2D... Các chương trình này cần được phát sóng ở những kênh truyền thông lớn, có số lượng người xem nhiều hoặc được phát sóng trong một khung giờ nhất định để tăng hiệu suất người xem... Ở vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa, thường xuyên phát các bản tin về TGPL trên hệ thống đài phát thanh xã (có thể là dạng tiểu phẩm, thông điệp...). In ấn, cấp phát tờ gấp, tài liệu về TGPL, niêm yết bảng thông tin về TGPL tại các cơ quan tiến hành tố tụng, Trại tạm giam, Nhà tạm giữ; Trụ sở các xã, Hội trường thôn/bản; nhà văn hóa, điểm sinh hoạt cộng đồng thôn, bản; các tổ chức của người khuyết tật, các cơ sở bảo trợ xã hội...
- Tổ chức một số cuộc thi tìm hiểu pháp luật TGPL trực tuyến theo từng quy mô khác nhau; tổ chức cuộc thi trợ giúp viên pháp lý giỏi toàn quốc...
3. Tăng cường năng lực tổ chức thực hiện TGPL, người thực hiện TGPL
- Tăng cường năng lực cho các tổ chức thực hiện TGPL, đặc biệt là các Trung tâm trợ giúp pháp lý:
+ Bảo đảm kinh phí, cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật để bảo đảm quyền được tiếp cận và sử dụng TGPL cho người dân trên địa bàn (như có phòng tiếp dân riêng biệt và thuận lợi, phù hợp với tính đặc thù của đối tượng khi họ đến yêu cầu và trình bày vụ việc; các trang thiết bị hỗ trợ cho hoạt động nghiệp vụ TGPL cần được trang bị đầy đủ, kịp thời để triển khai những nhiệm vụ như điểm cầu TGPL trong phiên tòa trực tuyến, chuyển đổi số trong hoạt động TGPL, truyền thông)
+ Có cơ chế kiểm soát chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý do các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, người thực hiện trợ giúp pháp lý cung cấp cho người được trợ giúp pháp lý trên toàn quốc.
Hướng dẫn cụ thể hơn các tiêu chí đánh giá chất lượng vụ việc TGPL (có sử dụng phương pháp thu thập, sử dụng phản hồi của các đối tượng thụ hưởng dịch vụ TGPL và dẫn chiếu đến kinh nghiệm quốc tế, thực tiễn tốt phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên).
Bồi dưỡng, tập huấn các kỹ năng thẩm định, đánh giá chất lượng vụ việc TGPL, đánh giá vụ việc thành công hiệu quả cho tổ chức thực hiện TGPL và các cơ quan liên quan quan.
+ Khảo sát các điều kiện về nhu cầu TGPL, nguồn lực... đề xuất thành lập thêm các Chi nhánh nơi vùng sâu vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định pháp luật về trợ giúp pháp lý và nhu cầu thực tế tại địa phương để tạo điều kiện thuận lợi cho việc người dân đến gặp và tiếp cận TGPL.
+ Tăng cường trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm trợ giúp pháp lý trong hệ thống tổ chức trợ giúp pháp lý, giữa những người thực hiện trợ giúp pháp lý với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong quá trình thực hiện trợ giúp pháp lý, về các vụ việc TGPL thành công, hiệu quả và những vụ phức tạp.
- Tăng cường số lượng và nâng cao năng lực cho đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về trợ giúp pháp lý của người dân thông qua xây dựng đội ngũ trợ giúp viên pháp lý chuyên sâu trong từng lĩnh vực:
+ Tăng số lượng người thực hiện TGPL bằng các chế độ ưu đãi trong tuyển dụng viên chức làm việc tại Trung tâm TGPL, tăng cường bồi dưỡng, đào tạo để tạo nguồn bổ nhiệm Trợ giúp viên pháp lý, đặc biệt là các vùng sâu, vùng xã, nơi nhu cầu về TGPL của người dân nhiều, số lượng luật sư tham gia TGPL ít...
+ Chủ động trong việc truyền thông và tiếp cận nhu cầu TGPL của người dân. Tập trung thực hiện vụ việc TGPL khi người dân yêu cầu một cách nhanh chóng, kịp thời, bảo đảm chất lượng;
+ Tăng cường năng lực thông qua bồi dưỡng, tập huấn cho đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý nói riêng và đội ngũ người thực hiện TGPL nói chung các kỹ năng: Kiến thức và kỹ năng truyền thông TGPL; kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin, kỹ năng khai thác dữ liệu điện tử trong quá trình thực hiện dịch vụ trợ giúp pháp lý cho các đối tượng đặc thù…; Bồi dưỡng tiếng dân tộc thiểu số, ít nhất là 01-02 thứ tiếng dân tộc phổ biến trên địa bàn; Các kỹ năng mềm như kỹ năng giao tiếp với người dân để giúp họ tránh khỏi tâm lý e ngại, chủ động tìm đến TGPL; Kỹ năng phối hợp với các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong thông tin và giới thiệu người được TGPL và trong thực hiện TGPL; Kỹ năng thực hiện TGPL chuyên sâu theo các hình thức TGPL (tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng, lĩnh vực TGPL (hình sự, dân sự, đất đai, hôn nhân và gia đình...); Kỹ năng thực hiện TGPL chuyên sâu cho các đối tượng yếu thế, nhất là các đối tượng đặc thù hoặc có yếu tố giới tính... như phụ nữ dân tộc thiểu số, nạn nhân bạo lực gia đình, người khuyết tật...; Kiến thức về pháp luật, áp dụng pháp luật tố tụng, trong đó có những nội dung liên quan trực tiếp đến sự tham gia của người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.
4. Tăng cường sự phối hợp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác
- Tăng cường sự phối hợp của các cơ quan, người tiến hành tố tụng:
+ Triển khai hiệu quả các cơ chế phối hợp giữa tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý và các cơ quan tiến hành tố tụng: Thực hiện đúng các quy định của pháp luật về việc niêm yết, giải thích, thông báo, thông tin về trợ giúp pháp lý; tăng cường giải thích, thông báo, thông tin về TGPL, tạo điều kiện cho người thực hiện TGPL trực tại Tòa án, trực trợ giúp pháp lý trong điều tra hình sự và trong quá trình thực hiện TGPL.
+ Chủ động nắm bắt nhu cầu TGPL của người dân thông qua nhiệm vụ, hoạt động của mình để giải thích, giới thiệu người dân đến Trung tâm/Chi nhánh khi có nhu cầu.
+ Tổ chức các lớp tập huấn cho đội ngũ người tiến hành tố tụng có liên quan như thẩm phán, công tố viên, điều tra viên.. trong giới thiệu người được TGPL đến Trung tâm và trong thực hiện TGPL nhằm nâng cao nhận thức và tăng cường sự phối hợp.
+ Tổ chức tập huấn về cơ chế phối hợp, phản ứng nhanh giữa các tổ chức thực hiện TGPL và các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan liên quan trong việc cung cấp TGPL và các dịch vụ hỗ trợ cho nhóm đối tượng đặc thù.
+ Phối hợp bồi dưỡng, tập huấn theo chuyên đề về pháp luật, áp dụng pháp luật tố tụng do Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an tổ chức cho trợ giúp viên pháp lý nói riêng và người thực hiện trợ giúp pháp lý nói chung, trong đó có những nội dung liên quan trực tiếp đến sự tham gia của người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.
- Bên cạnh đó, cần có đẩy mạnh sự phối hợp với các cơ quan nhà nước khác trong quá trình xử lý, giải quyết vụ việc liên quan đến công dân, nếu công dân thuộc diện được TGPL thì có trách nhiệm giải thích, hướng dẫn người dân tìm đến Trung tâm TGPL.
Bồi dưỡng, tập huấn kiến thức về trợ giúp pháp lý cho đội ngũ công chức thuộc các ngành, lĩnh vực khác nhau, nhất là các công chức thực hiện nhiệm vụ trực ban, tiếp công dân hoặc các công chức có nhiệm vụ gắn liền với việc xử lý, giải quyết các vụ việc liên quan đến người dân
Hướng dẫn, tập huấn kỹ năng phối hợp, chuyển thông tin về người được trợ giúp pháp lý, yêu cầu trợ giúp pháp lý đến tổ chức thực hiện TGPL kịp thời.
Tăng cường phối hợp trong truyền thông về TGPL cho người dân, trong giới thiệu người dân tiếp cận dịch vụ TGPL và trong quá trình thực hiện TGPL.
- Phát huy vai trò của mạng lưới cán bộ ở cơ sở, người có uy tín trong cộng đồng trong việc kết nối TGPL với người dân
Để hỗ trợ, giúp đỡ người dân trong việc kịp thời tiếp cận pháp luật, tiếp cận công lý và TGPL, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội ngay tại địa bàn xã, phường, thị trấn, Nhà nước từng bước thiết lập và không ngừng hoàn thiện các thiết chế để người dân tiếp cận pháp luật và TGPL tại cơ sở, bởi lẽ khi người dân có vấn đề gì trong cuộc sống, đặc biệt vấn đề liên quan đến chính sách và pháp luật họ thường tìm đến các tổ chức gần gũi với họ nhất. Do đó việc bồi dưỡng kiến thức TGPL và nâng cao năng lực, kỹ năng cho họ là rất cần thiết.
+ Tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về trợ giúp pháp lý cho đội ngũ cán bộ ở cơ sở, người có uy tín trong cộng đồng: trưởng thôn, trưởng bản, già làng, cán bộ chi hội phụ nữ, hội nông dân… để trang bị cho họ những kiến thức, thông tin về TGPL giúp họ hiểu được công việc TGPL là gì, người thực hiện TGPL là ai, trình tự, thủ tục người dân cần thực hiện để được TGPL....
+ Tập huấn cho đội ngũ cán bộ ở cơ sở, người có uy tín trong cộng đồng về kỹ năng phối hợp thông tin TGPL đến người dân, nắm bắt nhu cầu TGPL của người dân để kết nối, hướng dẫn, giới thiệu người dân đến Trung tâm/Chi nhánh khi có nhu cầu.
+ Tăng cường phối hợp trong truyền thông về TGPL cho người dân, trong giới thiệu người dân tiếp cận dịch vụ TGPL và trong quá trình thực hiện TGPL.
5. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ trợ giúp pháp lý
- Trong xu thế phát triển của công nghệ thông tin hiện nay, cần ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong việc quản lý, theo dõi, cung cấp thông tin về TGPL; tiếp tục xây dựng, quản lý, khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu trợ giúp pháp lý và thực hiện kết nối, chia sẻ cơ sở dữ liệu trợ giúp pháp lý với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, cơ sở dữ liệu của các cơ quan tiến hành tố tụng và cơ sở dữ liệu chuyên ngành của các Bộ, ngành, cơ quan có liên quan theo quy định của pháp luật, giúp người dân tiếp cận và được trợ giúp pháp lý sớm khi có nhu cầu; tăng cường thực hiện dịch vụ công trực tuyến trong lĩnh vực TGPL để người dân tiếp cận được dịch vụ TGPL một cách nhanh chóng, thuận lợi.
- Đẩy mạnh truyền thông trên Trang thông tin điện tử TGPL Việt Nam và của các địa phương, nền tảng xã hội Youtube, fanpage facebook, thiết lập trang Zalo (Tài khoản OA) của Cục TGPL và các Trung tâm TGPL tỉnh để truyền tải các thông tin về TGPL theo hướng thân thiện, dễ dàng truy cập và thuận tiện tra cứu thông tin đối với người dùng. Về nội dung, ngoài những tin tức, quy định, thông tin liên hệ… có thể lựa chọn biên tập các video ngắn về các vụ việc TGPL thành công hoặc xây dựng các tình huống mô phỏng, câu chuyện pháp luật minh họa trên các nền tảng này sẽ thu hút lượt người xem nhiều hơn. Triển khai cách thức truyền thông gắn mã QR lên các sản phẩm truyền thông như tài liệu truyền thông, tờ gấp pháp luật hoặc các sản phẩm truyền hình (thông tin mã QR là đường link dẫn tới danh sách thông tin địa chỉ, số điện thoại Trung tâm TGPL nhà nước 63 tỉnh, thành phố) hoặc trang thông tin Zalo (OA) TRỢ GIÚP PHÁP LÝ hoặc App về TGPL, đường dây nóng TGPL… để người dân dễ dàng tiếp cận thông tin.
- Vận hành hiệu quả vừa truyền thông về TGPL vừa có thể tương tác, tiếp nhận thông tin đa kênh. Tăng cường kết nối trang mạng xã hội với các nhóm xã hội, đặc biệt là giới trẻ dân tộc thiểu số, phụ nữ, nghèo và nhóm dễ bị tổn thương.
- Tiếp tục triển khai hiệu quả các nhiệm vụ tiếp nhận và hỗ trợ thông tin qua phương thức đường dây nóng TGPL. Vận hành đường dây nóng theo hình thức tổng đài 24/7 kết nối với ứng dụng trên điện thoại, trở thành điện thoại thông minh là nơi tiếp nhận và cung cấp thông tin pháp luật, giải đáp vướng mắc đơn giản của người dân.
- Song song với nâng cao nhận thức của người dân về trợ giúp pháp lý cần phát huy sự chủ động từ người thực hiện trợ giúp pháp lý. Người thực hiện trợ giúp pháp lý có thể chủ động tiếp cận người dân thông qua việc nắm bắt thông tin trên các kênh truyền thông đại chúng hoặc mạng xã hội, qua phản ánh, cung cấp thông tin của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Đây là những nỗ lực của TGPL nhằm không bỏ sót, bỏ lọt những người cần được TGPL khi vụ án được giới truyền thông, hoặc mạng xã hội đưa tin…
6. Trước mắt, có thể thực hiện thí điểm một số nội dung sau
- Thí điểm về mô hình tiếp cận, sử dụng TGPL thân thiện với người chưa thành niên, phụ nữ, đồng bào dân tộc thiểu số tại các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và nhiều người dân tộc thiêu số sinh sống.
- Thí điểm việc tham gia thẩm định, đánh giá chất lượng, hiệu quả vụ việc TGPL
- Xây dựng ứng dụng TGPL (app) trên nền tảng di động để giúp người dân dễ dàng tiếp cận đến các thông tin của tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý và thụ hưởng dịch vụ trợ giúp pháp lý miễn phí của Nhà nước khi gặp vướng mắc pháp luật.