Đánh giá chất lượng trợ giúp pháp lý dưới góc độ pháp lý quốc tế là vấn đề nhận được không ít sự quan tâm, nhất là trong quá trình hoàn thiện các quy định của Việt Nam về cùng nội dung này. Nghiên cứu nhiều văn kiện pháp lý quốc tế, các chuyên gia nhận thấy rằng bản chất chính xác của TGPL “hiệu quả” tùy thuộc vào từng trường hợp và các tiêu chuẩn không được quy định trong bất kỳ Công ước nào. Các phương pháp, tiêu chí, danh sách, v.v. được sử dụng để đánh giá dịch vụ TGPL trong một vụ việc phải tuân theo
các tiêu chuẩn tối thiểu cho loại vụ việc đó và cũng phải đủ linh hoạt để xem xét
các hoàn cảnh của vụ việc cụ thể.
Ngân hàng Thế giới cho rằng, tiếp cận công lý cần gắn với việc giải quyết những thách thức về lý luận và thực tiễn, nhằm bảo đảm công lý cho nhóm người dễ bị tổn thương, ít có cơ hội hoặc khó khăn trong việc tiếp cận với hệ thống tư pháp và TGPL. Bên cạnh đó, quyền được TGPL được ghi nhận trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, ví dụ như Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948, Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị năm 1966, Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979 và Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989.
Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948
Tuyên ngôn thế giới về quyền con người được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua năm 1948, đây là văn kiện quốc tế được thừa nhận rộng rãi như tiêu chuẩn về con người. Điều 10 Tuyên ngôn nêu rõ: “Mọi người đều có quyền được xét xử bình đẳng và công khai bởi một Tòa án độc lập và công bằng trong việc xác định quyền và nghĩa vụ của họ và bất kỳ sự khởi tố hình sự nào đối với họ”.
Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị năm 1966
Điều 14.3.d quy định: “Trong phán quyết về bất kỳ sự buộc tội hình sự nào chống lại mình, mọi người đều có đầy đủ các bảo đảm sau đây một cách bình đẳng”:
d) Được có mặt trong khi xét xử và được tự bào chữa hoặc thông qua
TGPL theo sự lựa chọn của mình; được thông báo về quyền này nếu chưa có sự TGPL; và được nhận sự TGPL theo chỉ định trong trường hợp lợi ích của công lý đòi hỏi và không phải trả tiền cho sự trợ giúp đó nếu không có đủ điều kiện trả.
Đoạn 38 Bình luận chung số 32: “Điều 14 khoản 3 (d) về quyền được TGPL cho bị cáo nhằm đảm bảo lợi ích của công lý và không yêu cầu phải trả tiền nếu họ không có khả năng chi trả cho chi phí đó. Mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội là yếu tố quan trọng khi quyết định có cần bổ nhiệm một luật sư để đảm bảo lợi ích công lý hay không và để bảo đảm cơ hội khách quan của bị cáo trong quá trình tố tụng. Trong trường hợp liên quan đến án tử hình, các bị cáo phải được trợ giúp hiệu quả bởi luật sư trong mọi giai đoạn tố tụng. Luật sư do cơ quan có thẩm quyền cung cấp trên cơ sở của điều khoản này cần đại diện và hỗ trợ hiệu quả cho bị cáo. Không như trong các trường hợp thuê luật sư riêng, việc luật sư do cơ quan có thẩm quyền cung cấp thể hiện những ứng xử thiếu trách nhiệm, không đủ năng lực hay vắng mặt khi thẩm vấn nhân chứng thì có thể quy trách nhiệm về vi phạm quy định tại Điều 14 khoản 3(d), vì rõ ràng là hành vi của luật sư không thích hợp với các lợi ích công lý. Cũng có thể bị coi là vi phạm điều khoản này nếu các cơ quan chức năng ngăn cản luật sư không cho họ làm việc hiệu quả.
Mặc dù Công ước không đưa ra tiêu chí cụ thể nhưng thông qua cách giải thích nêu trên có thể thấy Công ước coi trọng tính “hiệu quả” trong việc trợ giúp của người thực hiện TGPL.
Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979
Điều 2(c) quy định: “Thiết lập sự bảo vệ về mặt luật pháp các quyền của phụ nữ trên cơ sở bình đẳng với nam giới và bảo vệ phụ nữ một cách có hiệu quả chống lại bất kỳ hành động phân biệt đối xử nào thông qua các Tòa án quốc gia có thẩm quyền
và các thiết chế công khác”.
Đoạn 33 và 34 tại Khuyến cáo chung số 28: “Theo điểm (c), các Quốc gia thành viên phải đảm bảo rằng các tòa án có nghĩa vụ áp dụng nguyên tắc bình đẳng như được nêu trong Công ước và giải thích luật, ở mức độ tối đa có thể, phù hợp với nghĩa vụ của các quốc gia thành viên theo Công ước. Tuy nhiên, trong trường hợp không thể làm như vậy, tòa án phải lưu ý bất kỳ sự mâu thuẫn nào giữa luật pháp quốc gia, bao gồm luật tôn giáo và tập quán quốc gia, và nghĩa vụ của Quốc gia thành viên theo Công ước để các cơ quan có thẩm quyền lưu ý, vì luật pháp trong nước có thể không bao giờ được sử dụng, là sự biện minh cho việc các quốc gia thành viên không thực hiện nghĩa vụ quốc tế của mình.
Các quốc gia thành viên phải đảm bảo rằng phụ nữ có thể viện dẫn nguyên tắc bình đẳng để hỗ trợ khiếu nại các hành vi phân biệt đối xử trái với Công ước do các cơ quan nhà nước hoặc các tổ chức tư nhân thực hiện. Các quốc gia thành viên phải đảm bảo hơn nữa rằng phụ nữ có quyền sử dụng các biện pháp khắc phục hợp lý, dễ tiếp cận và kịp thời, với trợ giúp và hỗ trợ pháp lý khi cần thiết, để được giải quyết trong một phiên điều trần công bằng bởi một tòa án hoặc cơ quan xét xử độc lập và có thẩm quyền, nếu thích hợp. Khi sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ cũng là sự lạm dụng các quyền con người khác, chẳng hạn như quyền sống và sự toàn vẹn thân thể, chẳng hạn như trong các vụ bạo lực gia đình và các hình thức bạo lực khác, thì các Quốc gia thành viên có nghĩa vụ khởi xướng tố tụng hình sự, đưa (những) thủ phạm ra tòa để xét xử và áp dụng các biện pháp hình sự thích đáng. Các quốc gia thành viên nên hỗ trợ tài chính cho các hiệp hội và trung tâm độc lập cung cấp nguồn lực pháp lý cho phụ nữ trong công việc của họ nhằm giáo dục phụ nữ về quyền bình đẳng và hỗ trợ họ theo đuổi các biện pháp khắc phục tình trạng phân biệt đối xử.”
Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989
Điều 37 (d) quy định: Mọi trẻ em bị tước tự do có quyền được nhanh chóng tiếp cận
TGPL và những trợ giúp thích hợp khác, cũng như quyền được chất vấn tính chất hợp pháp của việc tước tự do đó trước một tòa án hay cơ quan có thẩm quyền, độc lập, vô tư khác và có quyền đòi hỏi một quyết định nhanh chóng liên quan đến bất kỳ hành động nào như vậy.
Điều 37(d) được bình luận lần đầu tại Đoạn 82 đến 84 của Bình luận chung số 10 (2007). Theo Đoạn 1 của Bình luận chung số 24, một số nội dung của phần này đã được thay thế tại Bình luận chung số 24 (2009) “là kết quả của việc ban hành các tiêu chuẩn quốc tế và khu vực, luật lệ của Ủy ban, kiến thức mới về sự phát triển của trẻ em và thanh thiếu niên, và bằng chứng về các thực tiễn hiệu quả, bao gồm cả những thực tiễn liên quan đến công lý phục hồi”.
Đoạn 89, 90 và 91 của Bình luận chung số 24 của Ủy ban về Quyền trẻ em (General comment No. 24 (2019) on children’s rights in the child justice system) nêu rõ:
- Mọi trẻ em bị tước đoạt tự do đều có quyền nhanh chóng tiếp cận sự TGPL và các trợ giúp thích hợp khác, cũng như quyền khiếu nại tính hợp pháp của việc tước đoạt tự do trước tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền, độc lập và vô tư khác, thẩm quyền và đưa ra quyết định nhanh chóng về bất kỳ hành động nào như vậy. Ủy ban khuyến nghị rằng không trẻ em nào bị tước quyền tự do, trừ khi có những lo ngại thực sự về an toàn công cộng hoặc sức khỏe cộng đồng, đồng thời khuyến khích các Quốc gia thành viên ấn định giới hạn độ tuổi mà dưới mức đó trẻ em không thể bị tước quyền tự do một cách hợp pháp, chẳng hạn như 16 tuổi.
- Mọi trẻ em bị bắt và bị tước quyền tự do phải được đưa ra trước cơ quan có thẩm quyền trong vòng 24 giờ để xem xét tính hợp pháp của việc tước đoạt hoặc việc tiếp tục tước quyền tự do. Ủy ban cũng khuyến nghị các Quốc gia thành viên đảm bảo rằng việc tạm giam trước khi xét xử được xem xét thường xuyên nhằm chấm dứt tình trạng này. Trong trường hợp không thể để trẻ em có thể trình diện đầu tiên (trong vòng 24 giờ), đứa trẻ phải chính thức bị buộc tội về những hành vi bị cáo buộc và được đưa ra trước tòa án hoặc cơ quan hoặc cơ quan tư pháp có thẩm quyền, độc lập và khách quan khác để vụ án được giải quyết trong thời gian sớm nhất nhưng không quá 30 ngày kể từ ngày tạm giam có hiệu lực. Ủy ban kêu gọi các Quốc gia thành viên áp dụng giới hạn tối đa về số lượng và thời gian trì hoãn và đưa ra các quy định pháp lý hoặc hành chính để đảm bảo rằng tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác đưa ra các giới hạn tối đa về số lượng và thời gian trì hoãn, quyết định cuối cùng về cáo buộc không muộn hơn sáu tháng kể từ ngày bị giam giữ lần đầu, nếu không thì đứa trẻ sẽ được trả tự do.
- Quyền tính hợp pháp của việc tước quyền tự do không chỉ bao gồm quyền kháng cáo các quyết định của tòa án mà còn có quyền được tiếp cận tòa án để xem xét lại một quyết định hành chính (ví dụ, do cảnh sát, công tố viên đưa ra). và các cơ quan có thẩm quyền khác. Các quốc gia thành viên nên đặt ra giới hạn thời gian ngắn cho việc giải quyết khiếu nại và xem xét lại nhằm đảm bảo đưa ra các quyết định nhanh chóng, theo yêu cầu của Công ước.
Bên cạnh các điều ước quốc tế, các Nguyên tắc cơ bản của Liên hợp quốc về vai trò của luật sư đặt ra nhiều nghĩa vụ và trách nhiệm của luật sư, bao gồm việc tuân thủ các tiêu chuẩn về năng lực và trách nhiệm của luật sư TGPL trong việc tư vấn và hỗ trợ người được TGPL. Theo Các Nguyên tắc và Hướng dẫn của Liên hợp quốc về TGPL trong Hệ thống Tư pháp hình sự (UNPnG)
[1], các dịch vụ TGPL phải được giám sát và đánh giá. Điều này cần bao gồm liệu người thực hiện TGPL trong một vụ án có:
- Tuân thủ các chuẩn mực đạo đức, nghề nghiệp của nghề luật;
- Đại diện cho người được TGPL của họ một cách hiệu quả, bao gồm cả việc bào chữa hiệu quả trong các vụ án hình sự;
- Tư vấn và hỗ trợ người được TGPL của họ phù hợp và hỗ trợ người được TGPL. Điều này bao gồm tư vấn cho họ về việc đưa ra tuyên bố liên quan lợi ích của họ, quyền giữ im lặng, quyền kháng cáo, v.v.; đã thực hiện mọi biện pháp pháp lý để bảo vệ quyền lợi của người được TGPL.