I. ĐẶC ĐIỂM, TÌNH HÌNH CỦA ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI TỈNH YÊN BÁI
1. Đặc điểm, tình hình của đồng bào dân tộc thiểu số tại tỉnh Yên Bái
Yên Bái là một tỉnh miền núi phía Bắc, nằm giữa 2 vùng Đông Bắc và Tây Bắc; tổng diện tích tự nhiên trên 6.886 km
2, tổng dân số tỉnh Yên Bái trên 85 vạn người, trong đó dân tộc thiểu số chiếm 57,3%,
(trong đó: dân tộc Tày 18,28%, Mông 13,03%, Dao 12,32%, Thái 7,54% còn lại là các dân tộc khác như: Mường, Nùng, Sán Chay, Khơ Mú, Hoa, Phù Lá...)
Đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Yên Bái đa số cư trú tại 2 huyện vùng cao Trạm Tấu và Mù Cang Chải, các xã vùng cao, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn như dân tộc Mông cư trú tập trung ở hai huyện Trạm Tấu và Mù Cang Chải; dân tộc Thái ở thị xã Nghĩa Lộ; dân tộc Tày ở huyện Văn Chấn, Văn Yên, Lục Yên, Trấn Yên, Yên Bình; dân tộc Dao ở hai huyện Văn Yên, Văn Chấn, Yên Bình, Lục yên, Trấn Yên; dân tộc Sán Chay, Cao Lan ở huyện Yên Bình; dân tộc Nùng ở huyện Lục Yên; Phù Lá ở huyện Văn Yên...
Theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý 2017; Thông tư liên tịch số 01/2012/TTLT-BTP-UBDT ngày 17/01/2012 của Bộ Tư pháp và Ủy ban Dân tộc hướng dẫn thực hiện trợ giúp pháp lý đối với người dân tộc thiểu số quy định người dân tộc thiểu số thuộc diện được hưởng trợ giúp pháp lý gồm những người cư trú ở các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thuộc vùng dân tộc và miền núi.
Như vậy người dân tộc thiểu số thuôc đối tượng được trợ giúp pháp lý của tỉnh Yên Bái gồm có: (1)
137 xã, phường, thị trấn thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi
(trong đó: có 59 xã khu vực III, 11 xã khu vực II, 67 xã khu vực I) được quy định tại Quyết định số
861/QĐ-TTg ngày 04/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Danh sách các xã khu vực III, khu vực II, khu vực I thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025; có 02 huyện Trạm Tấu và Mù Cang Chải là huyện nghèo giai đoạn 2021 – 2025. (2)
382 thôn, bản đặc biệt khó khăn được quy định tại Quyết định số 612/QĐ-UBDT ngày 16/9/2021 của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc phê duyệt danh sách thôn đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025. (3) Theo báo cáo kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo tỉnh Yên Bái năm 2023 có
17.716/20.222 hộ là hộ nghèo dân tộc thiểu số
(Dân tộc Tày 2.199 hộ, Mông 9.964 hộ, Dao 2.845 hộ, Thái 1.758 hộ, Nùng 255 hộ, Mường 569 hộ, Cao Lan 169 hộ, Khơ Mú 182 hộ, Giáy 43 hộ, Phù Lá 29 hộ, còn lại dân tộc Hoa, E Đê, Ba Na 10 hộ) chiểm
tỷ lệ 87,6% tổng số hộ nghèo toàn tỉnh.
2. Khó khăn, hạn chế tác động đến công tác trợ giúp pháp lý đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trên địa bàn tỉnh Yên Bái
Trong những năm qua, được sự quan tâm, hỗ trợ của trung ương bằng các chương trình, dự án, chính sách dân tộc… nên điều kiện kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã được phát triển hơn. Các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu được đầu tư, cơ bản đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống của đồng bào; công tác xóa đói, giảm nghèo đã đạt được những kết quả quan trọng, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh qua các năm; giáo dục đào tạo được đổi mới căn bản, toàn diện; công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân có nhiều chuyển biến tích cực. Đời sống kinh tế, văn hóa, tinh thần của đồng bào từng bước được nâng cao rõ rệt, bản sắc văn hóa truyền thống của các dân tộc được tôn trọng, giữ gìn và phát huy. Công tác trợ giúp pháp lý trên địa bàn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi tỉnh Yên Bái đã được quan tâm, đạt được kết quả khá toàn diện (theo báo cáo tham luận của Trung tâm trợ giúp pháp lý của sở Tư pháp tỉnh Yên Bái).
Bên cạnh kết quả đạt được, Ban dân tộc tỉnh nhận thấy khó khăn, vướng mắc trong công tác trợ giúp pháp lý hiện nay đó là:
(1) Đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, giao thông đi lại rất khó khăn nên đã phần nào ảnh hưởng đến việc triển khai hoạt động trợ giúp pháp lý, sự tiếp cận của người dân với dịch vụ TGPL miễn phí của Nhà nước tại Trung tâm trợ giúp pháp lý của tỉnh
(cụ thể như huyện Mù Cang Chải cách trung tâm tỉnh 200 km; Trạm Tấu 130 km, thị xã Nghĩa Lộ, Văn Chấn; Lục Yên trên 100Km...) chưa tính các xã, thôn, bản cách xa Trung tâm huyện 40 - 50km.
(2) Trình độ văn hóa của một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số còn thấp, tỷ lệ mù chữ vẫn còn, nhất là phụ nữ; nhận thức pháp luật của đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều hạn chế. Do tâm lý muốn giải quyết các vụ việc theo phong tục, tập quán và hương ước của thôn, bản, ngại va chạm đến pháp luật, ít được tiếp cận với hoạt động trợ giúp pháp lý.
(3) Trung tâm TGPL của tỉnh trực thuộc sở Tư pháp có trụ sở tại Thành phố Yên Bái; đội ngũ công chức triển khai thực hiện TGPL ít, không biết tiếng dân tộc thiểu số nên phần nào ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả TGPL cho đồng bào dân tộc thiểu số.
2. Một số lưu ý trong công tác trợ giúp pháp lý cho đồng dân tộc thiểu số tỉnh Yên Bái
Trên cơ sở đặc điểm, tình hình và khó khăn, hạn chế tác động đến công tác trợ giúp pháp lý đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trên địa bàn tỉnh Yên Bái, để cho công tác Trợ giúp pháp lý cho người dân tộc thiểu số trong thời gian tới thiết thực, hiệu quả hơn, Ban Dân tộc đề xuất 4 giải pháp sau đây:
Một là, tiếp tục tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức cho đồng bào dân tộc thiểu hiểu rõ hơn về mục đích, ý nghĩa, quyền được trợ giúp pháp lý và cách tiếp cận với dịch vụ trợ giúp pháp lý khi có nhu cầu.
Hai là, tăng cường tập huấn, nâng cao kiến thức pháp luật về trợ giúp pháp lý cho cán bộ chủ chốt cấp xã, Bí thư Chi bộ, Trưởng thôn, bản, Hòa giải viên Tổ Hòa giải, người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số. Đây chính là lực lượng nòng cốt tham gia hoà giải, giải quyết các vụ việc ngay từ cơ sở, đồng thời tư vấn cho người dân đến Trung tâm trợ giúp pháp lý của tỉnh khi có nhu cầu.
Ba là, thành lập các tổ hoặc sử dụng đội ngũ cơ sở hỗ trợ, kết nối, phối hợp trợ giúp pháp lý tại các huyện xa nhằm giảm thời gian, chi phí đi lại cho người dân
(nhất là các huyện Mù Cang Chải; Trạm Tấu, thị xã Nghĩa Lộ, Văn Chấn; huyện Lục Yên) đây là địa bàn các xã, thôn, bản cách trung tâm trợ giúp pháp lý của tỉnh Yên Bái trên 100km trở lên.
Bốn là, tổ chức trợ giúp pháp lý qua công nghệ thông tin như trang tin điện tử của sở Tư pháp; qua điện thoại... để người dân được tiếp cận và được trợ giúp pháp lý nhanh nhất, mất ít thời gian nhất, ít chi phí nhất, hiệu quả cao nhất./.