Các chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với người dân tộc thiểu số và một số lưu ý khi truyền thông về trợ giúp pháp lý cho đồng bào dân tộc
Sign In

Các chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với người dân tộc thiểu số và một số lưu ý khi truyền thông về trợ giúp pháp lý cho đồng bào dân tộc

I. VÀI NÉT VỀ CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở NƯỚC TA
Theo thống kê, Việt Nam có 53 dân tộc thiểu số (DTTS) với 14,119 triệu người, chiếm 14,68% dân số cả nước[1].
- Quy mô dân số các DTTS không đồng đều: Có 06 dân tộc có dân số trên 01 triệu người (Tày, Thái, Mường, Mông, Nùng, Khmer); 14 dân tộc dưới 10.000 người, trong đó có 05 dân tộc dưới 1.000 người là Ơ Đu, Brâu, Rơ Măm, Pu Péo và Si La.
- Các DTTS cư trú đan xen nhau: Đồng bào DTTS sinh sống thành cộng đồng, đan xen với nhau và với dân tộc Kinh. Trong 51 tỉnh, thành phố có đông đồng bào DTTS: Có 08 tỉnh đồng bào DTTS chiếm trên 70% dân số; 04 tỉnh chiếm từ 50-70% dân số; 05 tỉnh chiếm từ 30-50% dân số; 12 tỉnh chiếm 10-30%  dân số và 34 tỉnh có dưới 10% DTTS.
Hiện nay, xu hướng đan xen giữa các dân tộc ngày càng trở nên phổ biến. Trên địa bàn một xã, huyện, tỉnh vùng DTTS&MN thường có nhiều thành phần dân tộc cùng chung sống. Tình trạng cư trú xen kẽ dẫn tới sự giao lưu kinh tế - văn hóa, tăng cường sự hiểu biết, hòa hợp, xích lại gần nhau, hỗ trợ nhau cùng phát triển và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc.
- Hầu hết các DTTS sinh sống ở miền núi, biên giới, vùng sâu, vùng xa: Đồng bào các DTTS tập trung chủ yếu ở một số tỉnh khu vực miền núi phía Bắc (khoảng 07 triệu người), Tây Nguyên (khoảng 2,2 triệu người), Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung (2,1 triệu người), Tây Nam Bộ (1,3 triệu người), Đông Nam Bộ (01 triệu người). Chỉ có 03 dân tộc (Khmer, Chăm, Hoa) sinh sống tập trung ở vùng đồng bằng và thành thị. Ngoài ra, còn có nhiều người DTTS sinh sống rải rác ở khắp các tỉnh, thành phố trong cả nước.
Tuyến biên giới đất liền của Việt Nam với tổng chiều dài là 4.924,025km, có 435 xã, phường, thị trấn thuộc 103 huyện của 25 tỉnh[2]; trong đó hiện nay vùng DTTS có 315 xã thuộc 92 huyện của 23 tỉnh (trừ Long An và Đồng Tháp). Dọc tuyến biên giới đất liền của Việt Nam với Trung Quốc, Lào và Campuchia chủ yếu là người DTTS sinh sống (chiếm khoảng 67,4%)[3]. Nhiều DTTS có quan hệ sắc tộc, anh em dòng họ và có chung đặc điểm văn hóa với các dân tộc bên kia biên giới. Các DTTS cư trú ở những địa bàn trọng yếu dọc tuyến biên giới giữ vai trò rất quan trọng trong việc giữ gìn cột mốc biên giới, bảo vệ an ninh quốc gia.
- KT-XH của nhiều DTTS phát triển không đồng đều và còn nhiều khó khăn: Do các nguyên nhân về lịch sử, điều kiện tự nhiên, xã hội, sự phát triển không đồng đều giữa các dân tộc là khá phổ biến ở các quốc gia đa dân tộc trong đó có Việt Nam. Sau hơn 30 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, đầu tư phát triển KT-XH vùng DTTS&MN và đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Tuy nhiên, khoảng cách phát triển, chênh lệch mức sống giữa các DTTS, giữa DTTS với dân tộc đa số và giữa các vùng miền vẫn có xu hướng ngày càng doãng ra[4].
Trong 53 DTTS hiện nay, có 32 dân tộc còn gặp nhiều khó khăn và 14 dân tộc có khó khăn đặc thù[5]. Khắc phục sự phát triển không đồng đều về KT-XH giữa các dân tộc là nhiệm vụ quan trọng của chính sách dân tộc ở Việt Nam trong thời gian tới nhằm đảm bảo sự ổn định chính trị xã hội.
- Văn hóa các DTTS rất đa dạng, phong phú: Văn hoá các DTTS Việt Nam là hệ giá trị phản ánh chiều sâu về lịch sử, mối quan hệ và ứng xử giữa con người với thiên nhiên, con người với nhau trong đời sống xã hội. Các DTTS Việt Nam không phụ thuộc số dân hay trình độ phát triển KT-XH đều có những sắc thái văn hóa độc đáo. Văn hóa các dân tộc thể hiện qua ngôn ngữ, chữ viết, văn học nghệ thuật; văn hóa ăn, mặc, tâm lý, phong tục, tập quán, lối sống; văn hoá sản xuất, kiến trúc,... Mỗi dân tộc có sắc thái văn hóa riêng, góp phần tạo nên sự đa dạng, phong phú, thống nhất của nền văn hóa các dân tộc Việt Nam. 
- Tồn tại đời sống tín ngưỡng, tôn giáo trong đồng bào DTTS: Ở nước ta,          53 DTTS đều có những loại hình tín ngưỡng cơ bản như Tín ngưỡng thờ cũng tổ tiên, Tín ngưỡng nông nghiệp, Tín ngưỡng đa thần (vạn vật hữu linh – vạn vật đều có linh hồn…). Bên cạnh đó, Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo, có tôn giáo tồn tại ở một số dân tộc, có tôn giáo gắn với 01 dân tộc riêng. Đạo Phật Bắc tông, đạo Công giáo, đạo Tin lành… tồn tại ở vùng người Kinh, Hoa, Mông; đạo Phật Nam tông ở vùng đồng bào Khmer các tỉnh miền Tây Nam Bộ; đạo Hồi Islam ở vùng người Chăm Nam Bộ; đạo Bàlamôn và Hồi giáo Bàni ở vùng người Chăm các tỉnh miền Trung…Mỗi tôn giáo ở nước ta đều xây dựng phương châm – đường hướng hành đạo cụ thể của mình với tư cách là một bộ phận của dân tộc Việt Nam, đó cũng là biểu hiện các sắc thái văn hóa tôn giáo ở nước ta.
- Các DTTS có mối quan hệ đoàn kết, gắn bó, cùng nhau bảo vệ và xây dựng đất nước: Cộng đồng các dân tộc Việt Nam cùng chung một vận mệnh lịch sử, gắn bó với nhau từ thời dựng nước và được thử thách trong tiến trình lịch sử tạo nên truyền thống yêu nước; đoàn kết trong thích ứng với điều kiện tự nhiên và đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc; cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất, xây dựng đất nước.
Những năm qua, mặc dù được Đảng và Nhà nước quan tâm, có nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp hỗ trợ, đầu tư phát triển để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các DTTS, vùng DTTS,MN đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, song do xuất phát điểm thấp nên KT-XH vùng DTTS&MN vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức, là vùng 05 “nhất” so với cả nước: (1) Cơ sở hạ tầng, địa bàn khó khăn nhất, (2) Tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo cao nhất, (3) Khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản thấp nhất, (4) Chất lượng nguồn nhân lực thấp nhất, (5) Quốc phòng, an ninh tiềm ẩn nguy cơ nhiều nhất. Khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa các dân tộc, vùng miền có xu hướng tăng lên; vùng DTTS,MN có nguy cơ ngày càng bị tụt hậu so với sự phát triển chung của cả nước, hộ nghèo dần dần chủ yếu là hộ người DTTS và có nguy cơ bị bỏ lại phía sau.
Vì vậy, cần tiếp tục hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước nhằm góp phần phát triển KT-XH vùng DTTS,MN.
II. CÁC CHÍNH SÁCH ƯU ĐÃI CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
Chính sách dân tộc được hiểu là chính sách do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước ban hành, cơ quan hành pháp tổ chức thực hiện (Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, UBND các cấp) có tác động trực tiếp đến người DTTS, vùng DTTS, MN. Chính sách dân tộc mang bản chất giai cấp của nhà nước, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước trong việc ưu tiên, ưu đãi đầu tư, hỗ trợ đối với đồng bào DTTS và vùng DTTS, MN nhằm thiết lập sự bình đẳng và hoà nhập phát triển, củng cố, tăng cường sự đoàn kết thống nhất của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Chính sách dân tộc là công cụ hữu hiệu chủ yếu để nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý về công tác dân tộc, duy trì sự tồn tại và phát triển KT-XH vùng DTTS, MN và phục vụ mọi người dân. Dưới góc độ quản lý, quản trị quốc gia, nhà nước sử dụng chính sách dân tộc như một công cụ quan trọng tác động vào các lĩnh vực đời sống xã hội vùng đồng bào DTTS, MN để đạt được mục tiêu định hướng của nhà nước.
- Trước thời kỳ đổi mới (1986): Trong các giai đoạn lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc, kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, bảo vệ biên giới Tổ quốc và xây dựng đất nước, công tác dân tộc tập trung vận động đồng bào các DTTS tham gia ủng hộ cách mạng, phục vụ kháng chiến, ổn định sản xuất và đời sống, giải quyết các vấn đề xã hội do hậu quả chiến tranh để lại, thực hiện định canh định cư và các chính sách xã hội. Vì vậy, giai đoạn này chưa ghi nhận được những chính sách dân tộc cụ thể nhằm phát triển KT-XH vùng DTTS, MN.
- Giai đoạn 1986 – 2000: Để cụ thể hoá Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 72/HĐBT, ngày 13/3/1990 về một số chủ trương, chính sách cụ thể phát triển kinh tế - xã hội miền núi; triển khai thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội 06 tỉnh đặc biệt khó khăn miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long; xây dựng một số chương trình, dự án, chính sách như: Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn, miền núi, vùng sâu, vùng xa (gọi tắt là Chương trình 135); chương trình xây dựng trung tâm cụm xã, định canh định cư, xóa bỏ cây thuốc phiện; các chính sách trợ cước, trợ giá; hỗ trợ phát triển giáo dục, y tế; chính sách về tài chính, ngân hàng...
Bên cạnh các chính sách khung, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành hàng loạt chính sách dân tộc cụ thể trên các lĩnh vực kinh tế, giáo dục, y tế, văn hoá, xã hội và quốc phòng an ninh nhằm phát triển toàn diện vùng DTTS,MN. Đến hết năm 2018, có 118 văn bản liên quan đến chính sách dân tộc còn hiệu lực, bao gồm: 50 văn bản chính sách chung không nêu cụ thể đến DTTS, 13 văn bản chính sách chung có đề cập đến DTTS, 21 văn bản chính sách vùng có DTTS và 34 văn bản chính sách cho riêng vùng DTTS và đồng bào DTTS [6]  
Ngoài các chính sách dân tộc do Trung ương ban hành, nhiều tỉnh, thành phố đã ban hành chính sách đặc thù sử dụng ngân sách địa phương để đầu tư, hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS, MN.
- Giai đoạn 2021 2025: Thực hiện Kết luận 65-KL/TW ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết 24-NQ/TW về công tác dân tộc trong thời kỳ mới, các Bộ, ngành đã tập trung rà soát, bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung, thay thế và tích hợp các chính sách dân tộc. Qua thống kê sơ bộ của Vụ Chính sách Dân tộc thuộc Uỷ ban Dân tộc, đến hết năm 2022 có 136 chính sách dân tộc, bao trùm tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội vùng đồng bào DTTS,MN; trong đó có 38 chính sách dành riêng cho đồng bào DTTS, vùng DTTS,MN; Uỷ ban Dân tộc chủ trì quản lý, chỉ đạo 25 chính sách, còn lại là các bộ ngành khác[7]
Đặc biệt trong giai đoạn này, bên cạnh 02 CTMTQG Xây dựng nông thôn mới và Giảm nghèo bền vững, lần đầu tiên Việt Nam có CTMTQG giành riêng cho đồng bào DTTS và vùng DTTS, MN. Chương trình là quyết sách lớn của Đảng và Nhà nước, được xây dựng trên cơ sở rà soát, sửa đổi, bổ sung, tích hợp nhiều chính sách và nội dung chính sách, chương trình, dự án để khắc phục tình trạng chồng chéo, tản mạn chính sách; tập trung, thống nhất các nguồn lực; phân công rõ cơ quan đầu mối chủ trì, chịu trách nhiệm chính tham mưu cho Chính phủ trong việc quản lý, chỉ đạo; bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành trong triển khai, thực hiện.
III. MỘT SỐ LƯU Ý KHI TRUYỀN THÔNG VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ
Truyền thông là quá trình truyền đạt thông tin giữa các đối tượng hay đơn vị khác nhau thông qua nhiều phương tiện truyền thông như báo chí, truyền hình, radio, internet hoặc những hình thức khác nhằm tác động đến nhận thức, suy nghĩ, hành vi của đối tượng nhận thông điệp. 
Xuất phát từ đặc điểm của đồng bào DTTS và vùng DTTS,MN, để công tác truyền thông về trợ giúp pháp lý cho đồng bào DTTS thực sự hiệu quả, cần lưu ý thực hiện tốt một số nội dung sau đây:
1. Tích cực tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào DTTS
Nhiều đồng bào DTTS sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện KT-XH đặc biệt khó khăn, giao thông đi lại không thuận lợi, trình độ nhận thức pháp luật còn hạn chế. Đồng bào vi phạm pháp luật do thiếu hiểu biết pháp luật trong nhiều lĩnh vực như đất đai, lâm nghiệp, dân sự, hình sự, hôn nhân gia đình... Tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết, mua bán phụ nữ, trẻ em, buôn bán ma tuý, tàng trữ và sử dụng vũ khí trái phép, tranh chấp tài sản, đất đai, vi phạm luật giao thông, chặt phá rừng … vẫn còn xảy ra. Bên cạnh đó, có nhiều trường hợp bị các đối tượng xấu dụ dỗ, lôi kéo, kích động mà vi phạm pháp luật, gây ảnh hưởng không nhỏ đến an ninh trật tự trên địa bàn.
 Vì vậy, bên cạnh việc tuyên truyền, phổ biến chính sách dân tộc, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào DTTS, gồm các luật như: Luật Đất đai, Luật Hình sự, Luật Dân sự, Luật Khiếu nại, tố cáo, Luật Hôn nhân và Gia đình... Đây vừa là chức năng truyền tải thông tin của công tác truyền thông, vừa là nhiệm vụ của hoạt động trợ giúp pháp lý; qua đó giúp đồng bào DTTS hiểu rõ và nâng cao nhận thức pháp luật, từ đó hạn chế vi phạm pháp luật.
2. Chú trọng công tác truyền thông nhằm nâng cao nhận thức về trợ giúp pháp lý cho đồng bào DTTS
Các thiết chế hỗ trợ, giúp đỡ người dân tiếp cận pháp luật và dịch vụ pháp lý ở nhiều nơi thuộc vùng đồng bào DTTS,MN thiếu và yếu, không đồng bộ. Nhiều  người DTTS không biết hoặc chưa thông thạo chữ và tiếng phổ thông, người dân thiếu thông tin và hiểu biết về pháp luật, thậm chí nhiều người chưa biết về quyền được trợ giúp pháp lý của mình hoặc còn có tâm lý e ngại khi tiếp cận với trợ giúp pháp lý...
Vì vậy, cần chú trọng công tác truyền thông, nhất là về Luật Trợ giúp pháp lý để  đồng bào được hưởng quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong giải quyết tố tụng, mâu thuẫn, tranh chấp...
3. Đa dạng hoá phương thức truyền thông về trợ giúp pháp lý phù hợp với văn hoá, phong tục, tập quán của từng dân tộc, vùng miền.
Trong quá trình lịch sử phát triển, các DTTS có văn hoá, phong tục, tập quán khác nhau; ngay cùng dân tộc cũng có thể khác nhau theo vùng, miền. Bên cạnh những phong tục, tập quán mang truyền thống tốt đẹp, phù hợp pháp luật cần tiếp tục phát huy, ở một số nơi vẫn còn tồn tại nhiều hủ tục lạc hậu từ bao đời, thậm chí trái pháp luật như nạn tảo hôn, hôn nhân cận huyết, tục thách cưới, bắt vợ, ép gả con, người chết để lâu ngày mới chôn, ma chay, cưới xin tốn kém, chữa bệnh bằng cúng ma, mê tín dị đoan... Những tập tục này không dễ ngày một ngày hai xoá bỏ. Vì vậy, cần thực hiện nguyên tắc kiên trì trong tuyên truyền, giải thích pháp luật, truyền thông với phương trâm  “mưa dầm, thấm lâu”, tránh máy móc, nóng vội, áp đặt.
Những năm qua, KT-XH nhiều vùng DTTS,MN đã có bước phát triển, đời sống của đồng bào được cải thiện, cần triệt để tận dụng các phương thức truyền thông về trợ giúp pháp lý bằng phương tiện đại chúng như báo nói, báo hình, loa truyền thanh, điện thoại, internet, trang tin điện tử, các mạng xã hội... vì thông tin có sức lan toả lớn, kịp thời. Bên cạnh đó, cần sử dụng các hình thức truyền thông phù hợp với đặc điểm đối tượng như: Thực hiện truyền thông trợ giúp pháp lý điểm, trợ giúp pháp lý lưu động (ngoài trụ sở), thiết lập đường dây nóng về trợ giúp pháp lý, tổ chức thi tìm hiểu pháp luật, phiên toà giả định, hội nghị phổ biến, tập huấn pháp luật, pa nô, áp phích, tờ rơi, tờ gấp, cẩm nang pháp luật, bảng thông tin, hộp tin về trợ giúp pháp lý cho nhân dân nói chung và đồng bào DTTS nói riêng. Trong nhiều trường hợp, các thông tin truyền thông cần được dịch, nói và viết bằng tiếng DTTS để đồng bào dễ nghe, dễ hiểu, dễ tiếp thu.    
4. Không ngừng nâng cao trình độ, kỹ năng cho người thực hiện truyền thông và trợ giúp pháp lý cho đồng bào DTTS.
Ở nhiều nơi, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, đồng bào DTTS không biết viết, không biết tiếng Việt phổ thông, còn tình trạng mù chữ, khả năng nhận thức và tiếp cận pháp luật rất hạn chế. Vì vậy, đòi hỏi những người thực hiện công tác truyền thông và trợ giúp pháp lý ngoài việc không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, cần được thường xuyên bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kiến thức công tác dân tộc, kỹ năng truyền thông, học tiếng và chữ viết DTTS để có thể trao đổi, truyền đạt được các thông tin pháp luật cho đồng bào DTTS.
5. Phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị, già làng, trưởng bản, trưởng dòng họ, người có uy tín, chức sắc, chức việc trong hoạt động trợ giúp pháp lý.
Ở nhiều nơi vùng DTTS,MN, bên cạnh hệ thống chính trị và hệ thống quản lý xã hội mang tính chất hành chính quốc gia, vẫn tồn tại hệ thống quản lý xã hội theo phong tục, tập quán, đó là quản lý xã hội dựa vào thiết chế tự quản trong cộng đồng, bằng luật tục, quy ước, hương ước... Trong đó, trưởng thôn bản, trưởng tộc, già làng, người có uy tín... giữ vai trò rất quan trọng trong việc tập hợp, đoàn kết, động viên anh em dòng họ, dân làng. Vì vậy, bên cạnh việc phát huy vai trò Mặt trận Tổ quốc, Hội Cựu chiến binh, thanh niên, phụ nữ... cần đặc biệt chú trọng sự tham gia, hưởng ứng tích cực của các già làng, trưởng bản, trưởng dòng họ, người có uy tín, chức sắc, chức việc trong hoạt động truyền thông và trợ giúp pháp lý cho đồng bào DTTS.
6. Triển khai thực hiện có hiệu quả nội dung trợ giúp pháp lý trong CTMTQG DTTS. Thực hiện tốt Chương trình phối hợp giữa Bộ Tư pháp với Uỷ ban Dân tộc
Triển khai đầy đủ, kịp thời việc xây dựng các chương trình về trợ giúp pháp lý phủ sóng các tỉnh vùng đồng bào DTTS,MN, biên soạn, cung cấp các tài liệu truyền thông về chính sách trợ giúp pháp lý, tổ chức tập huấn điểm về kỹ năng thực hiện trợ giúp pháp lý cho người DTTS...( nội dung số 3, tiểu dự án 1 của Dự án 10 thuộc CTMTQG phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS&MN) góp phần nâng cao nhận thức về trợ giúp pháp lý nhằm bảo đảm công bằng trong tiếp cận công lý của người dân vùng đồng bào DTTS,MN.
Hiện nay, Uỷ ban Dân tộc đã hoàn thiện dự thảo và chuẩn bị ký kết Chương trình phối hợp công tác năm 2024 với Bộ Tư pháp, có nội dung phối hợp hỗ trợ pháp lý cho người DTTS, trong đó, Bộ Tư pháp chủ trì Tăng cường và đổi mới các hoạt động truyền thông về trợ giúp pháp lý đến với đồng bào dân tộc thiểu số; chỉ đạo Sở Tư pháp đa dạng các hoạt động truyền thông, bảo đảm hiệu quả phù hợp với đồng bào dân tộc thiểu số nhằm nâng cao khả năng tiếp cận trợ giúp pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ”.
7. Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị và đa dạng hoá nguồn kinh phí cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện truyền thông và trợ giúp pháp lý; đây là những điều kiện cần thiết để thực hiện có hiệu quả các hoạt động này.
8. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về công tác trợ giúp pháp lý ho người DTTS theo hướng mở rộng đối tượng, địa bàn thụ hưởng và đơn giản hoá trình tự, thủ tục về trợ giúp pháp lý; tăng cường quản lý nhà nước đối với truyền thông về trợ giúp pháp lý cho đồng bào DTTS./.
 
[1]Kết quả Điều tra thống kê dân số và nhà ở tại thời điểm ngày 01 tháng 4 năm 2019.
 
[2] Theo báo cáo số 6615/BC-BKHĐT ngày 16/9/2022 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (bao gồm cả 02 tỉnh Long An và Đồng tháp không thuộc vùng DTTS&MN)
       [3] Báo cáo số 13/BC/CP ngày 05/01/2023 của Chính phủ
[4] Theo báo cáo của các tỉnh có biên giới vùng DTTS&MN, năm 2016 tỷ lệ hộ nghèo của 23 tỉnh là 12,91% (tương đương 980.229 hộ), năm 2021 còn 6,85% (tương đương 519.838 hộ), cao gấp 3 lần bình quân cả nước.
[5] Quyết định 1227/QĐ-TTg ngày 14/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh sách các dân tộc còn gặp nhiều khó khăn, có khó khăn đặc thù.
[6] Báo cáo của Chính phủ trình Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIV.
     [7] Báo cáo rà soát chính sách dân tộc số... ngày 01/3/2022 của Vụ Chính sách dân tộc – Uỷ ban Dân tộc