1. Thông tin cơ bản về dự án
- Tên Dự án (tiếng Việt): Tăng cường pháp luật và tư pháp tại Việt Nam (EU JULE).
- Tên Dự án (tiếng Anh): EU Justice and Legal Empowerment Programme in Vietnam.
- Mã dự án: DCI-ASIE/2014/037-404.
- Địa điểm thực hiện Dự án: Các tỉnh, thành phố của Việt Nam.
- Tên nhà tài trợ: Liên minh châu ÂU (EU), Chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP), Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF).
- Cơ quan chủ quản: Bộ Tư pháp.
- Cơ quan, tổ chức đồng thực hiện Dự án:
+ Hợp phần PAGODA: Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Hội Luật gia Việt Nam, một số Bộ, ngành, địa phương sẽ được xác định sau trong quá trình thực hiện Dự án (thực tế đã bổ sung Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Ban Nội chính Trung ương và 05 Sở Tư pháp).
+ Hợp phần JIFF: các tổ chức được thành lập và hoạt động hợp pháp theo quy định pháp luật của Việt Nam, có kinh nghiệm và hoạt động thích hợp được công nhận trong lĩnh vực pháp luật để thực hiện các hoạt động hỗ trợ tiếp cận tư pháp cho công dân Việt Nam được ban Chỉ đạo Dự án phê duyệt nhận tài trợ từ Quỹ JIFF.
- Thời gian thực hiện Dự án: 20/8/2018-01/12/2020. Dự án được gia hạn hai lần đến hết 31/5/2024.
- Ngân sách dự án:
+ Vốn ODA cam kết viện trợ:
14.555.406 EUR, trong đó EU đóng góp 13.855.406 EUR và UN đóng góp 700.000 EUR.
+ Vốn đối ứng của phía Việt Nam: 1.100.000 EUR bằng tiền mặt và 300.000 EUR giá trị tài sản.
2. Kết quả triển khai công tác quản lý, điều hành Dự án
Về cơ chế quản lý và phương thức hỗ trợ
Theo Văn kiện Dự án, Dự án EU JULE áp dụng hai cơ chế quản lý đối với hai phương thức hỗ trợ cho hai hợp phần khác nhau, trong đó với Hợp phần PAGODA dành cho các cơ quan nhà nước của Việt Nam, EU thực hiện phương thức hỗ trợ gián tiếp thông qua các cơ quan của Liên Hợp quốc (ban đầu là UNDP, UNICEF và UNODC sau là UNDP và UNICEF) và với Hợp phần JIFF dành cho các tổ chức đủ điều kiện theo Văn kiện Dự án để thực hiện các sáng kiến tư pháp, EU thực hiện phương thức hỗ trợ trực tiếp thông qua Quỹ Thúc đẩy sáng kiến tư pháp (gọi tắt là JIFF) mà tổ chức OXFAM Việt Nam được EU lựa chọn là đơn vị quản lý Quỹ qua cơ chế đấu thầu theo quy định của EU. Cả hai phương thức hỗ trợ này đều thực hiện các hoạt động tại 4 kết quả chính của Dự án nhằm góp phần thực hiện thành công các mục tiêu đã đề ra trong Dự án.
Thực tế triển khai Dự án EU JULE cho thấy việc sử dụng đồng thời hai phương thức hỗ trợ trong cùng 1 dự án với hai nhóm đối tượng thực hiện khác nhau không ảnh hướng đến chất lượng và tiến độ thực hiện Dự án, giúp cho cả hai hợp phần của Dự án được vận hành đúng tiến độ. Việc lựa chọn áp dụng hai phương thức hỗ trợ như Dự án EU JULE là lựa chọn phù hợp trong quá trình đàm phán Dự án. Mặc dù vậy, việc sử dụng phương thức hỗ trợ trực tiếp cũng đã đối mặt với những khó khăn nhất định, trong đó có vấn đề hoàn thuế giá trị gia tăng cho các hoạt động do các tổ chức đủ điều kiện thực hiện trong khuôn khổ các sáng kiến nhận tài trợ từ Quỹ JIFF. Hệ quả là việc hoàn thuế đã không thể thực hiện được và tại Phiên họp lần thứ 4 của Ban Chỉ đạo, EU đã đồng ý đó là các chi phí hợp lý, không yêu cầu các tổ chức hoàn thuế VAT để trả lại ngân sách tài trợ.
Về mô hình quản lý dự án
Dự án EU JULE sử dụng thống nhất một mô hình quản lý dự án như sau:
Thành lập một Ban Chỉ đạo Dự án do Thứ trưởng Bộ Tư pháp và Đại sứ Phái đoàn liên minh châu Âu tại Việt Nam là đồng Trưởng Ban, hoạt động trên nguyên tắc đồng thuận, để chỉ đạo chung đối với cả hai hợp phần PAGODA và JIFF.
Ban Quản lý Dự án của Bộ Tư pháp có trách nhiệm giúp việc Ban Chỉ đạo Dự án và giúp Bộ Tư pháp trong việc quản lý và điều phối hoạt động của Dự án theo quy định pháp luật Việt Nam.
Dưới Ban Chỉ đạo, để tổ chức thực hiện Dự án, đối với hợp phần PAGODA, cơ quan chịu trách nhiệm tổng thể trong việc quản lý triển khai được giao cho UNDP thay mặt nhà tài trợ và Bộ Tư pháp – đại diện cho các cơ quan Việt Nam. Đối với hợp phần JIFF, đơn vị chịu trách nhiệm quản lý triển khai được EU lựa chọn là OXFAM – Việt Nam với tư cách là Ban Thư ký Quỹ JIFF. Ngoài ra, trong hợp phần JIFF, một Ban xét duyệt tài trợ gồm 3 chuyên gia độc lập (01 chuyên gia do Bộ Tư pháp đề xuất và 2 chuyên gia do EU đề xuất) hoạt động trên nguyên tắc đồng thuận có thẩm quyền đánh giá và lựa chọn các hồ sơ thầu trên cơ sở Bảng tiêu chí xét duyệt tài trợ do Ban chỉ đạo thông qua, tập hợp danh sách các hồ sơ được lựa chọn báo cáo Ban Thư ký Quỹ JIFF trình Ban Chỉ đạo dự án để xem xét và thông qua tài trợ. Việc quản lý các hoạt động trong khuôn khổ hợp phần JIFF tuân thủ các quy định của EU và không được trái các quy định của pháp luật Việt Nam.
Mô hình quản lý này đã được thực hiện nghiêm túc trên thực tế và giúp phát huy tốt vai trò của cả hai phía Việt Nam và EU trong việc quyết định các định hướng triển khai thực hiện Dự án cũng như thông qua kế hoach hoạt động hàng năm và xử lý các vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện. Nguyên tắc quốc gia làm chủ được đảm bảo tuân thủ trong Dự án EU JULE với việc áp dụng mô hình quản lý như vừa nêu trên. Tất cả các vấn đề lớn của Dự án đều được Ban Chỉ đạo Dự án quyết định thông qua cơ chế đồng thuận.
Các thiết chế tham gia vào mô hình quản lý Dự án EU JULE bao gồm: Ban Chỉ đạo, Ban Quản lý dự án của Bộ Tư pháp, UNDP/UNICEF, Ban Thư ký Quỹ JIFF về cơ bản đã thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được xác định trong Văn kiện Dự án. Dự án được thực hiện trong gần 6 năm với 6 lần tổ chức họp Ban Chỉ đạo dự án và nhiều lần Ban Chỉ đạo cho ý kiến bằng văn bản với các hình thức trao đổi khá linh hoạt từ họp trực tiếp, trao đổi qua thư điện tử, liên hệ điện thoại, đảm bảo vai trò quyết định đối với tất cả các vấn đề thuộc thẩm quyền đã xác định trong Văn kiện dự án. UNDP/UNICEF và Ban Thư ký Quỹ JIFF trong phạm vi chức năng đã phối hợp ngày càng hiệu quả với Ban Quản lý dự án để vận hành, quản lý các hoạt động trong Kế hoạch hàng năm đã được Ban Chỉ đạo dự án phê duyệt và phối hợp xử lý các vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai thực hiện Dự án trên tinh thần kịp thời, thiện chí và tuân thủ các nguyên tắc của dự án. Ba thiết chế này thực hiện chế độ họp/làm việc/cung cấp thông tin định kỳ hàng tháng, hàng quý và đột xuất khi có sự việc phát sinh. Mặc dù vậy, quá trình phối hợp giữa các bên cũng có nơi, có lúc còn chưa thực sự nhuần nhuyễn và thấu hiểu lẫn nhau, nhất là thời gian đầu khi Dự án mới được triển khai.
Ban Quản lý dự án của Bộ Tư pháp đã hoàn thành vai trò của cơ quan giúp việc Ban Chỉ đạo và giúp Bộ Tư pháp trong quản lý và điều phối hoạt động của Dự án theo quy định pháp luật Việt Nam. Tất cả các nội dung trình lên Ban Chỉ đạo Dự án trong suốt gần 6 năm qua đều được thực hiện thông qua Ban Quản lý dự án của Bộ Tư pháp, trong đó Ban Quản lý đảm bảo tổng hợp thông tin đầy đủ, có phân tích, đánh giá và đề xuất phương án để Ban Chỉ đạo xem xét, quyết định. Vai trò giám sát hoạt động của Dự án cũng được Ban Quản lý dự án quan tâm thực hiện. Tuy nhiên, do nhân lực còn nhiều hạn chế, Ban Quản lý dự án của Bộ Tư pháp nhiều khi đã bị quá tải công việc, dẫn đến có trường hợp chưa kịp thời xử lý một số nhiệm vụ thuộc thẩm quyền.
3. Kết quả triển khai hoạt động
3.1. Đối với Hợp phần PAGODA
Đánh giá theo mức độ triển khai các kết quả chính của Dự án:
- Kết quả 1: Nâng cao nhận thức và hiểu biết của người dân về quyền và cách thức thực hiện các quyền phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam
Trong khuôn khổ kết quả 1, đã có 79 hoạt động được triển khai và hoàn thành, các hoạt động này đã hỗ trợ triển khai khảo sát về thực trạng nhận thức và hiểu biết pháp luật của các nhóm đối tượng yếu thế, tập trung vào thực trạng hiểu biết pháp luật của phụ nữ, trẻ em, người dân tộc thiểu số và người nghèo tại 6 địa phương (Hà Giang, Hòa Bình, Thanh Hóa, Đắk Nông, Kiên Giang, Đồng Tháp) với hai nhóm người dân (xác định cầu) và nhóm báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật (xác định cung)
[1]. Kết quả khảo sát
[2] là cơ sở để đưa ra các phát hiện và khuyến nghị cho các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cũng như nâng cao năng lực cho đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật và được thực hiện bởi các hoạt động trong những năm tiếp theo của Dự án. Trong kết quả 1 của Dự án đã đạt được một số kết quả đáng chú ý như sau:
Về hoàn thiện khung khổ chính sách, pháp luật: Dự án hỗ trợ Bộ Tư pháp nghiên cứu về sự cần thiết và các chuyên đề về nội dung của Chương trình/Chiến lược về nâng cao nhận thức pháp luật của người dân và nhóm yếu thế; Kết quả nghiên cứu về phương pháp, cách thức đo lường, đánh giá hiệu quả công tác phổ biến giáo dục pháp luật đã đóng góp cho việc xây dựng Đề án "Thí điểm đổi mới hoạt động đánh giá hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật”.
Nâng cao chất lượng phổ biến, giáo dục pháp luật: Để nâng cao năng lực cho đội ngũ báo cáo viên pháp luật, Dự án hỗ trợ xây dựng Bộ tài liệu nâng cao kỹ năng phổ biến pháp luật để triển khai thực hiện Quyết định số 3147/QĐ-BTP ngày 28/12/2018 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Chương trình khung bồi dưỡng nghiệp vụ đối với báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật
[3]. Bộ tài liệu đã được thí điểm tại 7 lớp tập huấn trực tiếp và trực tuyến với sự tham gia của 228 báo cáo viên cấp tỉnh (117 nữ, 111 nam), từ đó hoàn thiện để chia sẻ với các bộ, ngành, địa phương. Trong năm 2023-2024, bộ tài liệu đã được sử dụng tập huấn cho báo cáo viên pháp luật của tỉnh Lai Châu, Phú Thọ và Quảng Trị với sự tham gia của 322 báo cáo viên cấp tỉnh, huyện (174 nam, 158 nữ). Dự án cũng hỗ trợ xây dựng Tài liệu quy trình cơ bản phổ biến, giáo dục pháp luật ở cấp cơ sở để hướng dẫn các công chức ở cấp cơ sở trong việc lập kế hoạch, tổ chức thực hiện và theo dõi, đánh giá hoạt động PBGDPL tại địa phương.
Dự án cũng hỗ trợ việc xây dựng Kế hoạch truyền thông, phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm tăng cường bảo vệ phụ nữ, trẻ em khỏi bạo lực trên cơ sở giới. Áp dụng phương pháp tiếp cận liên ngành, Dự án hỗ trợ biên soạn 02 cuốn sổ tay dành cho tuyên truyền viên pháp luật nhằm tăng cường phòng, chống tảo hôn và hôn nhân cận huyết. Trên cơ sở đó, nhiều hoạt động tập huấn cho tuyên truyền viên pháp luật và tuyên truyền trực tiếp tại các địa phương đã được thực hiện nhằm nâng cao nhận thức về phòng chống tảo hôn, hôn nhân cận huyết cho người uy tín trong cộng đồng, người chưa thành niên và cha mẹ đã được Dự án hỗ trợ thực hiện. Nhiều tài liệu truyền thông nhằm nâng cao nhận thức pháp luật về phòng chống vi phạm pháp luật trong lứa tuổi chưa thành niên và xâm hại trẻ em, kể cả trên môi trường mạng, đã được biên soạn và phổ biến rộng rãi cho trẻ em, cha mẹ, và người dân.
Để tăng cường kiến thức pháp luật và kỹ năng phổ biến pháp luật trong một số lĩnh vực pháp luật mà người dân quan tâm, Dự án đã hỗ trợ xây dựng các tài liệu
[4] và tổ chức tập huấn cho công chức, báo cáo viên pháp luật của các bộ, ngành, địa phương
[5], hỗ trợ xây dựng tài liệu và tổ chức tập huấn thí điểm về nhiều chủ đề pháp luật
[6]. Tính đến 26/5/2024, đã có khoảng 2484 lượt báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật (1173 nam, 1311 nữ) được tập huấn về kỹ năng phổ biến giáo dục pháp luật nói chung và kỹ năng phổ biến pháp luật trong các lĩnh vực, chủ đề pháp luật cụ thể. Trong khuôn khổ các hoạt động của Dự án,
5,398,111 phụ nữ và trẻ em gái tiếp nhận các thông tin phòng chống bạo lực trên cơ sở giới;
176,754 người chưa thành niên, cha mẹ và người dân được trang bị kiến thức về bảo vệ trẻ em, phụ nữ khỏi các hình thức bạo lực.
- Kết quả 2: Tăng cường tiếp cận các hình thức tư vấn, hỗ trợ pháp lý và đại diện bào chữa đối với các vụ việc dân sự và hình sự
Đã có 135 hoạt động được phê duyệt và thực hiện xong trong khuôn khổ kết quả 2 của Dự án. Các hoạt động này tập trung vào hỗ trợ người dân nói chung, các nhóm yếu thế như phụ nữ, trẻ em, người dân tộc thiểu số và người nghèo nói riêng tiếp cận với các các dịch vụ trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật có chất lượng và hiệu quả, hỗ trợ các cơ quan của Việt Nam nâng cao chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý thông qua việc đánh giá thực trạng và nhu cầu nâng cao năng lực của những người thực hiện trợ giúp pháp lý, từ đó triển khai các hỗ trợ để tăng cường năng lực của đội ngũ trợ giúp viên pháp lý và người thực hiện trợ giúp pháp lý trên cơ sở kết quả đánh giá nhu cầu và bảo đảm phù hợp với các nguyên tắc và Hướng dẫn của Liên hợp quốc về tiếp cận trợ giúp pháp lý. Một số kết quả nổi bật như sau:
Xây dựng Tài liệu hướng dẫn đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý; Hướng dẫn trợ giúp pháp lý thân thiện với người chưa thành niên; nghiên cứu, tìm hiểu kinh nghiệm quốc tế và các hoạt động tham vấn rộng rãi để cung cấp thông tin tham khảo cho việc xây dựng Chương trình phối hợp số 1603/CTPH-BTP-TANDTC ngày 19 tháng 5 năm 2022 giữa Bộ Tư pháp và Tòa án nhân dân tối cao về người thực hiện trợ giúp pháp lý trực tại tòa án nhân dân, Chương trình phối hợp số 5789/CTPH-BTP-BCA giữa Bộ Tư pháp và Bộ Công an phối hợp trực trợ giúp pháp lý trong điều tra hình sự với mục tiêu tăng cường tiếp cận trợ giúp pháp lý kịp thời và chất lượng cho người chưa thành niên và các đối tượng yếu thế khác, góp phần quan trọng trong việc triển khai thực hiện Luật trợ giúp pháp lý và Đề án đổi mới công tác trợ giúp pháp lý giai đoạn 2015-2025 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; hỗ trợ tăng cường năng lực cho đội ngũ tư vấn pháp luật hướng tới việc cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật tốt hơn cho người dân; xây dựng Hướng dẫn trợ giúp pháp lý thân thiện với người chưa thành niên. Trong hơn 5 năm qua, đã có 1148 người thực hiện trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật (556 nam, 592 nữ) được trang bị kiến thức, kỹ năng trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật cho các nhóm yếu thế.
Đánh giá thực trạng cơ chế giải quyết tranh chấp tại cơ sở tại Hà Giang, Đắk Lắk và Kiên Giang
[7], hỗ trợ xây dựng bộ tài liệu Bình đẳng giới trong hòa giải ở cơ sở
[8] và sử dụng để tập huấn cho các báo cáo viên, tập huấn viên cấp tỉnh, cấp huyện và hòa giải viên; biên soạn Sổ tay về bình đẳng giới trong hòa giải ở cơ sở
[9] nhằm cung cấp kiến thức cơ bản về giới, bình đẳng giới và kỹ năng hòa giải bảo đảm bình đẳng giới cho các hòa giải viên cơ sở; nghiên cứu, đánh giá việc thực hiện thí điểm mô hình hòa giải bên cạnh Tòa án và kinh nghiệm quốc tế về hòa giải bên cạnh Tòa án
[10]; hỗ trợ Tòa án nhân dân tối cao đánh giá việc thực hiện thí điểm mô hình hòa giải bên cạnh Tòa án, nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về hòa giải bên cạnh Tòa án phục vụ cho việc xây dựng Luật Hòa giải và đối thoại tại Tòa án; hỗ trợ các hoạt động phổ biến Luật Hòa giải, đối thoại tại tòa án cho hòa giải viên, xây dựng Sổ tay nghiệp vụ, kỹ năng về hòa giải, đối thoại tại Tòa án, Quy chế hòa giải, đối thoại tại Tòa án nhằm góp phần đưa các quy định của Luật nhanh chóng đi vào cuộc sống.
Dự án cũng đã hỗ trợ các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thực hiện các hoạt động hỗ trợ bảo vệ và trợ giúp nạn nhân bị bạo lực trên cơ sở giới và trẻ em bị xâm phạm
[11]; đào tạo đội ngũ cán bộ thực thi pháp luật, cán bộ tư pháp hình sự và cán bộ các cơ quan có liên quan nhằm đáp ứng nhu cầu của các nạn nhân bị bạo lực trên cơ sở giới và trẻ em bị lạm dụng
[12]; hỗ trợ tư vấn và thông tin pháp luật cho người bị tạm giữ, tạm giam
[13];
Đối với việc hoàn thiện và thực thi pháp luật về tư pháp cho người chưa thành niên, Dự án đã hỗ trợ quá trình hình thành Tòa gia đình và Người chưa thành niên tại 2 Tòa cấp cao và 38 Tòa án cấp tỉnh, phân công thẩm phán chuyên trách ở 9 tòa án cấp huyện, mang lại lợi ích cho hơn 12,500 người chưa thành niên, 3 Chương trình đào tạo về tư pháp chưa thành niên được nghiệm thu bởi Học viện tòa án, 126 thẩm phán được nâng cao năng lực; 15,000 thẩm phán và cán bộ tòa án được trang bị kiến thức nhạy cảm với bạo lực trẻ em. Dự án đã cung cấp các trang thiết bị cho Tòa gia đình và người chưa thành niên của thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Đồng Tháp, hướng dẫn sử dụng các trang thiết bị của Tòa gia đình và người chưa thành niên và nghiên cứu đánh giá tiến trình hình thành và hoạt động của Tòa gia đình và người chưa thành niên.
Để tăng cường, nâng cao năng lực bền vững và chuyên sâu về tư pháp người chưa thành niên, Dự án đã hỗ trợ việc đưa môn Tư pháp người chưa thành niên vào chương trình đào tạo dành cho sinh viên bậc đại học của Trường Đại học Luật Hà Nội với khoảng 1920 sinh viên Trường Đại học Luật Hà Nội đã được cấp tín chỉ hoàn thành môn học này; đưa 02 học phần tư pháp người chưa thành niên được đưa vào Chương trình khung đào tạo nghề luật sư của Học viện Tư pháp. Hỗ trợ của Dự án EU JULE cũng thúc đẩy việc xây dựng năng lực về điều tra thân thiện với người chưa thành niên và nhạy cảm giới, thông qua việc hình thành một phòng điều tra thân thiện với người chưa thành niên tại Học viện Cảnh sát nhân dân. Riêng trong 2023, 550 sinh viên của Học viện Cảnh sát nhân dân, 61 điều tra viên và cán bộ điều tra được đã thực hành kỹ năng lấy lời khai thân thiện.
Trong khuôn khổ của Dự án EU JULE cũng thúc đẩy việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động nâng cao năng lực thông qua việc hỗ trợ khóa học trực tuyến về lồng ghép giới và bạo lực trên cơ sở giới của Ban vì sự tiến bộ phụ nữ ngành tư pháp, thu hút hơn 1.600 người tham gia và được cấp chứng nhận hoàn thành khóa học trong vòng sáu tháng sau khi ra mắt khóa học. Tiếp nối thành công này, Dự án đã hỗ trợ Trường Đại học Luật Hà Nội biên soạn Học liệu trực tuyến về các chuẩn mực quốc tế về tư pháp người chưa thành niên của Trường Đại học Luật Hà Nội, mới được ra mắt giữa tháng 5 vừa qua.
- Kết quả 3: Hoàn thiện khung pháp luật và các văn bản hướng dẫn thi hành về tăng cường khả năng thực hiện quyền và tiếp cận công lý, phù hợp với Hiến pháp 2013 và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên
Trong phạm vi kết quả 3 đã có 71 hoạt động được phê duyệt và hoàn thành, tập trung vào việc hỗ trợ các cơ quan của Việt Nam tổng kết việc thi hành các văn bản luật nhằm cung cấp các luận cứ cho việc hoàn thiện và thực thi pháp luật tốt hơn với một số kết quả đáng chú ý như Dự án hỗ trợ thực hiện các nghiên cứu các chuẩn mực quốc tế, tổ chức các hội thảo tìm hiểu các điển hình tốt trên thế giới để cung cấp thông tin tham khảo cho việc ban hành 05 văn bản dưới luật nhằm hướng dẫn xét xử và phối hợp giải quyết các vụ án có liên quan tới người chưa thành niên; hoàn thiện hệ thống thu thập, quản lý và báo cáo dữ liệu liên quan đến người chưa thành niên là người bị hại, bị can, bị cáo trong các vụ án hình sự
[14]; hỗ trợ việc thực thi và báo cáo thực hiện các Công ước quốc tế cơ bản về quyền con người
[15]; hỗ trợ tổ công tác tổng kết thi thành pháp luật trong các lĩnh vực như hộ tịch, luật sư, lý lịch tư pháp và xóa án tích, tổ chức tòa án, tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, tổ chức thi hành pháp luật, xử lý vi phạm hành chính, thống kê tư pháp và thực hiện 26 nghiên cứu chuyên đề về các lĩnh vực pháp luật nhằm cung cấp thông tin, luận cứ cho các cơ quan xây dựng pháp luật
[16].
Dự án cũng đã hỗ trợ Bộ Tư pháp và các cơ quan của Việt Nam tổ chức 6 Diễn đàn pháp luật và 7 Phiên thảo luận về hoàn thiện và thực thi pháp luật theo chuyên đề với nhiều chủ đề khác nhau
[17] nhằm cập nhật các quy định của pháp luật Việt Nam cũng như các kết quả đạt được trong những lĩnh vực này; nhận diện các khó khăn, vướng mắc cũng như đề xuất các giải pháp để bảo đảm việc thực hiện hiệu quả các quy định pháp luật có liên quan. Việc chia sẻ thông tin không chỉ là cách thức cung cấp các thông tin chính thức về tình hình pháp luật và thực thi pháp luật của Việt Nam mà còn là cơ hội để các cơ quan, tổ chức Việt Nam và đối tác quốc tế hiểu hơn về các mối quan tâm chung, từ đó tạo cơ sở cho các hoạt động hợp tác trong thời gian tới.
- Kết quả 4: Tăng cường tính liêm chính và minh bạch trong ngành tư pháp
Kết quả 4 bao gồm 37 hoạt động đã được phê duyệt và đều đã hoàn thành, trong đó tập trung vào việc hỗ trợ các nghiên cứu liên quan đến việc xây dựng các bộ quy tắc đạo đức nghề nghiệp của các chức danh tư pháp, phát triển khả năng áp dụng án lệ trong hệ thống luật pháp của Việt Nam; hỗ trợ một số cơ quan thực hiện các nghiên cứu chuyên đề về tăng cường liêm chính, minh bạch của hệ thống tư pháp
[18] để cung cấp thông tin hữu ích cho các nhà hoạch định chính sách trong việc tăng cường tính liêm chính, minh bạch của các cơ quan tư pháp. Một số kết quả nổi bật như xây dựng và thực hiện các bộ quy tắc đạo đức, ứng xử, nâng cao năng lực của các chức danh tư pháp
[19]; hỗ trợ Tòa án nhân dân tối cao trong việc thực hiện Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử của thẩm phán
[20]; phối hợp cùng Đại học kiểm sát xây dựng Tài liệu tập huấn chuyên sâu về kỹ năng tranh tụng cho kiểm sát viên và cán bộ của Viện kiểm sát, Tài liệu tập huấn các kỹ năng tranh tụng cơ bản cho sinh viên Đại học kiểm sát.
Ngoài ra, Dự án còn phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao tổng kết, đánh giá kết quả áp dụng án lệ trong thực tiễn xét xử tại các tòa án nhân dân, hỗ trợ các hội thảo chuyên đề thảo luận về các đề xuất án lệ
[21]; hỗ trợ Bộ Tư pháp khảo sát, đánh giá chất lượng dịch vụ công thuộc lĩnh vực quản lý của Bộ Tư pháp, từ đó xây dựng Tài liệu hướng dẫn phân tích thống kê và đánh giá kết quả thực hiện dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, tập trung vào lĩnh vực hòa giải ở cơ sở, trợ giúp pháp lý, hộ tịch, lý lịch tư pháp
[22].
Đánh giá khái quát có thể thấy rằng mặc dù có những khó khăn, thách thức nhất định, đặc biệt trong bối cảnh đại dịch covid 19 nhưng toàn bộ các hoạt động của hợp phần Pagoda đã được hoàn thành với sự tham gia của 45 đơn vị, tổ chức tham gia thực hiện các hoạt động, đây là những hỗ trợ mang tính kỹ thuật, bổ sung nguồn lực cho các cơ quan, đơn vị, tổ chức của Việt Nam để triển khai các nhiệm vụ theo chức năng, nhiệm vụ; dự án đã có những đóng góp tích cực vào việc tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, người thực hiện trợ giúp pháp lý, xây dựng và hình thành nên các bộ công cụ, tài liệu tập huấn, giáo trình, cách thức phổ biến pháp luật với phương pháp tiếp cận mới nhằm nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng, tiếp cận pháp luật qua đó thu hút được đông đảo người dân tham gia, nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật của người dân và một số nhóm đối tượng yếu thế; dự án cũng hỗ trợ nâng cao năng lực cho các cơ quan Việt Nam trong việc thực hiện một số công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên.
Đánh giá về kết quả theo thống kê số liệu: Với 322 hoạt động và 45 đơn vị, tổ chức tham gia thực hiện, Dự án đã thu hút được số lượng tương đối lớn người dân tham gia. Tính đến ngày 26/5/2024, đã có
5,398,111 phụ nữ và trẻ em gái tiếp nhận các thông tin phòng chống bạo lực trên cơ sở giới;
176,754 người chưa thành niên, cha mẹ và người dân được trang bị kiến thức về bảo vệ trẻ em, phụ nữ khỏi các hình thức bạo lực;
15,462 lượt cán bộ pháp luật, người thực hành nghề luật, thẩm phán đã được tập huấn dưới hình thức trực tiếp hoặc trực tuyến
[23];
3,256 lượt sinh viên luật được đào tạo về tư pháp cho trẻ em và nhạy cảm giới;
12,500 người chưa thành niên tiếp cận các thủ tục tố tụng tư pháp thân thiện với trẻ em; cung cấp hỗ trợ kỹ thuật, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế để hoàn thiện 5 văn bản pháp luật nhằm thúc đẩy tư pháp cho trẻ em, tổng kết, đánh giá 7 văn bản pháp luật và thực hiện 26 nghiên cứu về các chủ đề pháp luật thuộc phạm vi các kết quả đầu ra của Dự án;
Trong khuôn khổ Dự án đã có
6 Diễn đàn pháp luật,
7 Phiên thảo luận pháp luật đã được tổ chức; 76 đề xuất án lệ được trao đổi, thảo luận để đề xuất thành án lệ.
3.2. Đối với Hợp phần EU JULE - JIFF
Tình hình thực hiện các hoạt động quản lý của Quỹ JIFF và các đợt kêu gọi tài trợ
- Các hoạt động quản lý Quỹ JIFF do Oxfam (tổ chức trúng thầu quản lý) đã được triển khai theo phạm vi các hoạt động của Văn kiện dự án với những kết quả chính như sau:
Năm 2018, Ban Thư ký Quỹ JIFF đã triển khai hoạt động khảo sát, đánh giá nhu cầu và đề xuất chủ đề cho các đợt kêu gọi tài trợ với Ban chỉ đạo Dự án. Trên cơ sở phê duyệt của Ban chỉ đạo, Ban Thư ký Quỹ JIFF đã tổ chức 04 đợt kêu gọi tài trợ, tổng hợp, gửi Ban xét duyệt tài trợ lựa chọn và trình Ban chỉ đạo phê duyệt cấp tài trợ cho các tổ chức đủ điều kiện theo quy định của Văn kiện dự án. Ban Thư ký Quỹ JIFF đã thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính đối với các khoản tài trợ dành cho 62 tổ chức đủ điều kiện thông qua việc phê duyệt, theo dõi thực hiện Kế hoạch năm, quý của các sáng kiến; hướng dẫn, tập huấn về quản lý dự án và quản lý tài chính dự án; giám sát (bao gồm giám sát thực địa) các khoản tài trợ nhằm đảm bảo quản lý chặt chẽ hoạt động và tài chính; cung cấp các hỗ trợ cần thiết cho các tổ chức được cấp tài trợ về kiến thức, kỹ năng và nhận thức về một số lĩnh vực liên quan như truyền thông, nghiên cứu, khảo sát, tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, kỹ năng góp ý văn bản QPPL, lồng ghép và bảo đảm bình đẳng giới của tổ chức và trong thực hiện các hoạt động dự án đã được phê duyệt;
+ Triển khai một số hoạt động liên quan đến tăng cường năng lực, hỗ trợ kỹ thuật cho các tổ chức nhận tài trợ (vấn đề chung đối với một số tổ chức nhận tài trợ) nhằm bảo đảm hiệu quả thực hiện khoản hỗ trợ như đánh giá năng lực, tư vấn trực tiếp, tổ chức chia sẻ kinh nghiệm giữa các tổ chức thực hiện các sáng kiến.
- Tình hình triển khai thực hiện các đợt kêu gọi tài trợ trong khuôn khổ Hợp phần JIFF: trong tổng số 283 sáng kiến được gửi về qua 4 lần kêu gọi nộp hồ sơ thì có 62 sáng kiến được phê duyệt tài trợ. Các tổ chức được nhận tài trợ bao gồm:
| STT |
Mô hình |
Đợt 1 |
Đợt 2 |
Đợt 3 |
Đợt 4 |
Tổng |
| 1 |
Hội/Liên hiệp Hội/Liên minh HTX |
4 |
7 |
6 |
5 |
22 |
| 2 |
Quỹ |
1 |
1 |
|
2 |
4 |
| 3 |
Viện |
|
|
|
2 |
2 |
| 4 |
Trường đại học và đơn vị trực thuộc (trung tâm/viện) |
2 |
|
6 |
1 |
9 |
| 5 |
Trung tâm, Tổ chức Khoa học và Công nghệ |
7 |
11 |
|
7 |
25 |
| |
Tổng |
14 |
19 |
12 |
17 |
62 |
Một số kết quả đầu ra chính: Mặc dù chịu ảnh hưởng không nhỏ của đại dịch COVID 19 và các yếu tố khách quan cũng như chủ quan khác, các sáng kiến từ bốn đợt tài trợ (Call 1,2,3,4) đã tạo ra những kết quả đáng khích lệ, cụ thể như sau:
- Kết quả 1: Tăng cường sự tham gia của các tổ chức đủ điều kiện trong việc nâng cao nhận thức pháp luật cho các nhóm dễ tổn thương như phụ nữ, trẻ em, người dân tộc thiểu số và người nghèo
Tính đến tháng 5/2024 đã có 257.012 người dân
[24] được tập huấn nâng cao nhận thức về quyền và cách thức thực hiện quyền của mình được thể hiện trong các chính sách và văn bản quy phạm pháp luật liên quan ở cấp tỉnh và cấp trung ương tương ứng với chủ đề của từng đợt tài trợ. Chi tiết kết quả của từng đợt tài trợ được trình bày ở bảng dưới đây.
| Stt |
Chủ đề |
Số người |
| Đợt 1 |
Bình đẳng giới và gia đình |
35.072 |
| Đợt 2 |
Lĩnh vực lao động, việc làm và thực thi thủ tục hành chính trong lĩnh vực y tế, giáo dục |
86.704
|
| Đợt 3 |
Bảo vệ Môi trường |
25.695 |
| Đợt 4 |
Tăng cường tiếp cận pháp luật và tư pháp cho các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương |
109.541 |
| |
Tổng |
257.012 |
Các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật được thực hiện với nhiều phương pháp đa dạng như cuộc thi tìm hiểu pháp luật, sân khấu hóa, tuyên truyền nhóm lớn/nhóm nhỏ… Nhiều hoạt động đã thực hiện ứng dụng công nghệ, thông tin và truyền thông như xây dựng các ứng dụng, website, kênh youtube, mạng xã hội, đài truyền thanh, truyền hình…để có thể đưa tốt nhất kiến thức pháp luật đến với những người yếu thế trong xã hội.
- Kết quả 2: Hỗ trợ sáng kiến của các tổ chức đủ điều kiện trong việc thực hiện các hoạt động tư vấn pháp luật, hỗ trợ pháp lý và đại diện bào chữa cho các nhóm đối tượng yếu thế, đặc biệt là phụ nữ, trẻ em, đồng bào dân tộc thiểu số và người nghèo.
Tính đến tháng 5/2024 đã có
14.784 người dân
[25] được tiếp cận các dịch vụ pháp lý như tư vấn pháp luật, hỗ trợ pháp lý. Trong đó:
| |
Chủ đề |
Số người |
| Đợt 1 |
Bình đẳng giới và gia đình |
4.644 |
| Đợt 2 |
Lĩnh vực lao động, việc làm và thực thi thủ tục hành chính trong lĩnh vực y tế, giáo dục |
3.837 |
| Đợt 3 |
Bảo vệ Môi trường |
2.491 |
| Đợt 4 |
Tăng cường tiếp cận pháp luật và tư pháp cho các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương |
3.812 |
| |
Tổng |
14.784 |
Các hoạt động tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý được các đơn vị phối hợp với các đơn vị/cá nhân có chức năng chuyên môn theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý và Nghị định số 77/2008/NĐ-CP như: Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, các văn phòng luật sư, các luật sư hành nghề với tư cách cá nhân, văn phòng tư vấn luật.
- Kết quả 3: Hỗ trợ cho các tổ chức đủ điều kiện trong việc tham gia xây dựng chính sách liên quan đến tăng cường năng lực thực hiện quyền và tiếp cận công lý trên cơ sở các nghiên cứu đánh giá.
Có tổng số đóng góp hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật ở cấp địa phương và trung ương. Một số kiến nghị đã được các địa phương ghi nhận, đưa chương trình giáo dục môi trường vào thực hiện trên toàn tỉnh/huyện như tuyên truyền bảo vệ môi trường cho các em học sinh do Trường Đại học An Giang, Trường Đại học Công Nghiệp thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm tư vấn Pháp luật thuộc Đại học Vinh thực hiện; ý kiến góp ý cho Hội Nông dân về kế hoạch triển khai Luật thực hiện dân chủ ở cơ sở trong hệ thống hội nông dân huyện năm 2024 do Quỹ Phát triển Nông thôn và Giảm nghèo huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình thực hiện; ý kiến góp ý của Trung tâm Phát triển cộng đồng tỉnh Quảng Bình cho UBMTTQVN huyện Lệ Thủy khuyến nghị nhằm thúc đẩy mở rộng tiến trình thực hiện luật dân chủ ở cơ sở tới các nhóm dễ bị tổn thương, đặc biệt là phụ nữ trẻ em, người khuyết tật, nghèo/ cận nghèo;
Một số cơ chế làm việc liên ngành trong tỉnh đã được thiết lập để bảo vệ trẻ em như sáng kiến của Trung tâm Nghiên cứu Sáng kiến Phát triển Cộng đồng (RIC) tỉnh Hòa Bình, Hội vì sự phát triển của người khuyết tật tỉnh Quảng Bình (AEDP) tại Quảng Bình, Trung tâm tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý cho người nghèo người dân tộc thiểu số tại tỉnh Hòa Bình (HBLCC) tại Hòa Bình tham gia đóng góp ý kiến vào Luật Khám bệnh và chữa bệnh (do Trung tâm Nghiên cứu Giáo dục Người khiếm thính thực hiện).
[1] Việc tiến hành cùng thời gian, cùng địa bàn giúp xác định các khoảng trống giữa cung (năng lực của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật) – cầu (nhu cầu của người dân).
[2] Trên cơ sở phân tích 1800 bảng hỏi, 238 cuộc phỏng vấn đối với người dân, 1820 bảng hỏi, 206 cuộc phỏng vấn với báo cáo viên, tuyên truyên viên pháp luật.
[3] Bộ tài liệu gồm hai nội dung chính là kiến thức và kỹ năng, nghiệp vụ phổ biến pháp luật, đáp ứng yêu cầu chuẩn hóa chương trình, nội dung, tài liệu bồi dưỡng làm cơ sở để Bộ, ngành, đoàn thể, địa phương tham khảo, áp dụng trong quá trình tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ đối với báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật thuộc phạm vi quản lý, góp phần nâng cao năng lực, chất lượng đội ngũ báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật đáp ứng yêu cầu đổi mới, tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
[4] Dự án đã hỗ trợ Bộ Tư pháp, Bộ Lao động, Thương binh – Xã hội, Hội Luật gia Việt Nam biên soạn và phát hành gần 30 tài liệu truyền thông dưới dạng sổ tay, audio, tờ rơi, truyện tranh, video, áp phích về các chủ đề quyền trong lĩnh vực lao động của người khuyết tật, trẻ em, phụ nữ và giúp việc gia đình; xâm hại, bóc lột trong đó có hủ tục tảo hôn, hôn nhân cận huyết, lao động trẻ em và mua bán người, hiểu biết về quyền trẻ em, kỉ luật tích cực và các địa chỉ liên hệ khi cần hỗ trợ, giới thiệu bộ pháp điển và cách thức sử dụng bộ pháp điển, lý lịch tư pháp và xóa án tích…. Các tài liệu truyền thông được thiết kế với ngôn ngữ và hình ảnh thân thiện, đơn giản, dễ hiểu, dễ tiếp cận.
[5] Như: tài liệu về mô hình phổ biến giáo dục pháp luật tại địa phương; tài liệu về phương pháp, kỹ năng lấy ý kiến tham vấn công chúng, phản biện xã hội trong hoạt động xây dựng pháp luật; lồng ghép giới trong xây dựng pháp luật; nghiệp vụ đăng ký hộ tịch, giải quyết các vấn đề quốc tịch cho nhóm dễ bị tổn thương; nghiệp vụ giải quyết bồi thường nhà nước; kỹ năng nghiệp vụ hướng dẫn, hỗ trợ cá nhân, tổ chức bị thiệt hại thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường; bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và đăng ký biện pháp bảo đảm nhằm nâng cao nhận thức pháp luật và tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng cho phụ nữ nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số; kỹ năng khai thác, sử dụng và xây dựng, cập nhật Bộ pháp điển; kỹ năng PBGDPL đối với thanh thiếu niên và trẻ em; kỹ năng phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng chống tảo hôn và hôn nhân cận huyết.
[6] Như: giới, bình đẳng giới, quyền nhân thân và quyền tài sản của phụ nữ, trẻ em; quyền yêu cầu bồi thường của người bị thiệt hại cho đối tượng thuộc nhóm yếu thế là người dân tộc thiểu số; lý lịch tư pháp và quyền được xóa án tích, trọng tâm cho người đang chấp hành án phạt tù; hướng dẫn sử dụng bộ pháp điển nhằm tăng cường tiếp cận thông tin pháp luật cho người dân; các quyền dân sự chính trị theo Công ước ICCPR, các mô hình nâng cao nhận thức pháp luật cho phụ nữ, trẻ em.
[7] Khảo sát định lượng được tiến hành với 303 người dân được hòa giải, 151 hòa giải viên cơ sở. Khảo sát định tính được tiến hành với 18 cuộc phỏng vấn sâu với người dân, hòa giải viên, công chức tư pháp hộ tịch.
[8] Nội dung tập huấn gồm phương pháp tăng cường sự tham gia của người học, các kiến thức cơ bản về giới, bình đẳng giới và kỹ năng hòa giải bảo đảm bình đẳng giới.
[9] Sổ tay được đăng tải trên website của Bộ tư pháp để mọi hòa giải viên cơ sở có thể tiếp cận, sử dụng, đồng thời 3165 cuốn sổ tay được in ấn và phát tới 1055 xã thuộc các huyện nghèo.
[10] Kết quả của hoạt động khảo sát, nghiên cứu đã cung cấp các thông tin về thực tiễn hoạt động hòa giải ở cơ sở và việc sử dụng kết quả hòa giải trong việc giải quyết các vụ việc có liên quan tại Tòa án, các mô hình hòa giải tốt tại cơ sở, từ đó đưa các kiến nghị về việc mở rộng các mô hình hòa giải tốt tại các tỉnh, thành phố.
[11] Bao gồm triển khai nghiên cứu tính khả thi về mô hình và cơ cấu tổ chức nhân viên công tác xã hội trong hệ thống tư pháp, bao gồm cả tham vấn, thù lao chuyên gia trong nước và quốc tế; xây dựng báo cáo nghiên cứu về hướng dẫn thực hiện quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử đối với vụ án xâm hại tình dục trẻ em; xây dựng chương trình tập huấn cho cán bộ ngành kiểm sát về ứng phó hiệu quả đối với bạo lực với phụ nữ và trẻ em; nghiên cứu về khiếu nại, tố cáo liên quan đến xâm hại, bóc lột trẻ em và bạo lực giới, thực tiễn, khó khăn vướng mắc và giải pháp; triển khai xây dựng hướng dẫn dành cho cán bộ hỗ trợ nạn nhân chưa thành niên để hướng dẫn việc hỗ trợ tâm lý, xã hội và cung cấp các hỗ trợ cần thiết khác cho người dưới 18 tuổi là nạn nhân/nhân chứng của tội phạm và cha mẹ của trẻ ở mọi giai đoạn tố tụng nhằm bảo đảm sự tham gia hiệu quả, thúc đẩy sự phục hồi và tái hòa nhập của trẻ.
[12] Tổ chức 03 lớp tập huấn về truy tố hiệu quả các vụ việc bạo lực với trẻ em cho cán bộ ngành kiểm sát; triển khai xây dựng các tài liệu hướng dẫn kỹ năng truy tố thân thiện với người chưa thành niên; tổ chức tập huấn nâng cao nhận thức liên ngành cho cán bộ công an, phụ nữ, đoàn thanh niên, lao động, thương binh và xã hội, biên phòng ở các tỉnh miền núi phía Bắc về phòng ngừa xâm hại tình dục trẻ em, bóc lột trẻ em, mua bán trẻ em và bảo vệ trẻ em trong môi trường trực tuyến; chỉnh sửa tài liệu giảng dạy về tư pháp với trẻ em, nâng cao năng lực cho đội ngũ giảng viên nguồn, rà soát, đề xuất tăng cường lồng ghép giới trong chương trình đào tạo chính của các môn luật học của Đại học Luật Hà Nội nhằm xây dựng năng lực về tư pháp với người chưa thành niên và năng lực về giới, kể cả bạo lực trên cơ sở giới, cho cán bộ luật pháp tương lai, kể cả công an và cán bộ tư pháp.
[13] Hỗ trợ Viện chiến lược và khoa học pháp lý Bộ Tư pháp nghiên cứu thực trạng thực hiện hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong án phạt tù và người đang chấp hành các hình phạt tại cộng đồng, đề xuất các khuyến nghị hoàn thiện pháp luật và thực thi pháp luật trong những năm sắp tới. Bên cạnh đó, Dự án cũng hỗ trợ Bộ Công an xây dựng tài liệu và tổ chức tập huấn về quyền và nghĩa vụ cho người chấp hành xong án phạt tù tái hòa nhập cộng đồng ở khu vực Tây Nguyên; hỗ trợ Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia xây dựng Bộ tài liệu tập huấn giảng viên nguồn về vấn đề xóa án tích và LLTP cho cán bộ trại giam và cán bộ tư pháp để tăng cường việc cung cấp thông tin pháp luật, hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong án phạt tù.
[14] Bao gồm: (1) Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số điều của Bộ luật HÌnh sự và việc xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi; (2) Quyết định số 400/QĐ-VKSTC của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao ban hành biểu mẫu thống kê người dưới 18 tuổi là bị hại trong các vụ án hình sự; (3) Quyết định số 454/QĐ-TANDTC của Tòa án nhân dân tối cao ban hành hệ thống sổ nghiệp vụ và biểu mẫu thống kê về hòa giải, đối thoại tại tòa án; Sổ nghiệp vụ, biểu mẫu thống kê sử dụng cho tòa gia đình và người chưa thành niên; (4) Quyết định số 253/QĐ-VKSTC của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao ban hành biểu mẫu và hướng dẫn biểu mẫu thống kê người dưới 18 tuổi phạm tội trong ngành Kiểm sát nhân dân; (5) Thông tư liên tịch số 01/2022/TLTT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP-BLĐTBXH quy định về phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm các vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi.
[15] Thông qua việc hỗ trợ tiến hành các nghiên cứu xây dựng các bộ chỉ số theo dõi, đánh giá, nghiên cứu chuyên đề các quyền liên quan đến tư pháp, pháp luật của các nhóm yếu thế, hỗ trợ xây dựng báo cáo quốc gia và các phiên bảo vệ giả định Công ước các quyền dân sự chính trị (ICCPR), Công ước các quyền trẻ em (CRC), Công ước các quyền của người khuyết tật (CRPD), Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (CEDAW).
[16] cụ thể gồm: đánh giá khả năng gia nhập Nghị định thư tùy chọn Công ước ICCPR về án tử hình, nâng cao chất lượng lấy ý kiến nhóm đối tượng yếu thế chịu sự tác động của chính sách trong quá trình xây dựng pháp luật, chính sách, cơ chế theo dõi, đánh giá thực hiện Công ước ICCPR, kinh nghiệm quốc tế về tương trợ tư pháp, tiếp cận dịch vụ tư pháp và dịch vụ pháp lý cho người lao động di cư, bảo vệ dữ liệu cá nhân, kinh nghiệm quốc tế về các chính sách hình sự, như “thỏa thuận nhận tội”, nguyên tắc tự bảo vệ trước khi được bảo vệ, về khả năng giảm hình phạt tử hình, hình phạt thay thế, kinh nghiệm quốc tế về cơ chế hoạt động tư pháp, như cơ chế xét xử bởi Bồi thẩm đoàn, hòa giải trong hình sự, pháp luật về tình trạng khẩn cấp trong bối cảnh phòng chống dịch Covid 19, thực trạng và khuyến nghị hoàn thiện pháp luật về nguồn nhân lực pháp luật, tư pháp là người dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, quyền tiếp cận giáo dục của trẻ em, người dân tộc thiểu số, phương hướng hoàn thiện pháp luật về người khuyết tật….
[17] Như “Thi hành pháp luật về bảo vệ người nghèo và nhóm yếu thế trong lĩnh vực tư pháp”, “Chống phân biệt đối xử với phụ nữ, trẻ em gái và phòng chống bạo lực trên cơ sở giới”, “Bảo vệ trẻ em và tư pháp cho trẻ em trong tiến trình cải cách pháp luật và tư pháp ở Việt Nam”, “Tăng cường tiếp cận trợ giúp pháp lý cho người nghèo và nhóm yếu thế tại Việt Nam”, “Công tác thi hành án dân sự trong yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, “Tăng cường hiệu quả công tác bổ trợ tư pháp đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp tại Việt Nam”, “Diễn đàn pháp luật ASEAN về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự”, “Nâng cao năng lực chuyên sâu về tư pháp người chưa thành niên nhằm tăng cường bảo vệ người chưa thành niên có liên quan đến pháp luật” “Chuyển đổi số trong ngành Tư pháp”…
[18] Ban Nội chính trung ương tiến hành các nghiên cứu các thực tiễn tốt của các quốc gia, khuyến nghị cho Việt Nam trong việc định hướng xây dựng các bộ quy tắc ứng xử tư pháp đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp; xây dựng tài liệu hướng dẫn cho quy tắc đạo đức và ứng xử trong hoạt động tư pháp; so sánh pháp luật và thực tiễn tốt về bảo đảm liêm chính, công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong lĩnh vực tư pháp tại một số quốc gia; cơ chế giám sát nhằm bảo đảm tuân thủ liêm chính đối với các chức danh tư pháp.
[19] Bộ quy tắc ứng xử cho thanh tra viên trong ngành Tư pháp; tham gia vào quá trình hoàn thiện và phổ biến Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của Liên đoàn Luật sư Việt Nam, xây dựng tài liệu và tổ chức tập huấn cho các đoàn luật sư về Bộ quy tắc này.
[20] Xây dựng tài liệu, tổ chức các khóa tập huấn việc áp dụng Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử trong việc thực hiện Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự. Dự án cũng hỗ trợ các tập huấn chuyên sâu về việc hướng dẫn soạn thảo bản án/ quyết định của Tòa án thống nhất trong các Tòa án nhân dân. Trong hơn 5 năm thực hiện Dự án, đã có 846 thẩm phán, cán bộ tòa án được tập huấn, nâng cao năng lực.
[21] Với sự hỗ trợ của Dự án, đã có 76 dự thảo án lệ được trao đổi, đề xuất phát triển thành án lệ.
[22] Các tài liệu này đã được sử dụng trong các khóa tập huấn giảng viên nguồn và tập huấn thí điểm cho công chức tư pháp-hộ tịch của một số địa phương để nâng cao năng lực trong công tác thống kê tư pháp.
[23] Còn số liệu của tập huấn Vụ PLHSHC, Vụ TCCB
[24] Trong đó có 60% là phụ nữ, 34% là người dân tộc thiểu số, 34% là trẻ em, 46% là người nghèo/cận nghèo, là những đối tượng ưu tiên từ dự án.
[25] Trong đó có 65% là nữ, 22% người DTTS, 8% là trẻ em và 37% là người nghèo / cận nghèo, là những đối tượng ưu tiên từ dự án.