Trên cơ sở thực trạng, những khó khăn trong việc tiếp cận và sử dụng trợ giúp pháp lý của người dân từ các khía cạnh khác nhau, được đánh giá bởi các chủ thể khác nhau, cùng với việc phân tích những yếu tố khác như văn hóa, giới tính, ngôn ngữ, địa lý… để tìm ra các phát hiện về rào cản trong tiếp cận và sử dụng trợ giúp pháp lý của người dân. Những khó khăn được đánh giá trực tiếp từ phía người dân, người thực hiện trợ giúp pháp lý, người quản lý trợ giúp pháp lý, người phối hợp trong TGPL, cán bộ công chức cấp xã... đây là những nhóm người mà thông qua công việc trực tiếp của mình có thể hiểu và đánh giá cụ thể về những rào cản khiến người dân còn hạn chế trong tiếp cận và sử dụng trợ giúp pháp lý thời gian qua.
1. Tâm lý, giới tính đã ảnh hưởng nhiều tới việc tiếp cận TGPL của người dân
Theo thông tin từ các cuộc thảo luận nhóm và phỏng vấn sâu thì, nhiều người nghèo, người dân tộc thiểu số, phụ nữ và trẻ em ở miền núi và nông thôn... thường mang tâm lý tự ti, mặc cảm, e ngại khi tiếp xúc với người lạ, với các cơ quan tổ chức; không biết và cũng không chủ động tiếp cận các thông tin pháp luật, thậm chí có trường hợp từ chối ngay nếu không được người thân quen, người có uy tín giải thích kỹ. Kết quả khảo sát cho thấy, có 44,4% người dân được khảo sát cho rằng địa điểm của tổ chức thực hiện TGPL ở trụ sở của cơ quan nhà nước nên người dân ngại đến; 100% ý kiến của cán bộ công chức cấp xã cũng đồng ý với quan điểm này. Có 47% người dân được khảo sát và 87% người thực hiện trợ giúp pháp lý, 100% người quản lý công tác TGPL cho biết nhiều người dân thường có tâm lý e ngại khi gặp cán bộ nhà nước. Bên cạnh đó, có 29% người dân cho rằng họ gặp khó khăn khi gặp cán bộ TGPL. 15% người dân cho rằng họ gặp khó khăn khi găp chính quyền địa phương để trình bày, 15 % người dân cho rằng họ gặp khó khăn khi gặp cán bộ xã trên địa bàn; 12% người dân cho rằng họ gặp khó khăn khi gặp cán bộ đoàn thể ở cơ sở và chỉ 6% người dân cho rằng họ khó khăn khi gặp cán bộ thôn, bản, 6% người dân cho rằng họ khó khăn khi gặp người có uy tín trong cộng đồng.
Hơn nữa, bản thân nhiều người dân cũng có thể chưa hiểu về trợ giúp pháp lý là dịch vụ pháp lý miễn phí mà Nhà nước ưu đãi dành cho họ, bởi vậy họ luôn có tâm lý rằng, có người giúp mình, bảo vệ mình trước tòa thì phải trả tiền. Vốn dĩ bản thân họ đã là người nghèo, người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa thì khi nghĩ tới việc sẽ phải mất một khoản tiền (mà họ thường tin rằng đó là một khoản tiền lớn). Do đó khi có vướng mắc pháp luật hoặc gặp vấn đề liên quan đến pháp luật họ có tâm lý e dè, cân nhắc, không dám tìm đến yêu cầu giúp đỡ, kể cả là trợ giúp pháp lý. Đối với một số nhóm biết về trợ giúp pháp lý thì có thể lại có tâm lý rằng, đây là chính sách miễn phí, mà miễn phí thì có thể chất lượng chưa chắc đã tốt, nên họ cũng có tâm lý băn khoăn khi lựa chọn, sử dụng.
Ngoài ra, với đặc thù là các tỉnh miền núi, vùng sâu vùng xa, có điều kiện kiện kinh tế xã hội khó khăn, việc tiếp cận trợ giúp pháp lý của một số đối tượng đặc thù như phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật..., nhất là khi họ là nạn nhân của bạo lực gia đình, tội phạm mua bán người.v.v sẽ càng gặp khó khăn. Bởi vì, khi rơi vào những hoàn cảnh này họ sẽ có tâm lý mặc cảm tự ti, cam chịu, e ngại, xấu hổ hoặc sợ bị trả thù..., hơn nữa đa số sinh sống ở những nơi có hoàn cảnh sống khó khăn, trình độ dân trí thấp, thiếu hiểu biết pháp luật, không rõ về các quyền và nghĩa vụ của mình. Chính vì vậy, khi bị xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình họ cũng không biết để tiếp cận được quyền trợ giúp pháp lý cho bản thân mình. Đáng chú ý là vấn đề giới tính, độ tuổi... cũng có thể có tác động nhất định, dù là rất nhỏ, đối với người dân khi tiếp cận và sử dụng dịch vụ công này. Có khoảng 10% người dân được khảo sát cho rằng lý do chưa phù hợp về giới tính, 10% chưa phù hợp về độ tuổi... cũng có thể là những rào cản khi tiếp cận TGPL của người dân các tỉnh miền núi. Theo số liệu khảo sát, có 61,9% người thực hiện TGPL đánh giá rằng họ cũng gặp khó khăn trong quá trình làm việc với đối tượng được TGPL khác giới tính. Việc gặp khó khăn trong quá trình làm việc có thể xuất phát từ các đặc điểm giới tính của người được trợ giúp pháp lý, ví dụ như người được trợ giúp pháp lý là nữ, nhất là trong các vụ việc có liên quan đến yếu tố giới tính như bạo lực tình dục, hiếp dâm, cưỡng dâm, bạo lực gia đình... họ thường có tâm lý e ngại, xấu hổ, tâm lý khép mình ... hoặc nam giới có tính gia trưởng nên họ không chia sẻ hoặc chỉ chia sẻ phần nào nội dung sự việc, vì vậy người thực hiện TGPL sẽ khó khăn để có đầy đủ các thông tin, tài liệu liên quan vụ việc, từ đó có các phương án, lập luận để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
2 Bất đồng ngôn ngữ là một khó khăn, rào cản trong tiếp cận TGPL của người dân
Tại các địa bàn khảo sát, người dân tộc chiếm tỷ lệ cao. Yên Bái với đặc điểm người dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ 57,4% dân số, đồng bào Mông chiếm số lượng lớn, sinh sống tập trung ở 02 huyện nghèo Trạm Tấu và Mù Cang Chải (trên 90% dân số của huyện). Điện Biên là tỉnh có 19 dân tộc trong đó trên 80% là người dân tộc thiểu số, nhiều người dân không nghe, nói, đọc, viết được tiếng Việt, không biết chữ; trong khi đó, đa số người làm công tác TGPL không biết hoặc không thông thạo tiếng dân tộc thiểu số; nhiều trường hợp nhờ phiên dịch là người dân địa phương nhưng lai không có kiến thức pháp luật, không biết từ chuyên ngành nên việc dịch để người dân hiểu được rất khó khăn, không chuyển tải được hết nội dung. Do đó, khi mà người dân còn e ngại về tâm lý, lại thêm rào cản về ngôn ngữ, thì họ càng e ngại tìm đến các cơ quan nhà nước, trong đó có Trung tâm TGPL nhà nước để đề nghị được giúp đỡ. Trong khi đó, những người làm công tác pháp luật và TGPL không thông thạo các tiếng dân tộc thiểu số thì khó có thể tiếp cận nhóm đối tượng này để làm quen, trao đổi, giải thích.
Đồng quan điểm về sự khác biệt ngôn ngữ gây khó khăn trong cả việc tiếp cận và sử dụng TGPL cho người dân, khi được hỏi về vấn đề này các đối tượng tham gia khảo sát đều thể hiện ở các mức độ khác nhau. Cụ thể, có 9% người dân, 85,7% người thực hiện TGPL, 100% người quản lý công tác TGPL tham gia khảo sát cho rằng một trong những khó khăn mà người dân gặp phải trong tiếp cận các dịch vụ công trong đó có dịch vụ TGPL là vì bất đồng ngôn ngữ, ít cán bộ, công chức biết tiếng dân tộc. Cũng theo kết quả khảo sát cho thấy, trong quá trình thực hiện TGPL có 66,7% người thực hiện TGPL cho rằng họ đã từng gặp khó khăn này, họ thấy khó có thể hiểu rõ vụ việc do đối tượng là đồng bào dân tộc thiểu số ít người không biết tiếng phổ thông, phiên dịch cũng không thể diễn đạt chính xác và rõ ràng hết ý được. Việc người dân không thông thạo tiếng phổ thông và người đi truyền thông không biết tiếng dân tộc thiểu số thì dẫn tới hiệu quả của công tác truyền thông không cao. Người dân có thể đến tham dự đầy đủ, rất trật tự nhưng không tiếp nhận được đầy đủ thông tin, không hiểu được nội dung truyền thông thì khó có thể tiếp cận và yêu cầu TGPL.
Đối với những địa phương có nhiều nhóm người dân tộc ít người khác nhau sinh sống, với lực lượng người thực hiện TGPL mỏng, nếu có học tiếng dân tộc thì cũng thường chỉ biết 01 -02 thứ tiếng (ví dụ tiếng Thái, Mông, Tày...); một số nhóm dân tộc thiểu số khác khó có thể học được (ví dụ tiếng Khơ Mú, Hà Nhì, La Hủ, Giáy...), nên việc truyền thông về pháp luật và TGPL tại các địa bàn này càng gặp khó khăn, chủ yếu thông qua người địa phương nên không truyền tải được đầy đủ và chính xác các thông điệp truyền thông. Trường hợp có người dân đến yêu cầu TGPL nhưng người thực hiện không biết tiếng dân tộc hoặc biết nhưng chưa thông thạo mà chưa kịp nhờ phiên dịch thì cũng ảnh hưởng đến việc tiếp nhận thông tin của Trung tâm TGPL và tâm lý của người dân.
3. Văn hóa, thói quen khi gặp vướng mắc pháp luật đã ảnh hưởng đến tiếp cận TGPL
Thông thường, trong đời sống hằng ngày khi gặp những khó khăn, vướng mắc pháp luật, người dân chưa có thói quen sử dụng các dịch vụ pháp lý; nhiều người dân ở nông thôn, miền núi vùng sâu, vùng xa còn sử dụng phong tục, tập quán hoặc hỏi người thân, cán bộ tại cộng đồng tư vấn, hướng dẫn, giải đáp thông tin về pháp luật hoặc hỏi kinh nghiệm của người thân, hàng xóm về giải quyết vấn đề vướng mắc.
Kết quả khảo sát cho thấy, có 18% người dân tham gia khảo sát, cho rằng phong tục tập quán là một trong những rào cản khiến việc tiếp cận, sử dụng dịch vụ TGPL của người họ còn khó khăn, hạn chế. Trong khi đó, có 80% cán bộ công chức xã, 76,2% người thực hiện TGPL và đặc biệt 100% người quản lý công tác TGPL đánh giá người dân trên địa bàn sẽ gặp khó khăn trong tiếp cận, sử dụng dịch vụ TGPL do phong tục tập quán tại địa phương.
Ở những nơi vẫn tồn tại các hủ tục lạc hậu thì việc người dân giải quyết tranh chấp phù hợp với quy định pháp luật còn gặp những hạn chế nhất định, bởi vì hầu hết những mâu thuẫn, tranh chấp, vướng mắc ở vùng này đều được giải quyết theo tục lệ của làng, của bản mà ít có thói quen sử dụng dịch vụ pháp lý. Khi có vướng mắc pháp luật, họ thường tìm đến trưởng thôn, trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng… để chia sẻ, nhờ cậy bởi họ tin tưởng, hy vọng trưởng thôn, trưởng bản… sẽ giải quyết được hoặc cho ý kiến quan trọng đối với những vấn đề của mình. Đa số đội ngũ cán bộ tại tại thôn bản (Bí thư chi bộ thôn, Bí thư Đoàn thanh niên, Chi hội trưởng chi hội phụ nữ, già làng, trưởng bản, trưởng dòng họ…) là những người gắn bó với người dân, hiểu phong tục tập quán của địa phương, dễ dàng nắm bắt các vấn đề phát sinh trong cộng đồng dân cư. Tuy nhiên, cũng có thể có trường hợp, nếu những vấn đề mâu thuẫn không được giải quyết triệt để thì sẽ dẫn tới phức tạp hơn, kéo dài và có thể dẫn đến hệ lụy lớn hơn. Với thói quen giải quyết các sự, vụ theo phong tục, tập quán của địa phương thì có thể sẽ làm chuyển biến quan hệ pháp luật từ tranh chấp nhỏ thành lớn, từ dân sự, hôn nhân gia đình thành quan hệ pháp luật hình sự hoặc có thể bỏ lỡ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, trong đó có quyền được trợ giúp pháp lý của người dân, đặc biệt là nhóm yếu thế.
4. Trình độ văn hoá, nhận thức, hiểu biết của một bộ phận người dân về pháp luật và TGPL còn hạn chế
Ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, nơi có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, trình độ dân trí, nhận thức, hiểu biết của người dân về pháp luật nói chung và về TGPL nói riêng không đồng đều, nhiều nơi còn khá hạn chế. Theo kết quả khảo sát cho thấy, có 90,5% người thực hiện TGPL, 66,7% người quản lý công tác TGPL, 80% cán bộ công chức xã tham gia khảo sát cho rằng nhận thức, hiểu biết pháp luật của người được TGPL hiện này là một rào cản trong tiếp cận và sử dụng dịch vụ TGPL. Có 40% cán bộ, công chức xã cho rằng nếu người dân không biết về TGPL, những lợi ích mà TGPL mang đến cho mình thì họ sẽ không quan tâm, không tiếp cận và sử dụng dịch vụ TGPL. Cũng chính vì nhận thức, hiểu biết của một số người dân chưa cao nên trong quá trình thực hiện TGPL cho họ, người thực hiện TGPL cũng gặp những khó khăn trong quá trình tiếp cận và khai thác tình tiết nội dung vụ việc, thu thập tài liệu, chứng cứ, giấy tờ có liên quan (66,7% người quản lý công tác TGPL, 90,5% người thực hiện TGPL đưa ra nhận xét này), hoặc người được TGPL có đòi hỏi không phù hợp như yêu cầu người thực hiện TGPL phải giúp được không bị xử lý hình sự hoặc nếu bị xử thì chỉ bị tuyên phạt với mức án nhất định nhẹ hơn quy định; hoặc yêu cầu TGPL giúp họ đòi bằng được quyền sử dụng đất mặc dù đang thuộc quyền sử dụng hợp pháp của người khác...(71,4% người thực hiện TGPL, 33,3% người quản lý công tác TGPL đưa ra nhận định này).
Khi mà nhận thức, hiểu biết của người dân về xã hội, về pháp luật nói chung và về TGPL nói riêng còn hạn chế, họ có thể không biết và không nghĩ tới các hậu quả pháp lý có thể nhận được khi có hành động vi phạm pháp luật. Ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, nơi có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vướng mắc, vi phạm của người dân chủ yếu là trong lĩnh vực hình sự, thường có hành vi như: trộm cắp tài sản, hủy hoại rừng, buôn bán, sử dụng trái phép ma túy hoặc tranh chấp đất đai… Nguyên nhân là do nhận thức, trình độ hiểu biết pháp luật của người dân còn hạn chế, suy nghĩ đơn giản trong khi bận rộn với nhứng mối lo về việc làm, khó khăn về kinh tế, kiếm sống... phần nào đã tác động tiêu cực đến hành vi của họ. Hơn nữa, cuộc sống khó khăn, vất vả, lại thuộc vùng dân tộc thiểu số cách xa trung tâm, điều kiện tiếp cận với thông tin pháp luật còn hạn chế nên khi có những vụ việc liên quan đến pháp luật, họ không biết phải làm thế nào, phải tìm đến ai để bảo vệ quyền và lợi ích của họ. Có trường hợp người dân đã được giải thích, hướng dẫn yêu cầu TGPL nhưng họ từ chối vì cho rằng đã vi phạm pháp luật thì không có ai giúp đỡ được, TGPL sẽ chẳng thể làm gì để giúp họ hoặc bản thân họ cho rằng nếu nhờ TGPL sẽ phức tạp hơn... nên từ chối yêu cầu giúp đỡ, hỗ trợ và TGPL.
5. Khoảng cách địa lý, giao thông đi lại khó khăn là một rào cản không nhỏ trong tiếp cận và sử dụng TGPL
Tại các tỉnh khảo sát, cho thấy, địa bàn sinh sống của người dân thường ở thôn, bản cách xa Trung tâm TGPL tỉnh (thậm chí có nơi cách xa trên 200km- 300km)
[1] (như ở huyện Mù Cang Chải cách thành phố Yên Bái khoảng 200 km, huyện Mường Nhé cách thành phố Điện Biên khoảng 200 km,...), đường giao thông đi lại khó khăn, địa hình phức tạp, đa dạng, đèo dốc nguy hiểm. Theo phản ảnh từ các Trung tâm này, nhiều trường hợp đồng bào ở vùng sâu, vùng xa; có vướng mắc về pháp lý nhưng do quá xa Trung tâm TGPL và các chi nhánh của Trung tâm, thậm chí có trường hợp không biết được phải đến đâu để được TGPL, cho nên nhiều người chấp nhận thiệt thòi, hoặc đến khi sự việc rất khó giải quyết mới đến yêu cầu TGPL. Các phương tiện công công như xe buýt... thường di chuyển giữa các trục đường lớn hoặc các địa điểm nhằm phục vụ thúc đẩy, phát triển du lịch, kinh tế... Ở những nơi xa, hoặc có địa hình phức tạp thì người dân thường di chuyển bằng xe đạp, xe máy để đến trung tâm thôn, bản. Những người không có phương tiện để di chuyển thì phải đi bộ. Do đó, đời sống kinh tế còn khó khăn, không có phương tiện đi lại phù hợp cũng là một trở ngại khi người dân muốn tìm đến các tổ chức thực hiện TGPL.
Kết quả khảo sát cho biết, có 44% người dân cho rằng trụ sở của tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý ở quá xa, trong khi đó có 60% cán bộ công chức cấp xã, 90,5% người thực hiện TGPL cho rằng giao thông đi lại đến tổ chức TGPL còn gặp khó khăn, đặc biệt có tới 95,2% người thực hiện TGPL và 100% người quản lý công tác TGPL đều đánh giá rằng người dân sẽ ngại đến tổ chức thực hiện TGPL vì đường xa;…. Như vậy, khoảng cách địa lý, giao thông đi lại khó khăn là một rào cản không nhỏ trong tiếp cận và sử dụng TGPL của người dân.
Do điều kiện đi lại xa xôi, khó khăn nên người dân e ngại mất nhiều thời gian và tốn kém chi phí đi lại, ăn nghỉ khi đến yêu cầu trợ giúp pháp lý. Nhiều ý kiến cho biết, khi mà cuộc sống mưu sinh còn vất vả, khó khăn, hàng ngày đi làm rẫy, nay no mai đói nên các vấn đề khác chưa phải là mối quan tâm của những người dân nghèo, đặc biệt là người dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa. Ở các bản làng xa ở miền núi, vùng sâu, vùng xa đi đến Ủy ban nhân dân xã có khi còn mất cả tiếng đồng hồ, đi lên trung tâm huyện và trung tâm tỉnh để yêu cầu TGPL còn xa hơn nhiều nên đây cũng là một trở ngại khiến người dân có thể sẽ không sử dụng quyền được yêu cầu TGPL của mình.
6. Một số quy định về việc tiếp cận và sử dụng trợ giúp pháp lý chưa đầy đủ, chưa chi tiết
Pháp luật về TGPL đã quy định trách nhiệm cơ quan quản lý TGPL Trung ương và địa phương trong việc tổ chức và thực hiện truyền thông về TGPL; đồng thời quy định trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan nhà nước có liên quan, Phòng Tư pháp, UBND cấp xã trong việc giới thiệu người được trợ giúp pháp lý đến Trung tâm trợ giúp pháp lý. Bên cạnh đó, các quy chế, chương trình phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức về trợ giúp pháp lý với các cơ quan, tổ chức ở Trung ương và địa phương (Công an, Tòa án, Ban dân tộc, Hội Luật gia, Đoàn Luật sư, Hội phụ nữ…) góp phần tăng cường sự tiếp cận trợ giúp pháp lý của người dân. Như đã trình bày ở trên, hiện nay có rất nhiều hình thức để người dân tiếp cận TGPL; tuy nhiên chưa có hướng dẫn cụ thể về các hình thức tiếp cận dịch vụ TGPL, cách thức tổ chức thực hiện và tiêu chí đo lường về hiệu quả của việc tiếp cận dịch vụ TGPL của người dân.
Điều 29 Luật TGPL 2017 quy định về các cách thức người dân có thể lựa chọn để nộp hồ sơ yêu cầu TGPL (từ trực tiếp, điện tử, bưu chính...). Tuy nhiên, chưa có hướng dẫn cụ thể về quy trình người dân được cung cấp dịch vụ công thông qua hình thức điện tử (trực tuyến) để người dân thuận lợi hơn khi được TGPL.
7. Cách thức tổ chức thực hiện và nội dung, hình thức truyền thông trợ giúp pháp lý ở một số nơi, trong một số thời điểm hiệu quả chưa cao
Mặc dù trong thời gian gần đây ở cả Trung ương và địa phương đều tập trung đổi mới công tác truyền thông với nhiều hình thức đa dạng, phong phú và mang lại một số hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, nội dung, phương thức truyền thông chưa thực sự phù hợp đối với một số nhóm đối tượng (ví dụ người khuyết tật với các dạng tật khác nhau, các nhóm người dân tộc thiểu số khác nhau, trẻ em nhất là trẻ có hoàn cảnh đoặc biệt, trẻ khuyết tật, phụ nữ và trẻ em là nạn nhân bạo lực gia đình...); chưa đáp ứng được nhu cầu, đặc điểm của từng nhóm dân cư, cũng như đặc thù của các khu vực khác nhau.
Theo kết quả khảo sát về cách thức tổ chức, nội dung, hình thức truyền thông trong thời gian qua vẫn còn có những hạn chế như nội dung truyền thông chưa thật sự phù hợp với nhu cầu của người dân tại thời điểm truyền thông hoặc thông tin chưa dễ hiểu, chưa phong phú, đa dạng hoặc chưa được thông báo về TGPL. Cụ thể, có 11.7% người dân và 4,8% người thực hiện TGPL cho rằng một số nội dung thông tin truyền thông chưa thật sự phù hợp với nhu cầu của người dân tại thời điểm truyền thông. Trong khi đó có 29,4% người dân, 20% công chức xã, 38,1% người thực hiện TGPL cho rằng thông tin chưa dễ hiểu. Bên cạnh đó, có 11,7% người dân, 20% công chức xã, 66,7% người thực hiện TGPL cho rằng thông tin chưa phong phú, chưa đa dạng và 70,5% người dân, 57,1% người thực hiện TGPL cho biết chưa thông tin về TGPL ở vùng sâu vùng xa, hẻo lánh... Đây là những rào cản trong công tác thông tin, truyền thông về TGPL.
Tại các địa phương, Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước và chi nhánh của Trung tâm đã luân phiên tổ chức các đợt truyền thông về trợ giúp pháp lý theo nhiều phương thức và vào các thời điểm khác nhau. Người thực hiện truyền thông chủ yếu là cán bộ của Trung tâm, Chi nhánh; nhiều trường hợp phối hợp với cơ quan tư pháp địa phương, Hội phụ nữ, Hội nông dân, Hội khuyết tật... Hình thức truyền thông phổ biến là tổ chức hội nghị để truyền thông giới thiệu trực tiếp tại hội nghị, phát tờ gấp pháp luật, tờ rơi về TGPL, dán bảng thông tin tại trụ sở các cơ quan tiến hành tố tụng, Ủy ban nhân nhân cấp xã... Ngoài ra hiện nay còn có một số hình thức truyền thông mới như xây dựng các thông điệp TGPL với nội dung ngắn gọn phát ở Đài tiếng nói Việt Nam, xây dựng và phát sóng những kịch bản phim, phóng sự về các vụ việc TGPL tham gia tố tụng hiệu quả, thành công hoặc tiếp nhận thông tin qua đường dây nóng, theo dõi thông tin TGPL trên các phương tiện thông tin đại chúng...
Nội dung truyền thông bao gồm: thông tin giới thiệu về trợ giúp pháp lý, người thuộc diện trợ giúp pháp lý, lợi ích của việc được TGPL, thủ tục yêu cầu trợ giúp pháp lý,… Ngoài thông tin về trợ giúp pháp lý, người dân còn được giới thiệu về quyền và nghĩa vụ của công dân, chính sách an sinh xã hội đối với trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật, người có công với cách mạng và đặc biệt là người dân tộc thiểu số; chính sách đất đai, hợp đồng mua bán, vay mượn, quy định pháp luật về hình sự,… Đây là những vấn đề người dân hay quan tâm vì có liên quan đến những vụ việc cụ thể xảy ra tại địa phương. Tuy nhiên, qua phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm nhiều ý kiến cho rằng hiện nay còn ít phương thức phù hợp với người dân, đặc biệt là người dân tộc thiểu số, chưa có phương thức truyền thông riêng, phù hợp cho đối tượng đặc thù. Một số người cho biết họ đã từng tham dự một số hội nghị truyền thông về pháp luật và TGPL, tuy nhiên về nội dung thì không còn nhớ nữa, có trường hợp mặc dù đã đi truyền thông về TGPL thì vẫn không biết trợ giúp pháp lý là gì.
Nguồn lực cho công tác truyền thông còn thiếu, viên chức của Trung tâm trợ giúp pháp lý đa số có trình độ cử nhân trở lên chuyên ngành luật nhưng chưa được đào tạo kỹ năng, nghiệp vụ truyền thông. Kinh phí truyền thông cũng còn hạn chế do đó công tác truyền thông về TGPL chưa hiệu quả.
Bên cạnh đó, nhiều ý kiến cho rằng nội dung một số tài liệu truyền thông về TGPL như tờ gấp pháp luật, một số chương trình truyền thông trên đài phát thanh, đài truyền hình đôi lúc có nội dung khá phức tạp, chưa phù hợp với trình độ dân trí, hiểu biết của người dân, nhất là người dân tộc thiểu số; chưa có ngôn ngữ ký hiệu cho người khuyết tật; ít được dịch ra các tiếng dân tộc thiểu số. Một số quy định pháp luật khá khó hiểu đối với người dân. Thời lượng và tần suất truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng còn thấp, chưa thường xuyên, thường tập trung ở một vài thời điểm nhất định trong năm, mức độ phủ sóng chưa rộng.
8. Nguồn lực của tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý còn hạn chế
Như đã trình bày ở phần trên, trong khi nhu cầu tiếp cận và sử dụng trợ giúp pháp lý ở nhiều tỉnh miền núi (trong đó có địa bàn khảo sát) là khá cao, thì nguồn lực của các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý (bao gồm cả nguồn nhân lực và cơ sở vật chất, kinh phí) vẫn còn hạn chế. Như ở tỉnh Điện Biên, ước tính khoảng hơn 80% dân số thuộc diện người được trợ giúp pháp lý, Yên Bái khoảng trên 60% dân số, trong khi đó, mỗi Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh có 12 Trợ giúp viên pháp lý. Ở 02 địa phương này, số lượng cá nhân, tổ chức hành nghề luật tham gia trợ giúp pháp lý không nhiều (Yên Bái chỉ có 6 luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý, 0 tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý; Điện Biên có 7 luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý, 0 tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý). Theo báo cáo sơ kết 05 năm triển khai Luật TGPL 2017 của hai tỉnh này, với đặc thù của các địa bàn miền núi hiện nay một số luật sư trẻ năng động không hoạt động trên địa bàn mà về thành phố hành nghề thì chủ yếu các luật sư cao tuổi, là cán bộ đã về hưu, hành nghề tại địa phương nên khả năng đi cơ sở, gặp đối tượng tại các địa bàn xa xôi, đi lại khó khăn... là rất hạn chế; bên cạnh đó, một số luật sư được miễn đào tạo nghiệp vụ luật sư nên chưa có nhiều kỹ năng, kinh nghiệm tham gia tố tụng…
Kết quả khảo sát cũng cho thấy, có 50% người dân, 81% người thực hiện TGPL, 66,7% người quản lý công tác TGPL, 100% cán bộ công chức xã đánh giá số lượng người thực hiện TGPL hiện nay còn ít. Bên cạnh đó, kỹ năng thực hiện TGPL của một số người thực hiện TGPL trong một số lĩnh vực với một số vụ việc còn chưa đáp ứng được yêu cầu, người thực hiện TGPL không biết tiếng dân tộc thiểu số cũng là một rào cản (theo đánh giá của 20% người dân, 52,4% người thực hiện TGPL, 66,7% người quản lý công tác TGPL, 80% cán bộ công chức xã tham gia khảo sát). Bên cạnh đó, 29% người dân tham gia khảo sát cho rằng có thể có khó khăn khi người dân thuộc diện “dễ bị tổn thương” gặp cán bộ TGPL. 31,8% người tham gia khảo sát cho rằng thủ tục hành chính còn phức tạp hoặc thông tin chưa được dễ hiểu là một trong những nguyên nhân gây khó khăn trong sử dụng dịch vụ.
Ngoài ra, còn có một số khó khăn khác cũng phần nào ảnh hưởng đến việc tiếp cận và sử dụng TGPL của người dân như: cơ sở vật chất của một số tổ chức thực hiện TGPL, trong đó có Trung tâm TGPL và Chi nhánh của Trung tâm còn chưa được bảo đảm, địa điểm tiếp người được TGPL chưa thật thuận lợi với người dân, nhất là những đối tượng dễ bị tổn thương. Theo kết quả khảo sát, có 29% người dân đánh giá là việc chưa có địa điểm tiếp riêng cũng ảnh hưởng tới việc người dân tiếp cận với dịch vụ. Theo đánh giá của công chức cấp xã, trụ sở, cơ sở vật chất trang thiết bị của các tổ chức thực hiện TGPL chưa đáp ứng yêu cầu công việc (khoảng 80% người khảo sát chọn ý kiến này); chưa có phòng riêng để tiếp người được TGPL khi họ có yêu cầu (60% chọn ý kiến này); thủ tục hành chính còn phức tạp (40% chọn ý kiến này)
Theo báo cáo của tỉnh Điện Biên và tỉnh Yên Bái thì các tỉnh này còn khó khăn, chưa tự cân đối được ngân sách. Hằng năm, tuy Tỉnh đã quan tâm dành nguồn lực cho công tác TGPL, nhưng do kinh phí hạn hẹp, nên chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế đặt ra đối với các hoạt động truyền thông về TGPL cũng như chi trả thù lao vụ việc TGPL. Các trang thiết bị văn phòng của Trung tâm TGPL (đơn vị nòng cốt cung cấp dịch vụ TGPL) phần lớn được mua sắm từ lâu, thường xuyên hỏng hóc cần được thay mới để đáp ứng thực hiện chủ chương chuyển đổi số trong các hoạt động công tác.
Như vậy, nguồn nhân lưc, kinh phí, cơ sở vật chất, thủ tục hành chính của Tổ chức thực hiện TGPL cũng tác động đến khả năng cung cấp dịch vụ TGPL kịp thời, có chất lượng cho người dân; nói cách khác là phần nào tác động đến khả năng tiếp cận và sử dụng dịch vụ trợ giúp pháp lý của người dân tại địa phương.
9. Phối hợp giới thiệu, giải thích, thông tin, thông báo về trợ giúp pháp lý của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác chưa thực hiện thường xuyên, kịp thời
Trong thời gian qua, ở Trung ương và địa phương đều có những nỗ lực tích cực trong công tác phối hợp về trợ giúp pháp lý, nhất là giữa cơ quan, tổ chức trợ giúp pháp lý với các cơ quan, người tiến hành tố tụng. Tại các tỉnh thuộc diện khảo sát, Trung tâm TGPL nhà nước và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm phối hợp trong công tác TGPL đã triển khai các hoạt động phối hợp và đạt được những kết quả tích cực. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, đôi lúc, đôi khi sự quan tâm của các cơ quan, tổ chức có liên quan đối với việc phối hợp trong công tác TGPL còn chưa đáp ứng yêu cầu thực tế. Việc thông báo, giải thích về quyền được TGPL theo quy định của pháp luật trong một số trường hợp chưa đạt hiệu quả. Một số cơ quan nhà nước, tổ chức có chức năng, nhiệm vụ tiếp nhận, xử lý, giải quyết các vụ việc có liên quan đến công dân chưa chú trọng hoặc ít giới thiệu người thuộc diện TGPL đến Trung tâm Trợ giúp pháp lý.
Theo kết quả khảo sát, có 15% người dân cho biết họ cảm thấy khó khăn khi gặp chính quyền để trình bày vụ việc của mình; 15% người dân cho rằng có chút khó khăn khi gặp cán bộ cấp xã ở địa phương; 12% người dân cho rằng có thấy khó khăn khi gặp cán bộ đoàn thể ở cơ sở (hội viên Hội nông dân, Hội cựu chiến binh, đoàn thanh niên…), 6% người dân cho rằng khó khăn khi gặp cán bộ thôn, bản; 6% người dân cho rằng khó khăn khi gặp người có uy tín trong cộng đồng. Bên cạnh khó khăn xuất phát từ tâm lý người dân khi làm việc với các cơ quan, tổ chức thì nhận thức của cơ quan, tổ chức, cá nhân trên địa bàn về TGPL cũng rất quan trọng và có thể ảnh hưởng đến việc giải thích, giới thiệu người được TGPL đến tổ chức thực hiện TGPL trên địa bàn (có 80% cán bộ công chức xã, 76,2% người thực hiện TGPL, 66,7% người quản lý công tác TGPL tham gia khảo sát cho biết điều này).
Ở những vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, một số cấp ủy, chính quyền địa phương chưa thực sự quan tâm tới TGPL vì còn phải tập trung vào các vấn đề để phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương để nâng cao đời sống của người dân trên địa bàn. Do đó, sự phối hợp trong truyền thông, giới thiệu, chuyển gửi vụ việc trợ giúp pháp lý từ những cơ quan, tổ chức, đặc biệt là các cơ quan có chức năng tiếp công dân sẽ có lúc, có nơi, có thời điểm chưa thực sự được quan tâm đúng mức. Theo báo cáo sơ kết 05 triển khai Luật TGPL của tỉnh Điện Biên
[2], trong thời gian qua việc phối hợp thực hiện TGPL chủ yếu được triển khai với các cơ quan tiến hành tố tụng và trong các vụ án hình sự; sự phối hợp với các cơ quan, tổ chức khác chưa được chú trọng hoặc còn mang tính hình thức. Quá trình phối hợp thì các cơ quan tiến hành tố tụng cũng mới chỉ chủ yếu tập trung vào nhóm đối tượng người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn mà chưa chú trọng đến sự phối hợp trong tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ TGPL cho các đối tượng được TGPL khác. Theo Báo cáo sơ kết 05 năm triển khai Luật TGPL ở tỉnh Yên Bái, nhận thức về trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng của một số cơ quan tiến hành tố tụng, nhất là tại cấp huyện còn có một số hạn chế, việc giải thích về quyền được trợ giúp pháp lý cho người được trợ giúp pháp lý là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và các đương sự khác trong một số trường hợp chưa thực hiện đầy đủ.
Qua kết quả khảo sát cho thấy, có 81% người thực hiện TGPL và 66,7% người quản lý công tác TGPL cho rằng trên thực tế vẫn còn có một số cơ quan, tổ chức, cá nhân có thời điểm chưa triển khai đầy đủ hoặc kịp thời các quy định về TGPL nên chưa tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân tiếp cận và sử dụng TGPL khi có nhu cầu. Công tác chuyển gửi, giới thiệu đối tượng được TGPL đôi khi chưa được kịp thời (57,1% người thực hiện TGPL và 33,3% người quản lý TGPL nhận định) và 57,1% người quản lý công tác TGPL đánh giá công tác cung cấp thông tin liên quan đến vụ việc chưa được đầy đủ, kịp thời. 66,7% người quản lý công tác TGPL đồng ý với ý kiến rằng vẫn có một số cơ quan, tổ chức, cá nhân chưa nhiệt tình phối hợp trong quá trình thực hiện TGPL... 14.3% người thực hiện cho biết rằng cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có lúc chưa tạo điều kiện thuận lợi để họ thực hiện các nghĩa vụ theo bộ luật, luật về tố tụng.
10 Rào cản khác.
Bên những thông tin thu được từ các cuộc khảo sát thực tiễn, qua nghiên cứu một số tài liệu có liên quan thì thầy rằng: hiện nay trong bối cảnh đẩy mạnh chuyển đổi số, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong tất cả các lĩnh vực, trong đó có TGPL, do đó ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số vào hoạt động TGPL cần trở thành công cụ hữu hiệu để giúp người dân tiếp cận và sử dụng TGPL. Việc ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số trong hoạt động TGPL mới ở bước đầu, hiện tại chưa có cơ sở dữ liệu TGPL hoàn chỉnh, việcc tích hợp, kết nối với các cơ sở dữ liệu quốc gia và chuyên ngành khác để khai thác dữ liệu còn mới ở bước đầu; chưa có cổng thông tin điện tử, TGPL trực tuyến, ứng dụng TGPL giúp người dân thuận tiện trong quá trình tra cứu và thụ hưởng dịch vụ TGPL; việc triển khai dịch vụ công trực tuyến ở các địa phương còn ở mức độ thấp và không đồng đều ở các địa phương... Các thủ tục hành chính về TGPL được thực hiện ở cấp tỉnh, do đó phụ thuộc nhiều vào sự quan tâm về nguồn lực, kinh phí, cơ sở vật chất từ chính quyền địa phương. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dịch vụ công thiết yếu TGPL cũng gặp khó khăn nhất định do người thụ hưởng dịch vụ này chủ yếu là người nghèo, người yếu thế, dễ tổn thương trong xã hội, chưa có kỹ năng sử dụng và kiến thức, thói quen sử dụng dịch vụ công trực tuyến. Người thực hiện TGPL, người tiếp nhận, hỗ trợ thông tin vẫn còn thiếu kiến thức, kỹ năng thực hiện TGPL, tiếp nhận và hỗ trợ thông tin trong bối cảnh chuyển đổi số…
Có th y ttng và kichính về TGPL được thực hiện ở cấp tỉnh, do đó phụ thuộc nhiều vào sự quan tâm về nguồn lực, kinh phí, cơ sở vật chất từ chính quyền địa phương. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dịch vụ công thiết yếu TGPL cũng gặp khó khăn nhất định thực thực hiện ở cấp tỉnh, do đó phụ thuth y ttng và kichính về TGPL được thực hiện ở cấp tỉnh, do đó phụ thuộc nhiều vào sự quan tâm về nguồn lực, kinh phí, cơ sở vật chất từ chính quyền địa phương. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dịch vụ công thiế tổng thể có thể thấy rằng, những rào cản này có mối liên hệ qua lại, tác động lẫn nhau./.
[1] Theo các Báo cáo kết quả tổ chức Hội thảo định hướng xác định rào cản trong tiếp cận và sử dụng TGPL trên địa bàn tỉnh Yên Bái, Điện Biên
[2] Báo cáo số 861/BC-CTP ngày 16/6/2922 của Sở Tư pháp tỉnh Điện Biên.