MỘT SỐ GÓP Ý ĐỐI VỚI DỰ THẢO BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ TIẾN TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA GIA ĐÌNH VÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
Sign In

MỘT SỐ GÓP Ý ĐỐI VỚI DỰ THẢO BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ TIẾN TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA GIA ĐÌNH VÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN

Chuyên gia 1. Vai trò quan trọng của TANDTC trong việc đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng về các kiến thức, kỹ năng liên quan tới NCTN cho Thẩm phán, Thư ký Toà án cũng được khẳng định khi phần lớn Thẩm phán, Thư ký của các Toà GĐ&NCTN cũng như các Toà cấp tỉnh và cấp huyện nơi chưa thành lập Toà GĐ&NCTN được tiếp cận với các kiến thức, kỹ năng đã nêu qua các hoạt động tập huấn/bồi dưỡng nghiệp vụ và/hoặc các hội thảo/hội nghị chuyên đề do TANDTC tổ chức (xem . Cụ thể, có đến 92,6% Toà GĐ&NCTN tham gia khảo sát cho biết các Thẩm phán, Thư ký Toà của Toà GĐ&NCTN đã tiếp cận với các kiến thức, kỹ năng liên quan tới NCTN qua các hoạt động tập huấn/bồi dưỡng nghiệp vụ do TANDTC tổ chức. Tương tự, 85,5% Toà cấp tỉnh và cấp huyện tham gia khảo sát cho biết các Thẩm phán, Thư ký Toà của các Toà này được tiếp cận với các kiến thức, kỹ năng liên quan tới NCTN cũng qua hoạt động này (xem Hình 53).
Hình 53: Các hoạt động đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng liên quan tới NCTN cho Thẩm phán, Thư ký Toà GĐ&NCTN và Toà cấp tỉnh, cấp huyện nơi chưa thành lập Toà GĐ&NCTN
 Đánh giáTrên thực tế cần lưu ý rằng giữa các hoạt động đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng nêu trên có sự chênh lệch rất lớn về nội dung, mức độ chuyên sâu và thời lượng. Ví dụ, các chương trình tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ thường chỉ giới hạn trong vài ngày, các hội thảo/hội nghị chuyên đề thì thường ngắn hơn về mặt thời lượng và hạn chế hơn về mức độ chuyên sâu. Trong khi đó, các chương trình đào tạo tại Học viện Toà án, Học viện Tư pháp có mức độ chuyên sâu và chất lượng nhất thì chỉ chiếm một tỷ lệ khá hạn chế (7,4% đối với Toà GĐ&NCTN và 16,4% đối với Toà cấp tỉnh và cấp huyện nơi chưa thành lập Toà GĐ&NCTN - xem Hình 3). Điều này đặt ra yêu cầu thống nhất chương trình đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng cho Thẩm phán, Thư ký của Toà GĐ&NCTN và Thẩm phán, Thư ký của các Toà khác có xét xử các vụ việc có sự tham gia của NCTN để đảm bảo mức độ đồng đều và chuyên sâu về kiến thức, kỹ năng liên quan.
Vấn đề đảm bảo bình đẳng và yếu tố giới trong hoạt động của Toà GĐ&NCTN
Theo UNICEF, bình đẳng có nghĩa là tất cả trẻ em đều có cơ hội tồn tại, phát triển và phát huy hết tiềm năng của mình, không bị phân biệt đối xử, định kiến hay thiên vị . Vấn đề đảm bảo trẻ em và NCTN được đối xử công bằng, bình đẳng và không phải chịu bất kỳ hình thức phân biệt đối xử nào trong quá trình tố tụng là một nội dung đáng lưu ý trong tiếp cận tư pháp cho trẻ em và NCTN . Những yếu tố như giới tính, dân tộc,... cần được xem xét trong quá trình tố tụng để đáp ứng tốt nhất các nhu cầu của trẻ mà không phải để tạo ra sự phân biệt đối xử. Trên thực tế, các đối tượng dễ bị tổn thương có những nhu cầu đặc thù xuất phát từ nhiều yếu tố như giới tính (ví dụ là nữ), dân tộc (ví dụ là trẻ em dân tộc thiểu số) hay tình trạng sức khoẻ (ví dụ như trẻ em khuyết tật). Điều này đòi hỏi Thẩm phán, Thư ký Toà án và các chức danh tư pháp khác tại Toà án cũng như các cơ quan điều tra, kiểm sát phải có hiểu biết về sự phát triển và nhu cầu của trẻ em nói chung và các trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt nói riêng.
Để thúc đẩy đảm bảo bình đẳng và yếu tố giới trong hoạt động của Toà GĐ&NCTN nói riêng và tăng cường kiến thức, kỹ năng liên quan tới tư pháp cho NCTN nói chung, Liên minh Châu Âu và UNICEF đã hỗ trợ Học viện Toà án biên soạn Tài liệu tập huấn cơ bản cho Thẩm phán về tư pháp với NCTN - Cẩm nang dành cho học viên . Tài liệu này nhấn mạnh Thẩm phán cần lưu ý đến những nhu cầu đặc biệt và tính dễ bị tổn thương của NCTN, sự nhạy cảm về giới và những khác biệt về dân tộc và văn hoá. Thẩm phán cần phải nhận thức được rằng giới tính, tình trạng khuyết tật, ngôn ngữ và văn hóa có thể tác động đến khả năng tham gia hiệu quả vào quá trình tố tụng tại Tòa án của NCTN và do vậy cần áp dụng những biện pháp bảo vệ tăng cường để đáp ứng những nhu cầu đặc biệt của NCTN . Cụ thể, về khía cạnh nhạy cảm giới, Tài liệu này hướng dẫn khi xử lý các vụ án có trẻ em gái vi phạm pháp luật, Thẩm phán cần cân nhắc đến những nhu cầu đặc biệt và tính dễ bị tổn thương của các em bởi bị cáo là nữ thường có khả năng bị bỏ bê, lạm dụng cơ thể, lạm dụng tình dục hay những tổn thương khác, bỏ nhà ra đi và gia đình có mâu thuẫn cao hơn nam giới. Thẩm phán cũng cần lưu ý với những trường hợp các em gái đã từng bị xâm hại, đảm bảo Tòa án có được đầy đủ thông tin về hoàn cảnh và xuất thân của các em để từ đó có những biện pháp xử lý thích hợp hoặc để giải quyết nguyên nhân sâu xa của hành vi phạm pháp . Bên cạnh đó, Thẩm phán cần luôn gương mẫu trong việc đối xử công bằng và tôn trọng với trẻ em gái, trong một số trường hợp còn cần áp dụng một số biện pháp tăng cường để giúp trẻ em gái cung cấp bằng chứng hiệu quả. Do định kiến xã hội về vai trò giới và những sự khác biệt trong việc nuôi dưỡng trẻ em trai và trẻ em gái, trẻ em gái có thể thiếu tự tin trong việc phát biểu ý kiến trước tòa. Thẩm phán cần lưu ý đến những định kiến về giới dựa trên kì vọng về cách cư xử của một đứa trẻ “ngoan” và không được để cho những điều lầm tưởng hay quan niệm sai lầm về xâm hại tình dục ảnh hưởng đến việc đánh giá bằng chứng của NCTN .
Kết quả khảo sát định lượng cho thấy tỷ lệ Thẩm phán là nữ ở các Toà GĐ&NCTN tham gia khảo sát là khá cao, với 54,1%. Tỷ lệ Thư ký Toà là nữ tại các Toà GĐ&NCTN tham gia khảo sát cao hơn, với 64,6%. Sự ưu tiên trong phân công Thẩm phán và Thư ký Toà là phụ nữ về các Toà GĐ&NCTN sẽ có thể hỗ trợ tốt hơn cho việc đảm bảo các khía cạnh về giới trong quá trình xét xử (ví dụ có thể nhạy cảm hơn với các nhu cầu đặc thù của NCTN là nữ). Tuy nhiên, các kết quả khảo sát cho thấy vẫn còn khoảng gần một nửa (47,8%) số Toà GĐ&NCTN tham gia khảo sát đang gặp khó khăn, vướng mắc liên quan tới việc các Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Toà án vẫn còn thiếu kiến thức chuyên ngành, xã hội liên quan đến GĐ&NCTN mặc dù đã được đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng. Điều này cho thấy một thách thức đáng kể trong việc nhận diện và đáp ứng nhu cầu của trẻ em và NCTN, cũng như đảm bảo các yếu tố về giới và công bằng trong quá trình tố tụng.
Khảo sát các Toà GĐ&NCTN trên thực địa cho thấy các Toà GĐ&NCTN đã và đang nhận thức được về những nhu cầu nhất định của trẻ em trong quá trình tố tụng, như nhu cầu được bảo vệ và tôn trọng. Cụ thể, trong các vụ án hình sự mà bị cáo là người đã đủ 18 tuổi trở lên nhưng người bị hại là người dưới 18 tuổi bị tổn thương nghiêm trọng về tâm lý, Hội đồng xét xử luôn nhận thức được rằng hành vi phạm tội của các bị cáo không chỉ tạo thành những xâm hại về mặt thể chất đối với người bị hại dưới 18 tuổi mà còn tạo ra những ảnh hưởng tâm lý tiêu cực, nghiêm trọng. Do vậy, việc xét xử các bị cáo luôn được các Thẩm phán nghiên cứu kỹ càng và lên lịch xét xử nhanh chóng, tránh gây ảnh hưởng tâm lý của người bị hại và để bị hại ổn định cuộc sống. Trên thực tế, người bị hại trong các vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Toà GĐ&NCTN chủ yếu tập trung ở các nhóm tội xâm hại tình dục và các vụ án này đều được xét xử kín, hạn chế tối đa việc làm ảnh hưởng đến tâm lý, danh dự của người bị hại. Trong quá trình xét hỏi tại phiên toà, các câu hỏi đối với bị cáo hoặc người bị hại là những câu hỏi mang tính gợi mở, gần gũi, tạo tâm lý yên tâm cho người tham gia tố tụng, tránh tạo áp lực dẫn đến tâm lý sợ hãi, hoang mang.
Mặt khác, các kết quả phỏng vấn sâu đại diện các đối tác cấp trung ương cho thấy còn một số hạn chế nhất định liên quan tới khả năng thúc đẩy đảm bảo bình đẳng và yếu tố giới trong quá trình xét xử các vụ việc có sự tham gia của NCTN. Cụ thể, đại diện của Bộ LĐTBXH cho biết khi giải quyết các vụ việc liên quan đến NCTN, nhất là trong các vụ hình sự, còn trường hợp Thẩm phán tập trung xử lý hành vi phạm tội, chưa quan tâm được nhiều đến tổn thương tâm lý, sức khoẻ, sinh lý của người dưới 18 tuổi do hành vi phạm tội gây ra. Tổn thương này có thể rất nặng nề, có thể kéo dài trong nhiều năm và ảnh hưởng tới sự phát triển của trẻ, do đó, rất cần thiết phải dành sự quan tâm đặc biệt đến mức độ tổn thương tâm lý của người bị hại. Trên thực tế ít có sự tìm hiểu đánh giá về nhu cầu của trẻ trong quá trình giải quyết các vụ việc, như nhu cầu được đảm bảo an toàn, nhu cầu về điều kiện sống, ăn ở,… và đặc biệt là tình trạng tổn thương của trẻ. Những hạn chế này cũng đã được phản ánh trong một số nghiên cứu . Thêm vào đó, cần lưu ý rằng bên cạnh các trường hợp “người bị buộc tội, người bị hại dưới 18 tuổi không có gia đình, không có nơi cư trú ổn định, người bị hại dưới 18 tuổi bị xâm hại tình dục, bị bạo hành hoặc bị mua bán”  , trên thực tế còn có những trường hợp như trẻ em, NCTN tham gia với tư cách người làm chứng hay người bị hại trong các vụ việc khác… đều cần được quan tâm, hỗ trợ, tìm hiểu về tâm sinh lý để đảm bảo quyền và lợi ích tốt nhất của trẻ. Cũng cần cân nhắc việc cho phép các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác (ví dụ như các nhân viên công tác xã hội) chủ động tham gia trong quá trình tố tụng (thay vì phải cần có đề nghị hay xem xét của cơ quan tiến hành tố tụng ) để bảo vệ sớm nhất và đáp ứng tốt nhất các nhu cầu của trẻ em và NCTN trong quá trình tố tụng. Riêng trong các vụ việc hôn nhân gia đình, đặc biệt là các vụ việc ly hôn, cần tuân thủ quy định xem xét nguyện vọng của con  và quan tâm hơn nữa tới nguyện vọng này.
Chuyên gia 2. Thông tin chung: Hiện nay Toà GĐ&NCTN của HN có bộ máy đầy đủ, bao gồm 5 Thẩm phán và 3 Thư ký.
Nhiệm vụ xét xử các vụ việc thuộc thẩm quyền của Toà GĐ&NCTN là không mới. Đó là
a) Các vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi hoặc các vụ án hình sự mà bị cáo là người đã đủ 18 tuổi trở lên nhưng người bị hại là người dưới 18 tuổi bị tổn thương nghiêm trọng về tâm lý hoặc cần sự hỗ trợ về điều kiện sống, học tập do không có môi trường gia đình lành mạnh như những người dưới 18 tuổi khác;
b) Xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân đối với người chưa thành niên;
c) Các vụ việc hôn nhân gia đình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Tòa xử lý hành chính xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân, trừ những việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa gia đình và người chưa thành niên.
Tuy nhiên thiết chế quy định về Toà GĐ&NCTN và những vấn đề về vụ án người dưới 18 tuổi là lĩnh vực cần thiết được trang bị lại cho Thẩm phán. Hiện nay áp lực công việc và biên chế rất lớn từ quận huyện cho đến thành phố. Nhất trí với đề xuất, kết luận với Báo cáo.
Với góc độ Thẩm phán đang giải quyết các vụ việc về GĐ&NCTN, có một số nhận định cụ thể:
Phương pháp nghiên cứu: Đã lắng nghe được quan điểm từ phía Thẩm phán, Toà án, cơ quan điều tra, kiểm sát viên, tuy nhiên còn muốn lắng nghe thêm tiếng nói của các tổ chức khác như luật sư - đồng hành trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án liên quan tới người dưới 18 tuổi. Muốn có thêm đánh giá của giới luật sư đánh giá về cách điều hành phiên toà, cách làm việc của Thẩm phán. Chưa có dịp để nghe đánh giá của chính người tham gia trực tiếp cùng giải quyết.
Mức độ phù hợp: Hoàn toàn phù hợp. Luật TPNCTN là rất quan trọng. Văn bản hướng dẫn xử lý các vụ án có sự tham gia của người dưới 18 tuổi: BLHS có chương riêng, tuy nhiên thiết chế của từng điều luật chưa dành cho NCTN. Những vụ án phạm tội dâm ô, hiếp dâm trẻ em mới chỉ xem xét góc độ 1 bên là NCTN (bị cáo/bị hại). Có những vụ án cả bị cáo bị hại là NCTN - có những đặc thù riêng so với vụ án chỉ có 1 bên là NCTN tham gia. Thay vì áp dụng thiết chế người trưởng thành cho NCTN - BLHS, Luật TPNCTN cần cải tiến không chỉ bị cáo/bị hại mà cả 2 bên là NCTN.
Đào tạo: Nhất trí việc đào tạo chuyên sâu chuyên ngành cho các Thẩm phán. Ở HN chưa có quận huyện nào thành lập được Toà GĐ&NCTN. Nguyên nhân thì báo cáo đã nêu. Các Thẩm phán hiện nay của Toà HN cũng chưa được đào tạo lần nào về tâm lý, quy định về NCTN, hoàn toàn tự trang bị. Trong kế hoạch hoạt động có kế hoạch tự đào tạo, tự tổ chức tập huấn, liên hệ với Toà tối cao trong báo cáo để trình lên Ban cán sự Đảng. Bản thân tôi chưa được đào tạo bài bản. Đã từng tham gia hội thảo về buôn bán trẻ em dưới 16 tuổi, gặp gỡ các chuyên gia trong lĩnh vực hình sự, giám định... và tự nhận thấy hiểu biết về tâm lý về NCTN phạm tội rất hạn chế. Chủ yếu các Thẩm phán làm theo kinh nghiệm (phần lớn các Thẩm phán đều có gia đình có con, mang tâm thế người cha người mẹ, chưa có trang bị đầy đủ về tâm lý, giới NCTN phạm tội).
Chứng chỉ cho Thẩm phán được đào tạo về tư pháp NCTN nếu là 1 quy định bắt buộc có thể có thuận lợi - chuyên nghiệp hiệu quả cao hơn nhưng trong 1 số điều kiện của Toà chưa đáp ứng được. VD những Thẩm phán không có chứng chỉ thì có được xử vụ án về NCTN không. Người xử mà không có chứng chỉ thì có vi phạm tố tụng và bị huỷ không. Không xét xử nữa thì có bị thu hồi chứng chỉ hay không.
Nếu không có đào tạo đồng bộ cho Thẩm phán, Điều tra viên và Kiểm sát viên thì mục đích đặt ra sẽ không đạt hiệu quả cao. Cơ quan Kiểm sát và Điều tra không có cán bộ chuyên trách. VD Mỗi 1 vụ án về NCTN lại liên hệ với rất nhiều phòng của Công an TP HN, không có phòng chuyên biệt riêng về NCTN (chỉ có phòng theo dõi án riêng về HNGĐ).
Luân chuyển cán bộ: Được đào tạo rồi thì khi bổ nhiệm có được công tác về án GĐ&NCTN hay không. Án GĐ&NCTN ít hủy hơn, phân công đều để Thẩm phán không bị vào tình huống nhiều án phức tạp, tỷ lệ án huỷ cao, khó khăn trong tái bổ nhiệm. Báo cáo đưa ra đề xuất thực tiễn và tôi rất trân trọng các đề xuất này. Hy vọng các ý kiến được phản ánh đầy đủ được các cơ quan trung ương tiếp nhận và có hướng mới cho việc hoạt động của Toà GĐ&NCTN.
Việc hình thành một Toà GĐ&NCTN đòi hỏi phải bố trí đội ngũ nhân sự phù hợp, không chỉ bao gồm biên chế Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án đáp ứng được yêu cầu tổ chức Tòa chuyên trách theo đúng quy định của Thông tư 01/2016/TT-CA mà trên cũng thống nhất ở thực tế còn làm tăng thêm 02 vị trí quản lý là Chánh án và Phó Chánh án Toà GĐ&NCTN, có khả năng ảnh hưởng đến thời gian làm công tác xét xử của Thẩm phán. Theo kết quả khảo sát định lượng (xem Bảng 3). Cácvới các Toà GĐ&NCTN, các Toà GĐ&NCTN đang được phân bổ khoảng 8,6% biên chế của các Toà cấp tỉnh (nơi đã thành lập Toà GĐ&NCTN). Khảo) với trung bình có 03 Thẩm phán và 03 Thư ký Toà. Các kết quả khảo sát bằng bảng hỏi cũng phản ánh sự khác biệt định lượng cũng cho biết trung bình mỗi TAND cấp tỉnh nơi đã thành lập Toà GĐ&NCTN có 11 Thẩm phán và 16 Thư ký Toà; các TAND cấp huyện có trung bình 09 Thẩm phán và 05 Thư ký Toà. Lưu ý rằng có sự khác biệt đáng kể giữa số lượng Thẩm phán và Thư ký tại các Toà cấp huyện thuộc thành phố trực thuộc trung ương so với các Toà cấp huyện thuộc các tỉnh. Ví dụ, tại Tp. Hồ Chí Minh, trung bình 01 Toà cấp huyện có 24 Thẩm phán và 11 Thư ký Toà, còn ở các địa phương khác thuộc địa bàn khảo sát chỉ có trung bình 05 Thẩm phán và 04 Thư ký/Toà cấp huyện.
Kinh phí: So với các Toà chuyên trách khác, Toà GĐ&NCTN sẽ phát sinh một số chi phí đặc thù nếu bố trí phòng xét xử thân thiện và các phòng chức năng khác theo hướng dẫn của TANDTC như phòng chờ, phòng hoà giải.... Chi phí này bao gồm chi phí sửa chữa/xây dựng trụ sử và mua sắm trang thiết bị, chưa kể tới chi phí đào tạo chuyên môn về GĐ&NCTN cho đội ngũ nhân sự của Toà chuyên trách này. Theo kết quả khảo sát định lượng với các Toà GĐ&NCTN, hiện nay có 51,7% các Toà GĐ&NCTN tham gia khảo sát bố trí được phòng xét xử thân thiện chuyên dành cho việc xét xử những vụ án hình sự có bị cáo là người dưới 18 tuổi thuộc thẩm quyền của Tòa GĐ&NCTN theo quy định được xét xử tại phòng xét xử thân thiện  (xem Hình 12). Phổ biến hơn là việc bố trí phòng xử án hình sự, dân sự riêng biệt.  có thể sử dụng để xét xử cả các vụ án của người thành niên cũng như NCTN, với 65,5% và 58,6% Toà GĐ&NCTN bố trí được các phòng xử án này. Bên cạnh đó, cũng có gần một nửa (44,8%%) các Toà GĐ&NCTN bố trí được phòng tư vấn - hòa giải. Tuy nhiên, tỷ lệ bố trí các phòng chức năng khác như chưa được cao. Bên cạnh đó, , với chỉ 17,2% các Toà GĐ&NCTN đã bố trí được phòng trẻ em/phòng giám sát tâm lý trẻ em và phòng y tế/phòng trợ giúp y tế, 20,7% bố trí được phòng cách ly dành riêng cho bị hại và 31% bố trí được phòng chờ. Đặc biệt, vẫn có 24,1% các Toà GĐ&NCTN bố trí phòng xử án hình sự kết hợp dân sự (xem Hình 13).. Cũng lưu ý rằng việc có phòng xét xử thân thiện và các phòng chức năng khác cũng không đồng nghĩa với việc các phòng đó được bố trí hoàn toàn phù hợp theo các hướng dẫn của TANDTC.
Chuyên gia 3.
1. Góp ý dự thảo Báo cáo
- Đồng tình, nhất trí với nội dung báo cáo. Nhóm chuyên gia dùng nhiều phương pháp, dày công, đánh giá ở tầm UNICEF. Trên cơ sở thực tiễn của Toà và các cơ quan, hệ thống, rút ra từ thực tiễn trong công tác xét xử. Trong HVTP, HVTA cũng như các cơ quan tư pháp như CA, VKS, Luật sư và các ngành khác... -> Rút ra 10 kiến nghị và 8 đề xuất bổ ích.
- Trong khảo sát cần khảo sát đối với đương sự, bị can, bị cáo -> để nắm bắt tâm lý, nguyện vọng mà những người này (đã trải nghiệm ở các cấp toà). Đánh giá ở nhiều góc độ khác nhau.
- Báo chí, cơ quan thông tin đại chúng: Những kiến nghị, khiếu nại qua các vụ án được đưa đến các cơ quan thông tấn báo chí để bổ trợ phân tích triệt để hơn.
- Nếu được rút ngắn hơn nữa, ngắn gọn đề mục, dễ phân tích đánh giá, dễ nhận biết.
2. Thực trạng đơn vị & ngành Toà
- Trong 5 năm qua ngành TA đã thành lập được Toà GĐ&NCTN ở 38 Toà cấp tỉnh, 2 toà cấp cao. Ở ĐN là chưa thành lập được ở cấp cao. Tỷ lệ thành lập Toà GĐ ở cấp tỉnh chiếm khoảng 55%, 45% chưa thành lập được. Với TA cấp huyện chưa có Toà GĐ&NCTN -> rất hạn chế.
- Cấp cao: 2015/6 mới có 4 Thẩm phán. Tỷ lệ Thẩm phán chuyên xét xử về NCTN chỉ có 4/38, khoảng 10%. Rất khó trong bối cảnh hiện nay thì mỗi năm nghỉ khoảng 5-7 Thẩm phán. Số lượng bổ sung vào chưa kịp (mới bổ nhiệm được 2). Thiếu biên chế, không tăng, không giữ nguyên mà còn giảm đi về biên chế.
- Tỷ lệ và số lượng án: Thụ lý bởi Toà GĐ&NCTN trong 5 năm nay chỉ khoảng 20-30 án/năm, rất ít. Tôi trực tiếp thụ lý khoảng 5 vụ/28 vụ - liên quan tới NCTN tất cả các loại án. Toà cấp cao có bố trí phòng thân thiện, tuy nhiên còn những phòng chức năng như phòng cách ly, giám sát, tư vấn, phòng y tế. Cần lưu ý tới cơ sở vật chất và cần một lộ trình cụ thể.
- Toà khu vực, cấp huyện: Đề án 49 2/6/2005 để cải cách tư pháp đến bây giờ (2022) hết Giai đoạn 1. 2005 - 2010; 2010- 2015; 2015 - 2020 -> lộ trình cụ thể. Ưu tiên đào tạo, cơ sở vật chất... Đề án toà khu vực NQ 49 chỉ đạo về cải cách tư pháp, chưa thực hiện được với toà khu vực. 15 năm chưa thực hiện được. Từ 2015 đến nay được 7 năm, quá trình triển khai thực hiện: cơ sở vật chất, con người vừa thiếu vừa chưa chuyên môn hoá. Thẩm phán cấp cao xét xử tất cả các án. Năm vừa rồi tôi được phân công 152 vụ - đã giải quyết 114 vụ (37 vụ hình sự, 67 vụ DS, HC, HN, LĐ). Thẩm phán cần biết nhiều loại việc, nhiều loại án. Thậm chí còn đi Cao Bằng hay 8 tỉnh miền Bắc, rất vất vả.
3. Kiến nghị & Đề xuất
- Cần thiết và bắt buộc phải thành lập ở cấp huyện - yêu cầu cấp bách. Thành lập như thế nào và lộ trình như thế nào phải tính toán. Sơ thẩm giải quyết chung - Thẩm phán đa năng có ưu việt biết được tất cả loại án, nhưng không chuyên sâu về kiến thức và kỹ năng. Giỏi 1 nghề, biết nhiều nghề. Như vậy mới đảm bảo được nguyên tắc 2 cấp xét xử, cấp huyện và cấp tỉnh. Hệ thống TAND cấp huyện giải quyết án HNGĐ là chủ yếu. Hướng về cơ sở, cải cách tư pháp cải cách đồng bộ từ cơ sở. Giải quyết triệt để từ khâu phát sinh mâu thuẫn, giải quyết án HNGĐ từ cấp sơ thẩm, từ giai đoạn thụ lý vụ án.
- Ban hành chỉ thị, NQ sớm để chỉ đạo về công tác này. Đánh giá được tầm quan trọng, vai trò vị trí phù hợp với khách quan, thực tiễn. Pháp luật đi vào cuộc sống mới có giá trị. Ban hành chỉ là quan điểm quan niệm.
- Cả hệ thống chính trị đều phải vào cuộc, không chỉ TA trực tiếp xét xử. Cán bộ tư pháp cũng phải được tập huấn về người chưa thành niên, không chỉ điều tra viên, kiểm sát viên (chủ công). Ngay từ sơ thẩm, xã phường, tranh chấp HNGĐ liên quan tới NCTN. Tư vấn, chuyên gia, luật sư...
- Cơ sở vật chất, trang thiết bị đầy đủ, để Toà GĐ&NCTN phải được đồng bộ từ TW đến địa phương trong hệ thống TA, đầy đủ, hiệu quả, cho chỉ tiêu biên chế với các ngành (TA, KSV, CA) đảm bảo số lượng, chất lượng - được đào tạo theo hệ thống.
3. Đề nghị bổ sung thêm kiến nghị
1.2. Sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến người chưa thành niên
- Sửa đổi, bổ sung các quy định trong Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự và Luật Xử lý vi phạm hành chính bảo đảm thống nhất, khắc phục khó khăn trong thực tiễn xét xử, giải quyết các vụ việc của Tòa Gia đình và người chưa thành niên.
- Ban hành văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn cụ thể về thẩm quyền của Tòa Gia đình và người chưa thành niên theo hướng:
“+ Vụ án hình sự mà các bị can, bị cáo đều là người dưới 18 tuổi. Trường hợp khi xét xử tại Tòa án mà bị can, bị cáo đã trên 18 tuổi thì sẽ xét xử ở Tòa thông thường.
+ Vụ án hình sự mà có cả bị can, bị cáo dưới 18 tuổi và trên 18 tuổi nhưng bị can, bị cáo trên 18 tuổi bị truy cứu trách nhiệm hình sự thuộc khung hình phạt ít nghiêm trọng, nghiêm trọng.
+ Vụ án hình sự mà có cả bị can, bị cáo dưới 18 tuổi và trên 18 tuổi bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội  rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng nếu tách được vụ án thì tách để xử lý người dưới 18 tuổi tại Toà gia đình và người chưa thành niên, bị cáo là người đã 18 tuổi sẽ xét xử ở Tòa thông thường. Nếu không tách được vụ án thì vụ án được giải quyết ở Tòa thông thường.
+ Vụ án hình sự mà có nhiều bị can, bị cáo dưới 18 tuổi và trên 18 tuổi mà mỗi bị can, bị cáo bị truy tố theo khung hình phạt khác nhau thì Chánh án Tòa án nơi xét xử vụ án quyết định vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa chuyên trách nào”.
2. Về công tác tổ chức Tòa Gia đình và người chưa thành niên
- việc hình thành Tòa GĐ&NCTNTổ chức Tòa Gia đình và người chưa thành niên trên phạm vi cả nước. Điều đó tại cấp huyện sẽ cho phép tăng số lượng NCTN được tiếp cận sớm hơn với hoạt động xét xử thân thiện nhằm bảo đảm lợi ích tốt nhất của họ., Ngoài ra còn một số lý do khác như việc thành lập Toà GĐ&NCTN tại cấp huyện cũng góp phần tăng khả năng áp dụng các biện pháp xử lý chuyển hướng và các hình phạt không giam giữ, cũng như khả năng áp dụng biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính đối với NCTN
- Đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán, Thư ký Tòa án của Tòa Gia đình và người chưa thành niên, đặc biệt tăng cường các lớp tập huấn, bồi dưỡng về tâm lý người chưa thành niên. Duy trì việc đào tạo, tập huấn đối với các Thẩm phán, Thư ký Tòa án để bảo đảm cập nhật liên tục và thường xuyên các kiến thức pháp luật mới phục vụ cho việc giải quyết các vụ việc liên quan đến người chưa thành niên và các kỹ năng làm việc thân thiện với người chưa thành niên. Bên cạnh tập huấn về kỹ năng xét xử các vụ án hình sự, tăng cường tập huấn về các vụ việc hôn nhân và gia đình
- Tăng cường cơ sở vật chất cho các Tòa Gia đình và người chưa thành niên, bảo đảm các Tòa có đầy đủ các phòng theo quy định của pháp luật. Đồng thời, tại các phòng phải được bố trí các trang thiết bị cần thiết theo hướng dẫn tại Công văn số 13/TANDTC-PC.
- Hoàn thiện dữ liệu thống kê, báo cáo của Tòa Gia đình và người chưa thành niên. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong thống kê dữ liệu của hệ thống Toà án để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của việc thu thập dữ liệu và khả năng thu thập, phân tách dữ liệu theo yêu cầu phục vụ cho quá trình ra quyết định chính sách liên quan tới người chưa thành niên.
3. Tăng cường hợp tác quốc tế
Trong những năm qua, công tác hợp tác quốc tế luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm đặc biệt. Do vậy, để nâng cao chất lượng xét xử, giải quyết các vụ án của Tòa Gia đình và người chưa thành niên công tác hợp tác quốc tế phải được ưu tiên.
Chuyên gia 4. Theo các kinh nghiệm quốc tế được nghiên cứu, hoạt động của Tòa GĐ&NCTN nên được hỗ trợ của một nhóm đa ngành (gồm đội ngũ nhân viên công tác xã hội, nhà tâm lý học trẻ em,…) khi cần thiết. Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC có quy định về sự tham gia của chuyên gia hoặc cán bộ tâm lý - xã hội để hỗ trợ người bị hại tham gia phiên tòa (tại phòng cách ly) . Phỏng vấn sâu với Toà GĐ&NCTN tỉnh Đồng Tháp và Tp. Hồ Chí Minh cho thấy một số hạn chế trên thực tế về việc sử dụng các chuyên gia trên thực tế, xuất phát từ thực tiễn chưa có quy định cụ thể để Toà xác định được một cá nhân là chuyên gia/cán bộ tâm lý - xã hội và hiện nay cũng chưa có Hội đồng tư vấn, chuyên gia tư vấn trong lĩnh vực hôn nhân gia đình và NCTN (bao gồm cả kinh phí dành cho thành viên của Hội đồng này). Liên quan tới việc sử dụng đội ngũ nhân viên công tác xã hội, hiện nay chưa có cơ chế rõ ràng về sự tham gia của đội ngũ nhân viên công tác xã hội cũng như cách thức mà đội ngũ này hỗ trợ Toà án (ví dụ như thu thập thông tin về điều kiện, hoàn cảnh sống của trẻ).
Theo kết quả khảo sát định lượng với các Toà GĐ&NCTN, có tới 60,9% các Toà GĐ&NCTN cho biết đang gặp khó khăn do chưa có đội ngũ nhân viên công tác xã hội để cung cấp những thông tin, tư vấn cần thiết cho Toà án để có thể ra bản án/quyết định phù hợp với lợi ích tốt nhất của NCTN, ví dụ xác định mức độ phát triển về thể chất và tinh thần, điều kiện sinh sống và giáo dục cũng như nhu cầu được hỗ trợ của NCTN trước, trong và sau quá trình tố tụng… Theo thống kê, vướng mắc này có mức độ phổ biến đứng thứ hai trong số các khó khăn, vướng mắc mà các Toà GĐ&NCTN đang gặp phải, chỉ sau khó khăn, vướng mắc về việc kinh phí, cơ sở vật chất.
Phỏng vấn sâu với Toà GĐ&NCTN tỉnh Đồng Tháp và Tp. Hồ Chí Minh cho thấy một số hạn chế trên thực tế về việc sử dụng các chuyên gia trên thực tế, xuất phát từ thực tiễn chưa có quy định cụ thể để Toà xác định được một cá nhân là chuyên gia/cán bộ tâm lý - xã hội và hiện nay cũng chưa có Hội đồng tư vấn, chuyên gia tư vấn trong lĩnh vực hôn nhân gia đình và NCTN (bao gồm cả kinh phí dành cho thành viên của Hội đồng này). Liên quan tới việc sử dụng đội ngũ nhân viên công tác xã hội, hiện nay chưa có cơ chế rõ ràng về sự tham gia của đội ngũ nhân viên công tác xã hội cũng như cách thức mà đội ngũ này hỗ trợ Toà án (ví dụ như thu thập thông tin về điều kiện, hoàn cảnh sống của trẻ).
Theo quan điểm của đại diện Bộ LĐTBXH, ngay cả ở các cơ quan LĐTBXH, vấn đề đảm bảo chuyên môn hoá cho các cán bộ LĐTBXH về hỗ trợ trẻ em và NCTN trong quá trình tố tụng cũng còn là một thách thức. Việc tập huấn cho đội ngũ cán bộ LĐTBXH tại các địa phương còn khá hạn chế, chưa được như các ngành Công an hay Kiểm sát. Các Sở LĐTBXH tại địa bàn khảo sát thực địa cũng cho biết công tác xã hội tại địa phương còn nhiều khó khăn, không phải địa phương nào cũng xây dựng được đội ngũ cộng tác viên làm công tác xã hội tại cơ sở và kinh phí bố trí hỗ trợ cho các hoạt động công tác xã hội còn hạn chế. Thực tiễn này là một thách thức khi các đối tượng cần được can thiệp, trợ giúp của công tác xã hội ngày càng tăng và không chỉ bao gồm trẻ em hay NCTN mà còn nhiều đối tượng đặc thù khác; trong khi các dịch vụ công tác xã hội lại chưa đa dạng, chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân, cơ sở vật chất, trang thiết bị của các cơ sở cung cấp dịch vụ công tác xã hội còn thiếu. Đặc biệt, đội ngũ cán bộ, nhân viên, cộng tác viên công tác xã hội còn mỏng, đa số được đào tạo từ ngành nghề khác hoặc một số ít thậm chí không được đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ. Trên thực tế chỉ có cấp tỉnh mới có cán bộ chuyên trách về công tác trẻ em, còn lại cấp huyện, cấp xã không có cán bộ chuyên trách (chỉ thực hiện kiêm nhiệm công tác trẻ em). Đại diện Bộ LĐTBXH cho biết hiện nay, một số địa phương đã có đội ngũ cộng tác viên trẻ em/dân số gia đình trẻ em như Đà Nẵng, Tp. Hồ Chí Minh, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Nghệ An với chế độ riêng cho đội ngũ này và do nguồn ngân sách địa phương chi trả trên cơ sở nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh. Cơ chế này ở các địa phương đã tận dụng được nhiều nguồn lực như những người được đào tạo về công tác xã hội, như công chức đã nghỉ hưu
Chuyên môn hoá về tư pháp cho NCTN tại TAND: Chuyên môn hoá về hoạt động tư pháp đối với lĩnh vực GĐ&NCTN thể hiện qua việc các Thẩm phán Toà GĐ&NCTN và Thẩm phán chuyên trách về GĐ&NCTN được ưu tiên xét xử các vụ việc thuộc thẩm quyền của Toà GĐ&NCTN. Theo kết quả khảo sát định lượng với các Toà GĐ&NCTN tham gia khảo sát, có 96,6% các Toà GĐ&NCTN cho biết ngoài việc xét xử các vụ án/vụ việc thuộc thẩm quyền của Toà GĐ&NCTN, các Thẩm phán Toà GĐ&NCTN có xét xử các vụ án/vụ việc khác; tương tự, cũng có 65,5% các Toà GĐ&NCTN cho biết các Thẩm phán của các Toà chuyên trách khác thuộc TAND cấp tỉnh nơi đã thành lập Toà GĐ&NCTN cũng có xét xử các vụ án/vụ việc thuộc thẩm quyền của Toà GĐ&NCTN
Thực tiễn này cho thấy thực tiễn phân công Thẩm phán xét xử tại các Toà GĐ&NCTN còn chưa thực sự đảm bảo được vấn đề chuyên môn hoá về tư pháp cho NCTN khi các Toà chuyên trách tạikhác vẫn đang xét xử các vụ việc thuộc thẩm quyền của Toà GĐ&NCTN và hầu hết các Thẩm phán Toà GĐ&NCTN đều đang xét xử các vụ việc không thuộc thẩm quyền của Toà GĐ&NCTN.
Xây dựng Luật Tư pháp người chưa thành niên: Hiện nay, việc xử lý người chưa thành niên được thực hiện theo hai hệ thống pháp luật hành chính và hình sự với sự độc lập nhất định dẫn đến tình trạng không nhất quán trong chính sách xử lý nên không phát huy được tính răn đe, trừng trị, giáo dục người chưa thành niên phạm tội, đồng thời còn gây khó khăn trong công tác giải quyết những vụ án mà người chưa thành niên là tội phạm hoặc những vụ án mà người chưa thành niên là bị hại.
Do đó, để kịp thời khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực tiễn, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xét xử của Tòa Gia đình và người chưa thành niên thì trong thời gian tới cần nghiên cứu, xây dựng Luật Tư pháp người chưa thành niên theo hướng quy định các biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng đối với người chưa thành niên và xử lý hình sự đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật; trình tự, thủ tục đối với người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng trong tố tụng hình sự trong một dự thảo luật để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ. Việc xây dựng Luật Tư pháp người chưa thành niên sẽ góp phần khắn phục những hạn chế, bất cập trong khung pháp luật hiện hành, đồng thời giúp hệ thống pháp luật Việt Nam tiệm cận hơn nữa các thực tiễn tốt quốc tế
1.Chuyên gia 5. Về nội dung khuyến nghị đề nghị sửa như sau:
Căn cứ theo những kết quả đánh giá và nghiên cứu, cũng như các khuyến nghị của Uỷ ban về Quyền Trẻ em số CRC/C/VNM/CO/5-6 ngày 19/09/2022 đối với báo cáo định kỳ lần 5 và 6 của Việt Nam, các khuyến nghị sau đây được đưa ra nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Toà GĐ&NCTN và tiến tới mở rộngtiếp tục hình thành Toà GĐ&NCTN và đội ngũ Thẩm phán chuyên trách về GĐ&NCTN trên cả nước:
Thứ nhất, cần chú trọng nâng cao năng lực chobảo đảm rằng các Thẩm phán Toàcủa Tòa GĐ&NCTN, Thẩm phán chuyên trách về GĐ&NCTN và, cũng như các Thẩm phán khác có tham gia xét xử các vụ án, giải quyết các vụ việc có liên quan tớiđến NCTN theo hướng thúc đẩy nhanh việc hoàn thànhđều được trang bị các kiến thức và kỹ năng chuyên sâu về tư pháp NCTN. Để thực hiện được mục tiêu này, trước mắt cần xây dựng một chương trình đào tạotập huấn cơ bản về tư pháp NCTN, tổ chức tập huấn rộng rãi và chuyên sâu cho Thẩm phán. Đảm bảobảo đảm rằng tất cả các Thẩm phán Toà GĐ&NCTN, Thẩm phán chuyên trách về GĐ&NCTN, cũng như các Thẩm phán khác có xét xử các vụ án, vụ việc liên quan tới NCTN đều có chứng chỉ hoàn thành các chương trình đào tạo này. Duytập huấn này. Tiếp theo, cần xây dựng các chương trình tập huấn chuyên sâu về các lĩnh vực cụ thể liên quan đến NCTN phạm tội, NCTN là người bị hại, người làm chứng… cho Thẩm phán. Cần duy trì việc tập huấn và bồi dưỡng thường xuyên đối với các Thẩm phán Toà GĐ&NCTN, Thẩm phán chuyên trách về GĐ&NCTN và các Thẩm phán khác có xét xử các vụ án, vụ việc liên quan tới NCTN để đảm bảo cập nhật liên tục các kiến thức, kỹ năng phục vụ cho quá trình giải quyết các vụ việc liên quan tới NCTN. Tiếp tục nâng cao tính thiết thực và phù hợp của các chương trình đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng, chú trọng vào các kiến thức xã hội, chuyên ngành liên quan tới GĐ&NCTN (sự phát triển của NCTN, tâm lý, khoa học giáo dục, nhạy cảm giới…) và kỹ năng làm việc thân thiện với NCTN trong quá trình tố tụng. Cũng cần lưu ý cả vấn đềxây dựng các chương trình đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn về tư pháp người chưa thành niên cho Thư ký Toà án, Thẩm tra viên bên cạnh Thẩm phán.
Thứ hai, đẩy mạnh việc bổ nhiệm Thẩm phán chuyên trách về GĐ&NCTN tại các TAND chưa đủ điều kiện thành lập Toà GĐ&NCTN và thành lập Toà GĐ&NCTN tại các TAND đã đủ điều kiện thành lập Toà GĐ&NCTN, đặc biệt tại cấp sơ thẩm. Đảm bảo tính chuyên trách của các Thẩm phán về GĐ&NCTN tại các Toà GĐ&NCTN và các TAND khác nơi chưa đủ điều kiện thành lập Toà GĐ&NCTN. Cân đối thêm về vấn đề Cần lưu ý rằng, Thẩm phán chuyên trách về GĐ&NCTN vẫn có thể giải quyết, xét xử các loại án khác, tuy nhiên, các vụ việc, vụ án liên quan đến NCTN thì phải do Thẩm phán chuyên trách về GĐ&NCTN giải quyết, xét xử. Ở những địa phương chỉ đủ điều kiện hình thành Tòa chuyên trách về dân sự và hình sự, có thể cân nhắc phân công Thẩm phán chuyên trách về GĐ&NCTN ngay trong Tòa dân sự, Toà hình sự. Cần cân nhắc để giải quyết hài hòa chính sách luân chuyển cán bộ và tỷ lệ , áp lực đối với Thẩm phán về vấn đề huỷ, sửa án để đảm bảotrong mối quan hệ với nâng cao tính chuyên nghiệp, chuyên trách trong hoạt động xét xử của các Thẩm phán. TăngTiếp tục rà soát để xác định những thực tiễn tốt về việc thành lập và hoạt động của Toà GĐ&NCTN cũng như về phân công Thẩm phán chuyên trách về GĐ&NCTN để nhân rộng tại các TAND khác.
Thứ ba, tăng cường việc áp dụng các biện pháp xử lý chuyển hướng hay các biện pháp thay thế bên cạnh việc tiếp tục duy trì thực hiện tốt các thủ tục tố tụng thân thiện và bảo đảm cân nhắc lợi ích tốt nhất của NCTN khi ra quyết định, bản án. Vấn đề này phù hợp với các khuyến nghị của Uỷ ban về Quyền Trẻ em số CRC/C/VNM/CO/5-6 ngày 19/09/2022 đối với báo cáo định kỳ lần 5 và 6 của Việt Nam về việc áp dụng các biện pháp không giam giữ đối với trẻ em bất cứ khi nào có thể theo quy định của BLHS.
2. Khuyến nghị thứ 6 đề nghị bổ sung nội dung
Thứ sáu, tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách nói chung, bao gồm ban hành các văn bản hướng dẫn để giải quyết các vướng mắc trong quá trình thành lập và hoạt động của Toà GĐ&NCTN (như điều kiện thành lập, hướng dẫn về phòng xét xử...), sửa Luật Trẻ em 2016 để quy định trẻ em là người dưới 18 tuổi, thống nhất các thuật ngữ về trẻ em/NCTN/người dưới 18 tuổi trong các văn bản quy phạm pháp luật. Đặc biệt, cần xây dựng và ban hành.
3. Đề nghị bổ sung các bài học kinh nghiệm sau
•      Bài học kinh nghiệm 1: Việc tham khảo các chuẩn mực quốc tế về tư pháp cho NCTN và thực tiễn tốt từ các quốc gia khác với sự hỗ trợ từ các tổ chức như UNICEF là rất hữu ích trong quá trình xây dựng chế định Toà chuyên trách về GĐ&NCTN. Để tiệm cận hơn nữa với các chuẩn mực, thông lệ tốt quốc tế, cần thiết xem xét bổ sung hoặc mở rộng một số quy định cụ thể, điển hình như việc bổ sung vai trò của nhân viên công tác xã hội trong quá trình tố tụng hay sắp xếp lịch xét xử hợp lý để những phiên tòa liên quan đến NCTN được tiến hành trong những ngày riêng.
•      Bài học kinh nghiệm 2: Việc các quy định về Toà GĐ&NCTN đang nằm rải rác ở nhiều văn bản pháp luật, văn bản hướng dẫn khác nhau và có một số điểm chưathể tạo ra các vướng mắc về tính đồng bộ, thống nhất hoặc chưa được rõ ràng; hay nhu cầu của GĐ&NCTN chưa thực sự được đáp ứng đầy đủ khicác văn bản. Cần tránh trường hợp ban hành quy định pháp luật hướng dẫn về điều kiện thành lập Toà GĐ&NCTN chưa được tổ chứcthực sự rõ ràng và sau đó có các văn bản hướng dẫn đặt ra điều kiện cụ thể cao hơn, ảnh hưởng tới việc mở rộng Toà GĐ&NCTN tới cấp huyện. Bên
•      Bài học kinh nghiệm 3: Việc cân nhắc tính đặc thù trong nhu cầu và tính dễ bị tổn thương của phụ nữ, trẻ em là rất cần thiết trong việc xây dựng chế định Toà GĐ&NCTN cũng như thực tế xét xử tại các Toà GĐ&NCTN. Việc triển khai Toà GĐ&NCTN tới cấp huyện là yếu tố then chốt giúp mở rộng đối tượng tiếp cận với tư pháp thân thiện cho NCTN.
•      Bài học kinh nghiệm 4: Việc tăng cường kiến thức chuyên ngành, xã hội liên quan tới NCTN sẽ giúp đảm bảo tốt hơn vấn đề bình đẳng và khía cạnh giới trong hoạt động tố tụng, từ đó, việc chưa hình thành đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên chuyên trách và thiếu quy chế  giúp đỡ tạo điều kiện cho sự phát triển của trẻ em và NCTN. Cần quan tâm hơn nữa tới việc tăng cường mức độ đồng đều, chuyên sâu và thiết thực của các nội dung đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng để tăng tính hiệu quả của hoạt động xét xử của Thẩm phán.
•      Bài học kinh nghiệm 5: Để tăng cường hiệu quả giải quyết các vụ việc có sự tham gia của NCTN, cần có sự phối hợp chính thức giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với các cơ quan, tổ chức khác, đặc biệt là sự thiếu vắng của, tổ chức ở cấp Trung ương và cấp địa phương và phối hợp xuyên suốt quá trình trước tố tụng, trong tố tụng và sau tố tụng. Cần giải quyết được thách thức nhất định trong việc xây dựng và thực thi các quy chế phối hợp, không chỉ giữa các cơ quan tố tụng với nhau mà với cả với các cơ quan, tổ chức khác. Vấn đề chuyên môn hoá nên được đảm bảo xuyên suốt các giai đoạn điều tra - truy tố - xét xử và nên xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách tại các cơ quan điều tra và Viện kiểm sát để đảm bảo vấn đề này.
•      Bài học kinh nghiệm 6: Việc cân đối lại biên chế giữa các cấp Toà là rất cần thiết. Phương án bố trí Thẩm phán chuyên trách về GĐ&NCTN dường như là phương án hợp lý đối với các Toà cấp tỉnh có số lượng biên chế ít cũng như các Toà cấp huyện. Bên cạnh đó, cũng có thể cân nhắc tới việc phân công Thẩm phán chuyên trách về GĐ&NCTN ngay trong Toà chuyên trách về hình sự hoặc dân sự. Việc luân chuyển cần được xem xét sửa đổi theo hướng luân chuyển giữa các Toà chuyên trách về GĐ&NCTN thay vì giữa Toà GĐ&NCTN với các Toà chuyên trách khác để nâng cao hiệu suất xét xử, tránh lãng phí nguồn lực.
•      Bài học kinh nghiệm 7: Việc hình thành một đội ngũ nhân viên công tác xã hội được đào tạo bài bản để hỗ trợ trẻ em và NCTN trong hoạt động tố tụng cũng là một thách thức đáng kể đối với quá trình giải quyết các vụ việc có sự tham gia của NCTN. Cuối cùng, một số hạn chế khác cũng cần được lưu ý trongvề làm việc với trẻ em và NCTN để tham gia vào các vụ việc liên quan tới NCTN với các cơ quan tố tụng là rất cần thiết để bổ sung hoặc thay thế cho sự tham gia của đội ngũ công chức ngành LĐTBXH ở cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh hiện nay. Quá trình thúc đẩy sử dụng dịch vụ công tác xã hội của các Toà GĐ&NCTN có thể tham khảo phương thức xây dựng đội ngũ cộng tác viên trẻ em/dân số gia đình trẻ em mà một số địa phương hiện nay đang chủ động thực hiện.
•      Bài học kinh nghiệm 8: Cần có những đổi mới về phương thức chia sẻ các thực tiễn tốt trong hệ thống Toà án để đảm bảo tính thường xuyên, kịp thời và tăng cường hiệu quả của việc chia sẻ kinh nghiệm, bao gồm cả việc rà soát và phát hiện các điển hình tốt mới xuất hiện ở các địa phương khác.
•      Bài học kinh nghiệm 9: Để đảm bảo sự bền vững và khả năng mở rộng của Toà GĐ&NCTN, đặc biệt là tới cấp huyện, cần thay đổi những yếu tố nhất định liên quan tới tổ chức hoạt động của TAND nói chung và các Toà GĐ&NCTN nói riêng. Các nội dung thay đổi nên tập trung vào cơ cấu lại tổ chức hệ thống TAND cấp huyện và cấp tỉnh để khắc phục những vướng mắc về mặt biên chế, kinh phí, đồng thời tăng tính chuyên môn hoá cho nghiệp vụ xét xử của Thẩm phán.
•      Bài học kinh nghiệm 10: Việc xây dựng và duy trì một hệ thống cơ sở dữ liệu ứng dụng CNTT về NCTN trong hoạt động tư pháp sẽ giúp ích đáng kể cho việc đánh giá thực tiễn thành lập và hoạt động của các Toà GĐ&NCTN cũng như cho việc xây dựng các kế hoạch mở rộng Toà GĐ&NCTN như: khả năng thu thập dữ liệu về NCTN, phân tách dữ liệu theo yêu cầu và sử dụng dữ liệu trong quá trình ra quyết định và chính sách; sự phù hợp của tỷ lệ huỷ, sửa án theo loại án; và mức độ phù hợp, thiết thực của các chương trình đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng liên quan tới tư pháp cho NCTN. Cần thiết có một cơ quan đầu mối phụ trách việc tổng hợp và phân tích dữ liệu về NCTN trong hoạt động tư pháp, giúp thống nhất và chuẩn hoá dữ liệu hiện đang được thu thập bởi nhiều cơ quan khác nhau.
Chuyên gia 6. 1. Sửa đổi mục 4.3. Khả năng nhân rộng các thực tiễn tốt trong quá trình thành lập và vận hành Toà GĐ&NCTN và khuyến nghị như sau:
Liên quan tới thời điểm thành lập và đi vào hoạt động của các TAND nhằm đảm bảo sự bền vững và khả năng mở rộng của Toà GĐ&NCTN
Trừ, khảo sát định lượng cho biết trừ 02 Toà GĐ&NCTN thuộc TAND cấp cao Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh được thành lập ngay từ năm 2015, kết quả khảo sát Toà GĐ&NCTN cho thấy các Toà GĐ&NCTN thuộc TAND cấp tỉnh được thành lập và đi vào hoạt động chủ yếu trong giai đoạn cuối năm 2018. Trong đó, Toà GĐ&NCTN thuộc TAND Tp. Hồ Chí Minh và TAND tỉnh Đồng Tháp là 02 Toà được thành lập và đi vào hoạt động sớm nhất từ giai đoạn 2016 - 2017. Đây cũng là 02 Toà được xác định là có nhiều thực tiễn tốt trong quá trình thành lập và vận hành Toà GĐ&NCTN. Các Toà án này đã được chuẩn bị kỹ lưỡng từ nhân sự, cơ sở vật chất, tổ chức rất khoa học, phù hợp với chuẩn mực quốc tế theo khuyến nghị của UNICEF.
Toà GĐ&NCTN tạithuộc TAND Tp. Hồ Chí Minh đảm bảo cơ sở vật chất với phòng xử án thân thiện và(riêng biệt), phòng xử án hình sự (riêng biệt) và phòng xử án dân sự (riêng biệt), cùng với 04 phòng chức năng là (i) Phòng trẻ em; (ii) Phòng Tư vấn - Hòa giải; (iii) Phòng trợ giúp y tế; (iv) Phòng giám sát tâm lý trẻ em. Trong đó các phòng chức năng xử và Phòng Trẻ em được trang bị khá đầy đủ, như có hệ thống camera quan sát tại phòng xử án và phòng trẻ em cũng nhưđể phục vụ cho việc chăm sóc trẻ em, tư vấn, hòa giải và xét xử vụ án; Phòng Giám sát tâm lý trẻ được gắn kính quan sát một chiều tại phòng giám sát tâm lý trẻ em. để qua đó Tòa án, chuyên gia tâm lý có thể quan sát được các hoạt động đang diễn ra trong phòng, đánh giá mức độ, biểu hiện tâm lý, tình cảm của trẻ với cha mẹ mình trên thực tế, thông qua việc trẻ tiếp xúc với cha mẹ hoặc tiếp xúc với các chuyên gia tâm lý, mục đích tạo điều kiện phục vụ cho việc giải quyết các vụ án ly hôn có tranh chấp nuôi con và tranh chấp nuôi con sau khi ly hôn mà có khó khăn khi phải quyết định giao trẻ cho ai nuôi dưỡng, nhất là khi cả cha và mẹ đều hội đủ các điều kiện để chăm sóc con như nhau hoặc khi trẻ không thể lựa chọn được sẽ ở với ai hoặc khi cha mẹ có tác động lên trẻ để trẻ nghiêng về phía mình... Phòng Trẻ em được trang trí và sơn các màu sắc tươi sáng, ngộ nghĩnh, đồ đạc trong phòng được bố trí thân thiện với trẻ em, có đồ chơi, bàn ghế, sách báo... phù hợp với lứa tuổi của trẻ em để trẻ có cảm giác gần gũi, tự tin bộc lộ cảm xúc. Việc hỏi ý kiến của trẻ em cũng được thực hiện trong phòng này để trẻ tự do thể hiện ý kiến của mình mà không bị sức ép tâm lý từ người cha hoặc người mẹ, đây cũng là nơi chăm sóc, trông giữ trẻ trong những trường hợp cần thiết khi Tòa án giải quyết các vụ việc ly hôn. Phòng Trợ giúp y tế được trang bị 01 giường nằm và tủ thuốc y tế để có thể hỗ trợ về y tế. Ngoài ra còn có phòng dành riêng cho vợ chồng trong các vụ án hôn nhân và gia đình để có không gian riêng trao đổi trước khi đưa ra các quyết định tại Tòa án. Phòng này được trang bị đầy đủ các loại sách pháp luật cơ bản, các loại sách về gia đình, về trẻ em, cách thức nuôi dạy trẻ... mang tính tham khảo.
2. Mục 4.4. Nhận định về bố trí kinh phí, cơ sở vật chất cho các Toà chuyên trách sự cần thiết thành lập Toà GĐ&NCTN và khuyến nghị của các TAND nhằm đảm bảo sự bền vững và khả năng mở rộng của Toà GĐ&NCTN sửa đổi như sau:
Các kết quả khảo sát định lượng đối với các Toà GĐ&NCTN và các Toà nơi chưa thành lập Toà GĐ&NCTN vềCác kết quả khảo sát định lượng cho thấy có 82,8% Toà GĐ&NCTN, 62,5% TAND cấp tỉnh và 60,8% TAND cấp huyện tham gia khảo sát khẳng định sự cần thiết của việc thành lập Toà GĐ&NCTN tại TAND cấp huyện vì đa số vụ việc/vụ án được giải quyết/xét xử sơ thẩm tại TAND cấp huyện. Việc hình thành Tòa GĐ&NCTN tại cấp huyện sẽ cho phép tăng số lượng NCTN được tiếp cận sớm hơn với hoạt động xét xử thân thiện nhằm bảo đảm lợi ích tốt nhất của họ (91,7% Toà GĐ&NCTN và 100% Toà cấp tỉnh, cấp huyện khẳng định lý do này
3. Bổ sung tiểu kết tiêu chí đánh giá về tính bền vững/khả năng mở rộng như sau:
•  Khung pháp luật về Toà GĐ&NCTN tương đối đầy đủ. Tuy nhiên các quy định lại đang nằm rải rác ở nhiều văn bản pháp luật, văn bản hướng dẫn khác nhau. Các tiêu chí xác định điều kiện tổ chức Tòa chuyên trách chưa thực sự rõ ràng, dẫn tới các cách hiểu không thống nhất. Đặc biệt, Công văn số 798/TANDTC-TCCB đang đặt ra yêu cầu cao hơn so với quy định tại Thông tư số 01/2016/TT-CA và đây có thể là một lý do mà việc mở rộng Toà GĐ&NCTN tới cấp huyện còn chưa được thực hiện.
•  Hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung và thiết chế Toà GĐ&NCTN nói riêng đã khá tương thích với các chuẩn mực, thông lệ tốt quốc tế về tư pháp cho NCTN. Một số trường hợp mới đáp ứng được một phần nhất định của các chuẩn mực, thông lệ tốt quốc tế xuất phát từ việc quy định của pháp luật Việt Nam mới chỉ áp dụng đối với một nhóm vụ án nhất định hoặc chưa có quy định tương ứng, điển hình với việc thiếu quy định về vai trò của nhân viên công tác xã hội trong quá trình tố tụng.
•  Nâng cao năng lực của các Thẩm phán là yếu tố rất quan trọng trong việc mở rộng Toà GĐ&NCTN và đảm bảo chất lượng xét xử của Toà này. Các kết quả khảo sát cho thấy dù ở Toà GĐ&NCTN hay ở các TAND cấp tỉnh, TAND cấp huyện nơi chưa thành lập Toà GĐ&NCTN thì nhu cầu được trang bị, nâng cao kiến thức là rất lớn, đặc biệt về kiến thức xã hội, chuyên ngành liên quan tới gia đình và NCTN (sự phát triển của NCTN, tâm lý, khoa học giáo dục, nhạy cảm giới…) và kỹ năng làm việc thân thiện với NCTN trong quá trình tố tụng. Đây là những nội dung mà TANDTC nên chú trọng trong việc xây dựng kế hoạch nâng cao năng lực cho Thẩm phán và các chức danh khác trong hệ thống Toà án.
•  Đã có những thực tiễn tốt về thành lập và hoạt động Toà GĐ&NCTN như Toà GĐ&NCTN  thuộc TAND Tp. Hồ Chí Minh và TAND tỉnh Đồng Tháp liên quan tới việc đảm bảo cơ sở vật chất và trình độ chuyên môn của Thẩm phán, Thư ký Toà. Mặc dù còn gặp nhiều vướng mắc liên quan tới biên chế nhân sự và cả cơ sở vật chất, thực tiễn tốt về thành lập và hoạt động của 02 Toà GĐ&NCTN này cần tiếp tục được nhân rộng và chia sẻ tới các địa phương khác. Phương thức chia sẻ các thực tiễn tốt trong hệ thống Toà án cũng có thể cần đổi mới hơn nữa về phương thức triển khai để đảm bảo tính thường xuyên, kịp thời và tăng cường hiệu quả của việc chia sẻ kinh nghiệm, bao gồm cả việc rà soát và phát hiện các điển hình tốt mới xuất hiện ở các địa phương khác.
•  Để đảm bảo sự bền vững và khả năng mở rộng của Toà GĐ&NCTN, đặc biệt là tới TAND cấp huyện, cần thay đổi những yếu tố nhất định liên quan tới tổ chức hoạt động của TAND nói chung và các Toà GĐ&NCTN nói riêng. Các nội dung thay đổi nên tập trung vào cơ cấu lại tổ chức hệ thống TAND cấp huyện và TAND cấp tỉnh để khắc phục những vướng mắc về mặt biên chế, kinh phí, đồng thời tăng tính chuyên môn hoá cho nghiệp vụ xét xử của Thẩm phán. Đồng thời, hệ thống pháp luật hướng dẫn về tổ chức hoạt động của Toà GĐ&NCTN cũng như pháp luật tố tụng cũng cần được hoàn thiện. Những thay đổi này nếu kết hợp với việc tăng cường chuyên môn hoá tại các cơ quan tiến hành tố tụng khác cũng như các tổ chức, cơ quan khác tham gia vào quá trình giải quyết các vụ việc có sự tham gia của NCTN sẽ giúp nâng cao tính hiệu quả trong cơ chế phối hợp đa ngành giữa tất cả các cơ quan, tổ chức có liên quan để thúc đẩy tiếp cận tư pháp với NCTN.
4. Sửa đổi mục 4.1. Sự đầy đủ và phù hợp của các văn bản pháp luật và các hướng dẫn như sau:
Khảo sát các TAND cho thấy còn một số hạn chế về mặt pháp luật cần được khắc phục để đảm bảo thuận lợi cho việc mở rộng Toà GĐ&NCTN trên cả nước. Trước hết, vấn đề tiêu chí xác định điều kiện tổ chức Tòa chuyên trách chưa thực sự rõ ràng dẫn tới các cách hiểu không thống nhất, như:
-  Với tiêu chí “Số lượng vụ việc mà Tòa án thụ lý, giải quyết thuộc thẩm quyền của Tòa chuyên trách theo quy định tại Điều 3 Thông tư này phải từ 50 vụ/năm trở lên”  : Có ý kiến cho rằng nên làm rõ tiêu chí này áp dụng với một năm liền trước thời điểm đề xuất hay một số năm liền trước, và có cho phép tính trung bình của nhiều năm hay không . 19% Toà GĐ&NCTN tham gia khảo sát cho biết đã gặp khó khăn, vướng mắc vào giai đoạn thành lập do điều kiện “Số lượng vụ việc mà Tòa án thụ lý, giải quyết thuộc thẩm quyền của Tòa chuyên trách phải từ 50 vụ/năm trở lên” chưa thực sự rõ ràng.
Tiêu chí “Có biên chế Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án đáp ứng được yêu cầu tổ chức Tòa chuyên trách”  : Có ý kiến cho rằng điều kiện này được hiểu là một Thẩm phán, một Thẩm tra viên, một Thư ký làThời gian qua, để thúc đẩy sự hình thành và vận hành tòa gia đình và NCTN, đã có nhiều văn bản được ban hành có quy định cụ thể về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền… của Toà GĐ&NCTN, cụ thể bao gồm các văn bản sau (sắp xếp theo thời gian ban hành):
•  Luật Tổ chức TAND số 62/2014/QH13 ngày 24/11/2014;
•  Nghị quyết số 81/2014/QH13 ngày 24/11/2014 của Quốc hội về việc thi hành Luật Tổ chức TAND;
•  Chỉ thị số 04/2014/CT-CA ngày 31/12/2014 của Chánh án TANDTC về triển khai thi hành Luật Tổ chức TAND;
•  Thông tư số 01/2016/TT-CA ngày 21/01/2016 của Chánh án TANDTC quy định việc tổ chức các Tòa chuyên trách tại TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương;
•  Công văn số 99/TANDTC-PC ngày 12/04/2016 của TANDTC hướng dẫn Tòa án các cấp triển khai thực hiện việc tổ chức Tòa GĐ&NCTN;
•  Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC ngày 28/07/2017 của Chánh án TANDTC quy định về phòng xử án;
•  Thông tư số 02/2017/TT-TANDTC ngày 28/07/2017 của Chánh án TANDTC ban hành Quy chế tổ chức phiên toà;
•  Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC ngày 21/09/2018 của Chánh án TANDTC quy định chi tiết việc xét xử vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi thuộc thẩm quyền của Tòa GĐ&NCTN;
•  Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP ngày 01/10/2019 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng quy định tại các Điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của BLHS và việc xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi;
•  Công văn số 13/TANDTC-PC ngày 24/02/2020 hướng dẫn bố trí trang thiết bị cần thiết cho Tòa GĐ&NCTN;
•  Quyết định số 454/QĐ-TANDTC ngày 15/12/2020 của Chánh án TANDTC về việc ban hành hệ thống sổ nghiệp vụ và biểu mẫu thống kê về hòa giải, đối thoại tại tòa án; sổ nghiệp vụ, biểu mẫu thống kê sử dụng cho Tòa GĐ&NCTN.
-  Các kết quả rà soát và đánh giá cho thấy khung pháp luật về Toà GĐ&NCTN tương đối đầy đủ hay cần phải có số lượng cụ thể là bao nhiêu biên chế thì mới được tổ chức . 14,3% Toà GĐ&NCTN tham gia khảo sát cho biết đã gặp khó khăn, vướng mắc vào giai đoạn thành lập do điều kiện “Có biên chế Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án đáp ứng được yêu cầu tổ chức Tòa chuyên trách” chưa thực sự rõ ràng.
-  Trong trường hợp Tòa chuyên trách đã được tổ chức nhưng sau đó số lượng vụ án (50 vụ/năm) hoặc biên chế biến động tăng, giảm khác nhau có thuộc trường hợp “không đáp ứng đủ điều kiện tổ chức Tòa chuyên trách” phải giải thể theo quy định tại Điều 6 Thông tư số 01/2016/TT-CA hay không là những vấn đề cần nghiên cứu.
Như đã phân tích ở trên, có một tỷ lệ nhất định các Toà GĐ&NCTN và Toà cấp tỉnh, cấp huyện cho rằng các TAND đã đủ cả 02 điều kiện về biên chế và số lượng vụ việc để thành lập Toà GĐ&NCTN, nhưng, tuy nhiên các quy định lại chưa thành lập Toà chuyên trách này (xem Hình 11 tại mục 3.1). Một nguyên nhân cụ thể khác dẫn tới việc chưa thành lập Toà GĐ&NCTN là do chưa đủ 1.000 án các loại/năm theo hướng dẫn tại Công văn số 798/TANDTC-TCCB ngày 29/10/2018 về việc thực hiện Quyết định số 1801/QĐ-TCCB ngày 15/10/2018 của Chánh án TANDTC về tổ chức các Toà chuyên trách (gọi tắt là "Công văn 798"). Công văn này hướng dẫn một số nội dung như sau :
-  Đối với TAND cấp huyện có số lượng vụ, việc cần giải quyết dưới 700 vụ, việc/năm thì không tổ chức tòa chuyên trách. Nếu vụ, việc cần giải quyết từ 700 vụ, việc đến dưới 1.000 vụ, việc/năm được tổ chức 02 Tòa chuyên trách gồm Tòa dân sự và hình sự, có Chánh tòa chuyên trách. Nếu vụ, việc cần giải quyết từ 1.000 vụ, việc đến dưới 2.000 vụ, việc/năm thì được tổ chức 03 Tòa chuyên trách gồm Tòa dân sự, hình sự, GĐ&NCTN, có Chánh tòa chuyên trách. Còn nếu vụ, việc cần giải quyết từ 2.000 vụ, việc/năm trở lên được tổ chức 04 Tòa chuyên trách gồm dân sự, hình sự, hành chính, gia đình và NCTN, có Chánh tòa và 01 Phó Chánh tòa chuyên trách. Ngoài ra số lượng vụ, việc mà Tòa án thụ lý, giải quyết thuộc thẩm quyền của Tòa chuyên trách phải từ 50 vụ, việc/năm trở lên; có biên chế thẩm phán, thư ký, thẩm tra viên đáp ứng được yêu cầu mới được tổ chức Tòa chuyên trách.
-  TANDTC không tổ chức Tòa chuyên trách; các TAND cấp cao và TAND cấp tỉnh được tổ chức Tòa chuyên trách theo luật định.
Theo đó, có thể thấy rằng các hướng dẫn của TANDTC theo Công văn số 798 đang đặt ra yêu cầu cao hơn so với quy định tại Thông tư 01/2016/TT-CA. Đây có thể là một lý do mà việc mở rộng Toà GĐ&NCTN tới cấp huyện còn chưa được thực hiện.
Bên cạnh vướng mắc của cácđang nằm rải rác ở nhiều văn bản pháp luật và, văn bản hướng dẫn về tổ chức Toà chuyên trách, một số văn bản quy phạm pháp luật đang sử dụng chưa thống nhất các thuật ngữ bao gồm “trẻ em” (là người dưới 16 tuổi theo Luật Trẻ em 2016 ), “người chưa thành niên” (là người chưa đủ 18 tuổi theo Bộ luật Dân sự 2015 , được sử dụng trong Bộ luật TTDS  và Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012, sửa đổi bổ sung năm 2020 ), “người dưới 18 tuổi” (được sử dụng trong Bộ luật TTHS ). Năm 2019, Ủy ban Nhân quyền cũng đã có khuyến nghị đối với Báo cáo quốc gia thực thi Công ước ICCPR lần thứ 3 của Việt Nam, trong đó có khuyến nghị về việc sửa đổi khung pháp lý để định nghĩa tuổi trẻ em là người đến 18 tuổi theo các chuẩn mực quốc tế . 47,8% Toà GĐ&NCTN tham gia khảo sát cho biết các Toà này đang gặp khó khăn, vướng mắc về mặt chuyên môn, nghiệp vụ trong quá trình xét xử xuất phát từ một sốkhác nhau. Điều này có thể dẫn tới khó khăn nhất định trong việc đảm bảo sự đồng bộ giữa các quy định pháp luật chưa rõ ràng, chưa thống nhất, trong đó có vướng mắc xuất phát từ sự chưa thống nhất thuật ngữ “người chưa thành niên”, “trẻ em”, “người dưới 18 tuổi” trong các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan…
Một số vướng mắc khác như xác định người bị hại là người dưới 18 tuổi “bị tổn thương nghiêm trọng về tâm lý hoặc cần sự hỗ trợ về điều kiện sống, học tập do không có môi trường gia đình lành mạnh như những người dưới 18 tuổi khác”; vướng mắc trong việc xác định thế nào là “người đã được đào tạo”, “người có kinh nghiệm” và “có hiểu biết cần thiết” đối với chủ thể tiến hành tố tụng vụ án có người dưới 18 tuổi tham gia tố tụng. Vướng mắc này cũng xuất hiện tại các cơ quan điều tra khi chưa có phương thức xác định những người phụ trách giải quyết các vụ việc có sự tham gia của NCTN đã đáp ứng các tiêu chuẩn về kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm cần thiết hay chưa.
Cácvà tính thống nhất, hiệu quả trong quá trình thực thi. Phỏng vấn sâu với một số Toà GĐ&NCTN cho thấy các văn bản hướng dẫn liên quan tới phòng xét xử của Toà GĐ&NCTN cũnghiện nay có những điểm chưa được thống nhất. Cụ thể, Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP yêu cầu khi xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi, Tòa án phải thực hiện xử án tại phòng xét xử thân thiện theo đúng quy định tại Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC và Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC . Trong khi đó, Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC quy định: "Vụ án hình sự mà bị cáo là người từ đủ 18 tuổi trở lên nhưng người bị hại là người dưới 18 tuổi bị tổn thương nghiêm trọng về tâm lý hoặc cần sự hỗ trợ về điều kiện sống, học tập do không có môi trường gia đình lành mạnh như những người dưới 18 tuổi khác" là một trong những vụ án hình sự thuộc thẩm quyền của Toà GĐ&NCTN xét xử tại phòng xử án hình sự . Ngoài raBên cạnh đó, hướng dẫn về việc bố trí phòng xét xử thân thiện, mô hình phòng xử án và giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa GĐ&NCTN quy định tại Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC chưa thể hiện được rõ đặc trưng "sắp xếp theo hình thức bàn tròn" , chưa bố trí vị trí của bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người bảo vệ quyền lợi của những đương sự này khi tham gia phiên tòa. Một số Toà GĐ&NCTN cũng cho biết còn gặp khó khăn về việc chưa có hướng dẫn đối với các phiên tòa vừa có bị cáo là NCTN, vừa có bị cáo là người trưởng thành.
Các kết quả nghiên cứu tài liệu và khảo sát định lượng với các Toà GĐ&NCTN cũng cho thấy còn một số hạn chế liên quan tới các tiêu chí xác định điều kiện tổ chức Tòa chuyên trách chưa thực sự rõ ràng, dẫn tới các cách hiểu không thống nhất, như:
-  Với tiêu chí “Số lượng vụ việc mà Tòa án thụ lý, giải quyết thuộc thẩm quyền của Tòa chuyên trách theo quy định tại Điều 3 Thông tư này phải từ 50 vụ/năm trở lên”  : Có ý kiến cho rằng nên làm rõ tiêu chí này áp dụng với một năm liền trước thời điểm đề xuất hay một số năm liền trước, và có cho phép tính trung bình của nhiều năm hay không . 19% Toà GĐ&NCTN tham gia khảo sát định lượng cho biết đã gặp khó khăn, vướng mắc vào giai đoạn thành lập do điều kiện “Số lượng vụ việc mà Tòa án thụ lý, giải quyết thuộc thẩm quyền của Tòa chuyên trách phải từ 50 vụ/năm trở lên” chưa thực sự rõ ràng.
-  Tiêu chí “Có biên chế Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án đáp ứng được yêu cầu tổ chức Tòa chuyên trách”  : Có ý kiến cho rằng điều kiện này được hiểu là một Thẩm phán, một Thẩm tra viên, một Thư ký là đủ hay cần phải có số lượng cụ thể là bao nhiêu biên chế thì mới được tổ chức . 14,3% Toà GĐ&NCTN tham gia khảo sát định lượng cho biết đã gặp khó khăn, vướng mắc vào giai đoạn thành lập do điều kiện “Có biên chế Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án đáp ứng được yêu cầu tổ chức Tòa chuyên trách” chưa thực sự rõ ràng.
-  Trong trường hợp Tòa chuyên trách đã được tổ chức nhưng sau đó số lượng vụ án (50 vụ/năm) hoặc biên chế biến động tăng, giảm khác nhau có thuộc trường hợp “không đáp ứng đủ điều kiện tổ chức Tòa chuyên trách” phải giải thể theo quy định tại Điều 6 Thông tư số 01/2016/TT-CA hay không là những vấn đề cần nghiên cứu