Tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ y tế và giáo dục của trẻ em trong các gia đình công nhân di cư làm việc tại các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội
Sign In

Tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ y tế và giáo dục của trẻ em trong các gia đình công nhân di cư làm việc tại các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội

Báo cáo này là một sản phẩm thuộc Sáng kiến “Tiếp cận dịch vụ giáo dục và y tế của trẻ em trong các gia đình công nhân di cư làm việc tại các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội”, nằm trong khuôn khổ của Quỹ Thúc đẩy Sáng kiến Tư pháp (EU JULE JIFF). EU JULE JIFF là một trong hai hợp phần của dự án “Tăng cường Pháp luật và Tư pháp tại Việt Nam” (EU JULE) do Liên minh châu Âu (EU) tài trợ. Dự án nhằm góp phần tăng cường xây dựng pháp quyền ở Việt Nam thông qua hệ thống Tư pháp tin cậy và dễ dàng tiếp cận hơn. 
Các ý kiến, phân tích và khuyến nghị trong tài liệu này là của tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm chính thức của Liên minh Châu Âu và tổ chức Oxfam tại Việt Nam.

 
 
MỤC LỤC
 
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT                                                                                                                                                3
GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ NGHIÊN CỨU                                                                                                     4
CÁC PHÁT HIỆN CHÍNH TỪ NGHIÊN CỨU                                                                                                      5
CÁC KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH                                                                                                                          7

 

 

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

 
BHYT                         Bảo hiểm y tế
KCN, KCX                Khu công nghiệp, khu chế xuất
THPT                          Trung học phổ thông
THCS                         Trung học cơ sở
TP.                              Thành phố
VAVETSOW             Hiệp hội Giáo dục nghề nghiệp và Nghề công tác xã hội
 

 

GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ NGHIÊN CỨU

Dự án tiếp cận các dịch vụ giáo dục và y tế của trẻ em trong các gia đình công nhân di cư làm việc tại các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội, do Hiệp hội Giáo dục nghề nghiệp và Nghề công tác xã hội Việt Nam (VAETSOW) thực hiện, với sự hỗ trợ của Bộ Tư Pháp, Quỹ JIFF và Oxfam với mục đích tìm hiểu, phân tích, đánh giá tình hình thực tế, phát hiện các rào cản và đưa ra các khuyến nghị đối với các cơ quan hoạch định chính sách và các bên liên quan về các giải pháp nhằm thúc đẩy việc tiếp cận dịch vụ y tế và giáo dục của trẻ em, góp phần thúc đẩy việc thực hiện quyền trẻ em, tạo sự bình đẳng giữa trẻ em là con công nhân di cư và các nhóm trẻ em khác.
      Phương pháp nghiên cứu được áp dụng chủ yếu là tiến hành rà soát chính sách và thủ tục  hành chính về cung cấp dịch vụ giáo dục và y tế cho trẻ em; Điều tra xã hội học 500 người lao động là công nhân di cư có con đi cùng trong độ tuổi 0-18; phỏng vấn sâu 10 công nhân, 10 trẻ em và 15 cán bộ địa phương; thảo luận nhóm với cha mẹ; thảo luận nhóm với trẻ em và nghiên cứu 10 trường hợp điển hình.
              Địa bàn nghiên cứu gồm 5 khu công nghiệp tại Hà Nội bao gồm:  KCN Nam Thăng Long, KCN Bắc Thăng Long, KCN Quang Minh, KCN Nội Bài và KCN Sài Đồng. Khách thể nghiên cứu của Dự án bao gồm: cha mẹ trẻ em từ 0-18 tuổi là công nhân di cư làm việc tại các khu công nghiệp; Trẻ em từ 0 - 18 tuổi trong gia đình công nhân di cư làm việc tại khu công nghiệp; cán bộ chính quyền địa phương và đơn vị cung cấp dịch vụ y tế, giáo dục địa phương.
Báo cáo khuyến nghị chính sách được xây dựng trên cơ sở rà soát các chính sách y tế, giáo dục hiện hành đối với trẻ em; các báo cáo hành chính của các cơ quan chức năng; các công trình nghiên cứu đã được công bố và đặc biệt là các phát hiện từ nghiên cứu, đánh giá thực trạng tiếp cận các dịch vụ y tế và giáo dục của trẻ em là con công nhân di cư đang làm việc tại 05 KCN trên địa bàn TP. Hà Nội.
 
 

CÁC PHÁT HIỆN CHÍNH TỪ NGHIÊN CỨU

Về Y tế, chăm sóc sức khỏe trẻ em
1. Chính sách và  hướng dẫn thực hiện chính sách, thủ tục hành chính về lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe trẻ em được ban hành khá đầy đủ, đồng bộ và chi tiết, đảm bảo điều kiện cơ bản để thực hiện quyền trẻ em về chăm sóc sức khỏe. Tuy nhiên, nhóm phụ nữ di cư và con họ chưa được xem là nhóm đặc thù trong thiết kế chính sách; thủ tục hành chính và quy định ở một số nội dung chuyển tuyến, chuyển viện, thanh toán BHYT sau khám chữa bệnh, khám thai định kỳ, chưa tạo điều kiện thuận lợi đối với phụ nữ và trẻ em. Điều này có ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận dịch vụ y tế của trẻ em, đặc biệt là tiếp cận các dịch vụ y tế có chất lượng ở các tuyến trên;
2. Do những hạn chế về chuyên môn, điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế nên việc tổ chức khám bệnh, chữa bệnh của các doanh nghiệp trong KCN vẫn chủ yếu là khám sức khỏe định kỳ, việc thăm khám thai, chăm sóc sức khỏe sinh sản cho lao động nữ ở mức đơn giản, tổng quát, chưa đáp ứng nhu cầu của lao động nữ.
3.  Năng lực cung cấp dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe của địa phương nơi có KCN có giới hạn, chỉ có thể đáp ứng cho một quy mô dân số nhất định; cùng với đó trang thiết bị y tế, số lượng nhân viên y tế, trình độ chuyên môn nghiệp vụ… khó có thể đáp ứng được nhu cầu chăm sóc sức khỏe khi quy mô dân số tăng do gia tăng nhanh số lượng người lao động di cư đến tạm trú trên địa bàn và nhu cầu cao hơn về chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe, đặc biệt là chăm sóc sức khỏe phụ nữ mang thai, trẻ em.
4. Điều kiện kinh tế khó khăn, đặc thù công việc, thời giờ làm việc của người lao động trong các KCN theo ca/kíp, nên chi phí và thời gian dành cho chăm sóc sức khỏe trẻ em rất hạn chế, chưa đảm bảo. Kết quả vẫn còn nhiều lao động nữ chưa thực hiện được việc chăm sóc thai nhi đầy đủ (trên 20%), vẫn còn hiện tượng trẻ em không được tiêm chủng đúng lịch, không được uống vitamin đầy đủ và đa số phụ nữ mang thai và trẻ em thực hiện việc chăm sóc sức khỏe chủ yếu tại các cơ sở y tế tư nhân với chất lượng dịch vụ y tế còn thấp.
5. Mức độ quan tâm, nhận thức và hiểu biết về chính sách và năng lực thực hiện các thủ tục hành chính trong lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe trẻ em của người lao động di cư cũng còn rất hạn chế là rào cản đối với việc tiếp cận dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe trẻ em, ảnh hưởng đến việc đảm bảo đầy đủ quyền trẻ em được chăm sóc sức khỏe.
Về giáo dục, học tập của trẻ em
6. Chính sách giáo dục trẻ em, thủ tục hành chính để trẻ em thụ hưởng chính sách và tiếp cận các dịch vụ giáo dục được ban hành đầy đủ, chi tiết và thực hiện khá đơn giản. Chính sách đã có sự quan tâm, tạo điều kiện đối với nhóm trẻ trong độ tuổi giáo dục mầm non, tuy nhiên chưa có sự quan tâm, tạo điều kiện cho nhóm trẻ em con của công nhân di cư ở độ tuổi giáo dục phổ thông, đặc biệt là trẻ em ở độ tuổi giáo dục THPT tiếp cận với dịch vụ. Ngoài ra, chính sách về giáo dục mầm non còn nhiều quy định chưa hợp lý, chưa đồng bộ, thiếu tính khả thi và chưa có chế tài đủ mạnh để phát huy tác dụng trong thực tế, điển hình là chính sách phát triển các cơ sở giáo dục mầm non cho con công nhân trong các KCN.
7. Trẻ em là con công nhân di cư vẫn gặp khó khăn trong việc tiếp cận dịch vụ giáo dục mầm non, đặc biệt là tiếp cận dịch vụ trông giữ trẻ nhỏ. Kết quả là còn khoảng 30% trẻ em di cư dưới 36 tháng tuổi chưa tiếp cận được với dịch vụ giáo dục mầm non, vẫn phải gửi vào các nhóm trông trẻ tự phát chưa đảm bảo tiêu chuẩn về chất lượng chăm sóc hoặc người lao động di cư phải đưa người thân từ quê lên ở cùng để trông trẻ.
8. Đến thời điểm hiện tại, trẻ em là con công nhân di cư vẫn tiếp cận được với dịch vụ giáo dục tiểu học và THCS, tuy nhiên đã xuất hiện những dấu hiệu của sự quá tải trong về cung cấp dịch vụ giáo dục ở địa phương nơi có KCN với các biểu hiện như việc tăng sỹ số học sinh trong lớp, tăng lớp học, tăng ca học.
9. Các quy định về tuyển sinh của TP. Hà Nội không thay đổi trong những năm qua, quy định về tuyển sinh đầu cấp vẫn ưu tiên đối với trẻ em có hộ khẩu thường trú có ảnh hưởng đến việc trẻ em con của công nhân tạm trú trên địa bàn tiếp cận với giáo dục phổ thông, đặc biệt quy định về tuyển sinh cấp THPT gắn chặt với quy định về hộ khẩu thường trú chưa tạo cơ hội cho trẻ em có hộ khẩu tạm trú tiếp cận với giáo dục công lập không chuyên ở cấp học này. Kết quả đa số trẻ em con công nhân di cư ở độ tuổi học PTTH đã trở về theo học tại quê nhà. Như vậy, việc tiếp cận với giáo dục của trẻ em có hộ khẩu tạm trú chưa được bình đẳng với trẻ em có hộ khẩu thường trú.
10. Sự hỗ trợ của địa phương, doanh nghiệp và công đoàn cơ sở đối với trẻ em là con công nhân di cư trong việc tiếp cận các dich vụ y tế và giáo dục đã phần nào giúp trẻ em tiếp cận tốt hơn đến dịch vụ, tuy nhiên các hoạt động hỗ trợ chưa mang tính liên tục, toàn diện và còn phụ thuộc nhiều vào điều kiện thực tế của địa phương, doanh nghiệp, công đoàn, chưa thực sự gắn chặt với trách nhiệm pháp lý của chính quyền, doanh nghiệp và công đoàn cơ sở.

 

CÁC KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH

Căn cứ vào kết quả nghiên cứu, đặc điểm, điều kiện của người lao động di cư làm việc trong các KCN, bối cảnh kinh tế xã hội, cơ sở hạ tầng của các địa phương có khu công nghiệp trên địa bàn TP. Hà Nội và những vấn đề có liên quan, có thể thấy để đảm bảo trẻ em thuộc các gia đình công nhân di cư làm việc trong các KCN được thụ hưởng đầy đủ chính sách và tiếp cận ngày càng tốt hơn đến các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe và giáo dục đối với trẻ em, Nghiên cứu này đề xuất một số khuyến nghị sau:
(i)  Về chính sách, pháp luật và tổ chức thực hiện
1. Chính sách nhà nước về lĩnh vực y tế, giáo dục cần có sự quan tâm thỏa đáng hơn đến nhóm trẻ em thuộc các gia đình người lao động di cư làm việc tại các KCN, xem xét, cân nhắc một số ưu tiên đối với trẻ em như: (i) Trẻ em theo cha mẹ di cư được quyền KCB trái tuyến và được thanh toán BHYT như đối với KCB đúng tuyến; (ii) Bỏ quy định về hộ khẩu đối với trẻ em khi tuyển sinh vào các cấp học phổ thông trên địa bàn TP. Hà Nội;
2.  Bộ Y tế, Bộ Tài chính và Bảo hiểm xã hội Việt Nam nên phối hợp, rà soát toàn diện định mức kinh tế kỹ thuật, đơn giá vật tư y tế làm cơ sở xây dựng giá dịch vụ khám, chữa bệnh BHYT phù hợp quy trình chuyên môn nghiệp vụ,  đảm bảo tính đúng, tính đủ chi phí theo quy định, đặc biệt xem xét việc quỹ BHYT thanh toán chi phí sản phẩm chuyên biệt điều trị trẻ em suy dinh dưỡng nặng cấp tính, trẻ sơ sinh non yếu, trẻ bị rối loạn dinh dưỡng nhằm tăng cường chất lượng khám, chữa bệnh và quyền lợi của trẻ em. Đồng thời, rà soát, sửa đổi quy định, hướng dẫn thủ tục liên quan đến thanh toán BHYT, đồng nhất biểu, mẫu để đảm bảo các cơ sở y tế khám chữa bệnh ghi đầy đủ thông tin trên giấy tờ xuất viện làm thủ tục thanh toán bảo hiểm xã hội được thuận lợi;
3. Bộ Y tế, Bảo hiểm xã hội Việt Nam xem xét, điều chỉnh quy định về thanh toán BHYT khám chữa bệnh trái tuyến, đặc biệt là ở tuyến tỉnh và tuyến Trung ương, quỹ Bảo hiểm y tế thanh toán 100% chi phí KCB trái tuyến đối với trẻ em thuộc các hộ gia đình người lao động di cư làm việc tại các KCN;
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội rà soát, xem xét sửa đổi, bổ sung các quy định về tuyển sinh đầu cấp đối với các cấp học phổ thông, đặc biệt là cấp THPT trên địa bàn TP. Hà Nội. Xem xét việc bỏ quy định xét tuyển 2 đợt đối với cấp Tiểu học và Trung học cơ sở như hiện nay và bỏ quy định về hộ khẩu thường trú trên địa bàn thành phố khi tuyển sinh vào các trường THPT không chuyên để tạo điều kiện và tháo gỡ rào cản đối với trẻ em con công nhân di cư làm việc trong các KCN trên địa bàn thành phố tiếp cận được với giáo dục phổ thông công lập, đảm bảo bình đẳng giữa các nhóm trẻ em sinh sống trên địa bàn thành phố;
5. Cần tổng kết, đánh giá Đề án “Hỗ trợ, phát triển nhóm trẻ độc lập tư thục ở khu vực khu công nghiệp, khu chế xuất đến năm 2020” theo Quyết định số 404/QĐ-TTg ngày 20/3/2014 của Chính phủ để rút ra bài học kinh nghiệm, tiếp tục xây dựng và thực hiện Đề án mới đến 2030 nhằm thúc đẩy sự phát triển các cơ sở giáo dục mầm non dân lập, tư thục ở địa bàn có KCN, nơi có nhiều lao động di cư;
6.  Bộ LĐTB&XH cần quan tâm và phối hợp với các bên liên quan như ngành y tế và giáo dục để tổ chức truyền thông, phổ biến chính sách y tế, chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ mang thai và trẻ em, các chương trình phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em, chương trình tiêm chủng, chính sách BHYT và các thủ tục hành chính trong lĩnh vực y tế; tuyên truyền phổ biến chính sách giáo dục, đặc biệt là giáo dục mầm non và các chính sách, quy định liên quan đến đăng ký khai sinh, tạm trú và các vấn đề về môi trường sống an toàn của trẻ em để nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi và tăng cường năng lực cho người lao động di cư làm việc trong các KCN trong việc đảm bảo tiếp cận các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe và giáo dục đối với trẻ em, thúc đẩy đảm bảo quyền trẻ em. Các hoạt động truyền thông cho đối tượng là người lao động di cư làm việc trong các KCN nên tập trung trọng tâm vào truyền thông, phổ biến các thủ tục hành chính tiếp cận dịch vụ y tế, giáo dục và môi trường sống an toàn cho trẻ em trên địa bàn phù hợp với điều kiện của người lao động và thực tế địa phương nơi người lao động và gia đình tạm trú.
(ii) Khuyến nghị đối với các địa phương có KCN và địa phương lân cận KCN
 1. UBND TP. Hà Nội khi xem xét phê duyệt, quyết định thành lập mới các khu công nghiệp, khu chế xuất cần yêu cầu doanh nghiệp, nhà đầu tư cam kết bảo đảm điều kiện thực hiện quyền của nữ công nhân mang thai và trẻ em là con của họ; yêu cầu chính quyền địa phương nơi đề xuất KCN có phương án khả thi quy hoạch cơ sở dịch vụ y tế, giáo dục, trong đó phải dự báo về nhân khẩu lao động di cư và trẻ em sẽ tăng thêm để thiết kế quy mô dịch vụ giáo dục, y tế có đủ năng lực cung cấp dịch vụ cho cả các gia đình công nhân KCN tạm trú trên địa bàn. Chỉ cấp phép cho KCN khi trong hồ sơ trình đã có đầy đủ các phương án đưa ra được đánh giá tốt và có tính khả thi. Điều này sẽ khắc phục tình trạng các KCN hoạt động và phát sinh nhu cầu rồi thì chính quyền địa phương và các ngành chức năng mới tìm cách giải quyết một cách bị động;
2. UBND TP. Hà Nội nên chỉ đạo các bên liên quan rà soát lại toàn bộ các KCN đã được quy hoạch để có những điều chỉnh cho phù hợp với thực tế, trong đó ưu tiên quỹ đất để phát triển nhà trẻ, mầm non, mẫu giáo cho con người lao động và nhà ở công nhân trong các khu công nghiệp;
3. Các xã có KCN cần xem xét và đề nghị cấp có thẩm quyền cho phép mở rộng quy mô, năng lực cung cấp dịch vụ y tế thông qua thiết lập các điểm KCB trực thuộc quản lý của trạm y tế xã hoặc trung tâm y tế huyện/quận; tăng cường nhân lực y tế , đầu tư thiết bị y tế, nâng cao chất lượng dịch vụ. Đồng thời, tăng cường thông tin đến người dân, nhất là người lao động làm việc trong các KCN tạm trú trên địa bàn về các chương trình y tế, chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em, chương trình phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em, chương trình tiêm chủng mở rộng; áp dụng công nghệ thông tin, hỗ trợ lao động nữ di cư mang thai, nuôi con nhỏ, ứng dụng công nghệ thông tin để tiếp nhận thông tin về các chương trình y tế, chăm sóc sức khỏe của địa phương, đảm bảo thông tin đến với đối tượng kịp thời, tạo điều kiện để người lao động làm việc tại các KCN trao đổi với doanh nghiệp bố trí thời gian nghỉ phù hợp, khớp với thời gian triển khai các chương trình y tế của địa phương và đưa trẻ tham gia đầy đủ;
4. Các xã có KCN cần xem xét và đề nghị cấp có thẩm quyền cho phép tăng cường năng lực cung cấp dịch vụ giáo dục, trước mắt cần tập trung tăng cường năng lực cho các cơ sở nhà trẻ, mẫu giáo, mầm non công lập hiện có thông qua việc mở thêm các điểm, cơ sở, tăng giáo viên, tăng quy mô tiếp nhận trẻ, thí điểm triển khai trông giữ trẻ ngoài giờ hành chính để hỗ trợ người lao động di cư; trong tương lai gần cũng cần quan tâm đến mở rộng quy mô và năng lực cho các trường Tiểu học và THCS công lập;
5. Các xã có KCN cần quan tâm, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để phát triển các trường Mầm non tư thục, đây là những cơ sơ mầm non có thể tổ chức được việc trông gữi trẻ nhỏ với thời gian biểu linh hoạt để người lao động có thêm lựa chọn phù hợp trong việc gửi con nhỏ, đặc biệt là đối với  người lao động di cư làm việc trong các KCN tạm trú trên địa bàn;
6. Các xã có KCN và xã lân cận KCN cần tiến hành rà soát, thống kê số lượng người di cư đến địa phương, trong đó có trẻ em, làm cơ sở để tính toán, quy hoạch hạ tầng cơ sở thiết yếu, trong đó ưu tiên mở rộng quy mô, năng lực cung cấp dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe và dịch vụ giáo dục Mầm non, Tiểu học và Trung học cơ sở;
7. Sổ tạm trú là tiền đề quan trọng để hỗ trợ và đảm bảo cho trẻ em trong các hộ gia đình người lao động di cư làm việc tại các KCN chủ động tiếp cận với các dich vụ y tế, giáo dục nơi tạm trú. Vì vậy, chính quyền các địa phương có KCN cần tăng cường vận động, tạo điều kiện và hỗ trợ người lao động tại các KCN tạm trú trên địa bàn thực hiện việc đăng ký tạm trú, cấp sổ tạm trú cho người lao động di cư với thời gian tạm trú từ 12 - 24 tháng một lần đăng ký thay cho 6 tháng một lần đăng ký để hỗ trợ người lao động di cư tiết kiệm thời gian và thuận lợi hơn trong các thủ tục hành chính khác có liên quan đến sổ tạm trú.
(iii) Khuyến nghị đối với Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, các doanh nghiệp, tổ chức Công đoàn
1.  Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tiếp tục và tăng cường chỉ đạo Công đoàn Ban quản lý các Khu công nghiệp, Khu chế xuất Hà Nội, công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp thuộc các KCN thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của Bộ Luật lao động đối với lao động nữ, chú trọng nội dung về xây dựng nhà trẻ, lớp mẫu giáo, hỗ trợ chi phí gửi trẻ, mẫu giáo đối với lao động nữ có con nhỏ; đề xuất  chính sách ưu đãi doanh nghiệp tự xây dựng nhà trẻ, trường mầm non, mẫu giáo cho con công nhân; Đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp tổ chức và nâng cao chất lượng khám sức khỏe định kỳ cho người lao động, đặc biệt là khả năng thực hiện chăm sóc sức khỏe lao động nữ mang thai;
2. Công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp cần đẩy mạnh việc thương lượng/đàm phán với người sử dụng lao động ký kết thỏa ước lao động tập thể có nội dung trợ giúp, trợ cấp đối với lao động có con gửi nhà trẻ, mầm non, mẫu giáo; tạo điều kiện và bố trí thời gian nghỉ cho lao động nữ thực hiện khám thai định kỳ và chăm sóc con nhỏ khi ốm đau;
3. Công đoàn cơ sở, ban nữ công doanh nghiệp nên được phân công nhiệm vụ làm đầu mối kết nối với chính quyền địa phương, tiếp nhận và cung cấp thông tin về chế độ, chính sách, các chương trình chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em... đến người lao động; ứng dụng công nghệ thông tin để bảo đảm mọi thông tin đến người lao động được kịp thời, đầy đủ, khắc phục tình trạng công nhân không biết đến hoặc bỏ lỡ thông tin, không tiếp cận được chính sách.
(iv) Khuyến nghị đối với người lao động di cư về chăm sóc, giáo dục trẻ em
 1. Cần chủ động tìm hiểu các quy định của chính sách liên quan tới tiếp cận dịch vụ y tế, giáo dục của bản thân và của trẻ em, tránh những thiệt thòi không đáng có do bản thân thiếu thông tin gây ra;
2. Cần chủ động thực hiện đầy đủ hướng dẫn, yêu cầu của chính quyền địa phương về thủ tục hành chính trong thời gian tạm trú tại địa phương, đặc biệt là chủ động đăng ký tạm trú để đảm bảo quyền lợi cho trẻ em trong việc tiếp cận dịch vụ y tế, giáo dục tại địa phương;
3. Cần chủ động, tích cực hòa nhập cộng đồng dân cư nơi tạm trú, tham gia vào các hoạt động xã hội tại địa phương nơi tạm trú để phát triển các quan hệ xã hội, nắm bắt thông tin qua đó chăm sóc và bảo vệ con em của mình toàn diện hơn.