Trang bản quyền
Báo cáo này là một hoạt động thuộc sáng kiến “Thúc đẩy phụ nữ có việc làm xứng đáng, an toàn và hợp pháp khi tham gia thị trường lao động ở nước ngoài thông qua cải thiện tiếp cận công lý về lao động” do Quỹ Hỗ trợ phụ nữ phát triển tỉnh Quảng Bình thực hiện nằm trong khuôn khổ của Quỹ Thúc đẩy sáng kiến Tư pháp (EU JULE JIFF). EU JULE JIFF là một trong hai hợp phần của Dự án “Tăng cường Pháp luật và Tư pháp tại Việt Nam” (EU JULE) do Liên minh Châu Âu (EU) tài trợ. Dự án nhằm góp phần tăng cường xây dựng pháp quyền ở Việt Nam thông qua hệ thống Tư pháp tin cậy và dễ dàng tiếp cận hơn.
i. Mục lục. 3
ii. Danh mục từ viết tắt 4
iv. Tóm tắt báo cáo. 7
1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CUỘC KHẢO SÁT. 11
1.1. Bối cảnh. 11
1.2. Dự án của Quỹ Hỗ trợ phụ nữ phát triển. 13
1.3. Nội dung cuộc khảo sát 13
2. RÀ SOÁT VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT. 16
2.1. Hệ thống văn bản pháp luật 16
2.2. Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài 16
2.3. Một số bất cập ở các văn bản pháp luật về lao động. 21
3. HIỆN TRẠNG LAO ĐỘNG Ở NƯỚC NGOÀI Ở VÙNG DỰ ÁN.. 26
3.1. Đặc điểm xã hội của mẫu điều tra. 26
3.2 Tiếp cận thị trường và tham gia lao động ở nước ngoài 33
3.3. Kết quả của LĐNN và tác động tới kinh tế gia đình và kinh tế địa phương. 44
3.4. Các tình huống LĐNN bất thường. 48
4. CÁC DOANH NGHIỆP DỊCH VỤ MÔI GIỚI, TUYỂN DỤNG.. 53
4.1. Nhu cầu về lao động nước ngoài 53
4.2. Các doanh nghiệp môi giới giới thiệu và tuyển dụng LĐNN.. 54
4.3. Hai nhóm các doanh nghiệp và dịch vụ với LĐNN.. 54
4.4. Kết quả và chất lượng dịch vụ. 55
4.5. Vấn đề lao động đi tiểu ngạch và không về nước. 56
4.6. Nhu cầu hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp địa phương. 58
5. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 60
5.1. Kết luận. 60
5.2. Khuyến nghị 62
PHỤ LỤC.. 66
II. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BĐG Bình đẳng giới
BLGĐ Bạo lực gia đình
EU Liên minh Châu Âu
HNGĐ Hôn nhân và gia đình
HPN Hội Phụ nữ
HTX Hợp tác xã
ILO Tổ chức Lao động Quốc tế
JIFF Quỹ Thúc đẩy Sáng kiến Tư pháp
LĐNN Lao động di cư ở nước ngoài
LĐTBXH Lao động – Thương binh – Xã hội
LHPN Liên hiệp phụ nữ
LLD2019 Luật lao động, sửa đổi 2019
LLĐ Luật Lao động
MXH Mạng xã hội
NHCS Ngân hàng Chính sách – Xã hội
NHTM Ngân hàng Thương mại
PBGDPL Phổ biến giáo dục pháp luật
SDG Mục tiêu Phát triển Bền vững
SPSS Phần mềm dùng cho số liệu thống kê xã hội
TCTD Tổ chức tín dụng
TGPL Trợ giúp pháp lý
TT TGPL Trung tâm Trợ giúp pháp lý
TTLD Thị trường lao động
TTMG Trung tâm môi giới LĐNN
QBWDF Quỹ Hỗ trợ Phụ nữ Phát triển, tỉnh Quảng Bình, tiếng Anh
Quỹ HTPNPT Quỹ Hỗ trợ Phụ nữ Phát triển, tỉnh Quảng Bình
UBND Ủy ban Nhân dân
VAMAS Hiệp hội XKLĐ Việt Nam
VCCI Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
XDA Các xã dự án
[1]
Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm
Các ý kiến, phân tích và khuyến nghị trong tài liệu này là của tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm chính thức của Liên minh Châu Âu và Tổ chức Oxfam tại Việt Nam.
Thông tin về báo cáo:
Tên báo cáo: Báo cáo khảo sát đầu kỳ dự án “Thúc đẩy phụ nữ có việc làm xứng đáng, an toàn và hợp pháp khi tham gia thị trường lao động ở nước ngoài thông qua cải thiện tiếp cận công lý về lao động”
Tên sáng kiến: “Thúc đẩy phụ nữ có việc làm xứng đáng, an toàn và hợp pháp khi tham gia thị trường lao động ở nước ngoài thông qua cải thiện tiếp cận công lý về lao động”.
Tên tổ chức thực hiện sáng kiến: Quỹ Hỗ trợ phụ nữ phát triển tỉnh Quảng Bình-viết tắt là QBWDF9
Tuyên bố về bản quyền phát hành
Mặc dù báo cáo này là tài liệu có bản quyền, nhưng nó có thể được sử dụng không cần xin phép cho các mục đích đào tạo, nghiên cứu và đóng góp chính sách, không nhằm mục tiêu lợi nhuận. Nguồn tài liệu phải được nêu rõ khi trích dẫn. Để sử dụng cho việc sao chép trong mọi trường hợp, sử dụng trong các ấn phẩm khác hoặc dịch sang ngôn ngữ khác cần có sự cho phép của Quỹ Hỗ trợ phụ nữ phát triển tỉnh Quảng Bình và Ban Thư ký Quỹ JIFF.
BẢN ĐỒ 4 XÃ DỰ ÁN Ở HUYỆN BỐ TRẠCH
|
| |
|
| Xã Nhân Trạch |
Xã Thanh Trạch |
| |
|
| Xã Đức Trạch |
Xã Hải Phú |
Trong tháng 11 năm 2020 Ban Quản lý sáng kiến “Thúc đẩy phụ nữ có việc làm xứng đáng, an toàn và hợp pháp khi tham gia thị trường lao động ở nước ngoài thông qua cải thiện tiếp cận công lý về lao động” đã thực hiện nghiên cứu để rà soát các văn bản pháp luật liên quan đến lao động nước ngoài và khảo sát đánh giá đầu kỳ ở các xã dự án thuộc huyện Bố Trạch tỉnh Quảng Bình trong khuôn khổ của Quỹ Thúc đẩy sáng kiến Tư pháp vận dụng tiếp cận hỗn hợp cả định tính và định lượng. Nghiên cứu có mục tiêu làm rõ chi tiết hơn bối cảnh tư pháp và hiện trạng ở vùng dự án nhằm góp phần tổ chức hoạt động dự án sát hơn với thực tế, và chuẩn bị bộ số liệu phục vụ theo dõi và đánh giá dự án và định hướng các ưu tiên trong nội dung vận động chính sách của dự án và của tổ chức QBWDF về lâu dài.
Gần đây, những thay đổi quan trọng trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về lao động nói chung, lao động làm việc ở nước ngoài nói riêng đã đưa hệ thống chính sách pháp luật sát với các chuẩn mực quốc tế. Quyền lợi và trách nhiệm của người lao động và các cơ quan môi giới, tuyển dụng đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài đã được quy định chặt chẽ và hài hòa. Những nội dung về an toàn lao động, bình đẳng giới, về phòng chống bạo lực hay quấy rối nơi làm việc đã được quy định. Cơ chế giải quyết những va chạm, xung đột giữa lao động và bên xử dụng lao động đã được đề cập. Hệ thống pháp luật đã hỗ trợ hiệu quả chủ chương xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm và cải thiện cuộc sống của nhân dân một cách có hệ thống.
Cộng đồng các xã ven biển của huyện Bố Trạch đang có nhu cầu cao về LĐNN. Những nguyên nhân chính thúc đẩy người đi là thiếu việc làm có thu nhập xứng đáng, suy giảm hoặc mất nguồn sinh kế từ biển do sự cố ô nhiễm môi trường hoặc khai thác quá mức, và chính sách khuyến khích LĐNN như một giải pháp tạo việc làm và giảm nghèo. Khảo sát này xác nhận tính thiết thực của dự án với nhu cầu của cộng đồng vùng dự án, cũng như khả năng tác động chính sách cuộc nghiên cứu này đưa ra những khuyến nghị theo hai hướng về a) những biện pháp và nội dung truyền thông, cũng như tư vấn pháp luật và b) những hoạt động vận động chính sách tập trung vào vào những người chuẩn bị đi LĐNN.
LĐNN Việt Nam làm việc ở nhiều quốc gia, nhưng hai nơi thu hút cao nhất Hàn Quốc và Đài loan và chừng mực nào đó là Nhật Bản. Phần lớn lao động vẫn là phổ thông, tay nghề thấp, ít có kỹ thuật nên thu nhập không cao và dễ gặp rủi ro mất việc làm. Các yếu tố hút người lao động đi là nhu cầu lao động giản đơn ở các nước công nghiệp, cơ hội việc làm và thu nhập cao hơn so với thị trường lao động trong nước. Gần đây, mạng lưới xã hội và gia đình giúp đỡ giới thiệu việc làm và bảo vệ người lao động cũng như chính sách cởi mở với lao động di cư ở một số quốc gia là nhân tố thúc đẩy. Người đang tìm cơ hội LĐNN có những thiếu hụt trong việc tìm hiểu thông tin về thị trường lao động, hiểu biết về yêu cầu tuyển dụng, phong tục tập quán nơi đến, cũng như quyền lợi và trách nhiệm, quyền lợi của mình cũng như bên tuyển dụng hoặc môi giới. Họ cũng thiếu các kỹ năng nghề nghiệp và ngoại ngữ do chưa được đào tạo thỏa đáng.
Với những người đang làm việc ở nước ngoài, họ chưa được chuẩn bị đầy đủ, đặc biệt về ngôn ngữ là yếu tố tác động đến việc làm và thu nhập. Tương tự, họ chưa được trang bị kiến thức về pháp luật sở tại, pháp luật Việt Nam dành cho người lao động nước ngoài. Trang bị hiểu biết về văn hóa sở tại hầu như chưa được lưu tâm đúng mức do chưa được giới thiệu về văn hóa và về thị trường lao động nên họ tới. Yếu tố mà người lao động chú trọng khi đi nước ngoài chính là tài chính trong khi họ ít chú ý hơn tới kỹ năng, kiến thức làm hành trang.
Người lao động ở nước ngoài có ý kiến tích cực về việc không bị hoặc ít bị xâm hại, lạm dụng, kỳ thị hay là họ có điều kiện làm việc an toàn cũng mức độ bình đẳng, cả về khía cạnh bạo lực nơi làm việc về thể xác và tinh thần. Khi trở về, LĐNN có những đánh giá cao về mức độ đáp ứng mong đợi của họ ban đầu. Khoản thu nhập của họ có tác động tích cực với kinh tế và mức sống gia đình, cũng như có đóng góp cho việc phát triển doanh nghiệp địa phương. Phần đóng góp cho địa phương thường dành cho các cơ sở tín ngưỡng, văn hóa xã hội và giao thông. Cũng có một bộ phận đáng kể LĐNN không thấy kết quả của chuyến đi như mong đợi, đặc biệt trong nam giới. LĐNN cũng có thể các tác động tiêu cực tới quan hệ hôn nhân và gia đình, thể hiện qua các trường hợp mâu thuẫn vợ - chồng, cha mẹ - con cái do xa cách về địa lý, thời gian, hoặc do thay đổi về tình trạng tài chính.
Với người lao động với việc tham gia LĐNN “bất thường”, ngoài thu nhập, có những yếu tố nội sinh như người thân bảo đảm về an toàn, chi phí của chuyến đi, và các yếu tố khách quan là thu nhập ở nơi đến, và mức độ nghiêm khắc của cơ quan chế tài với người làm việc “bất thường”. Với những loại hình việc làm phi pháp, như trồng cần sa, sức hút của thu nhập có trường hợp vượt qua những lo ngại về khả năng bị bắt giam, trục xuất thậm chí bị đe dọa đến tính mạng.
Dự án đã xác định đối tượng truyền thông và trợ giúp pháp luật được là lao động, trọng tâm là phụ nữ, trong độ tuổi lao động đang có những cân nhắc làm việc ở nước ngoài. Để bổ xung, khảo sát này đề xuất quan tâm tới một số nhóm mới, như nhóm phụ nữ có thu nhập thấp đi LĐNN theo các kênh chi phí thấp sang Trung quốc hay Lào theo kênh “tiểu ngạch” hay nhóm lao động trẻ đang tính toán đi theo con đường du lịch hoặc học để sau này “lao động bất thường” ở nước ngoài. Nhóm người thân, trong đó có cả những người đang làm việc ở nước ngoài và đã trở về do họ được người muốn đi LĐNN tham vấn, họ cũng nên được đưa vào nhóm đích để trở thành người đồng hành truyền thông cùng dự án. Nhóm lao động trở về nên được trợ giúp pháp lý về thủ tục đăng ký với chính quyền địa phương sau khi trở về. Cũng nên chú ý bảo vệ quyền của họ về được hỗ trợ việc làm và tích hợp với môi trường lao động việc làm sau khi trở về. Nhu cầu này, đặc biệt có ý nghĩa, nhiều khả năng là vấn đề “nhậy cảm”, với những người trở về sau khi giải quyết vấn đề “lao động kiểu bất thường” ở nước ngoài.
Các tiếp cận với các sản phẩm truyền thông đa dạng và trực tiếp, cả ở cấp cá nhân và nhóm, được biết là có hiệu quả cao và đã được đề xuất trong dự án. Dự án có lợi thế với việc sử dụng hệ thống mạng lưới có sẵn của Hội Phụ nữ ở các thôn xã, các câu lạc bộ phụ nữ và các tổ vay vốn của QBWDF. Các hoạt động truyền thông “sân khấu hóa” mà dự án có dự kiến, có khả năng thu hút được đông đảo người tham dự, có hạn chế về khả năng đánh giá mức độ tiếp nhận thông điệp trong người tham dự. Việc truyền thông nên có chuyên gia giúp xây dựng kịch bản và bố trí sân khấu, cũng như nên bổ xung nội dung thảo luận giữa diễn viên với người tham dự sau buổi trình diễn. Các buổi truyền thông nên được dùng làm nơi đăng ký tiếp nhận nhu cầu tham vấn, hoặc trợ giúp pháp lý. Với các chương trình truyền thông và truyền hình địa phương, dự án nên xem xét hợp tác để mở rộng phạm vi tác động.
Việc cung cấp thông tin kịp thời về chính sách với LĐNN của các quốc gia, ít nhất là các nước chủ chốt như Hàn Quốc, Đài Loan hay Nhật Bản, bằng ngôn ngữ dễ hiểu và các kênh tiếp cận rộng rãi là việc có thể cân nhắc, tương tự việc hợp tác với các cơ quan môi giới, với các tổ chức bảo vệ quyền lợi của người Việt ở nước ngoài.
Với mức độ tiếp cận internet cao của người lao động và người chuẩn bị đi LĐNN, các sản phẩm truyền thông qua các kênh nghe nhìn qua mạng xã hội cũng nên được xem xét để sản xuất ở dạng live-stream hoặc video clip trong khả năng của dự án, bên cạnh các phương pháp truyền thông qua tờ rơi, hoặc truyền thông tĩnh qua pan-nô, áp phích. Các cuộc truyền thông qua mạng xã hội còn có hiệu quả là do khả năng thu hút được những người thân đang lao động ở nước ngoài tham gia, thậm chí thực hiện được các hoạt động trợ giúp pháp lý cho người lao động đang làm việc ở nước ngoài, ví dụ qua kết nối với chuyên gia về lao động theo hợp đồng ở nước ngoài. Khi tổ chức các cuộc truyền thông này, nên có sự đóng góp của các chuyên gia trong quá trình xây dựng kịch bản, và biên tập hậu kỳ để sản phẩm truyền thông có chất lượng và khả năng lan tỏa về sau.
Với hoạt động tư vấn và trợ giúp pháp lý, các nội dung giống nhau có thể lặp lại ở các xã dự án và tập trung vào việc thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ của người tham gia LĐNN theo hợp đồng, trách nhiệm nghĩa vụ của các tổ chức môi giới và dịch vụ đưa người lao động ra nước ngoài, giải quyết các tình huống xung đột va chạm ở nước ngoài, vì vậy ngoài việc đào tạo đội ngũ truyền thông viên, tư vấn viên, việc xây dựng một sổ tay truyền thông, tư vấn và trợ giúp pháp luật có thể là cần thiết để hoạt động truyền thông, tư vấn và trợ giúp có hiệu quả và chất lượng đồng nhất. Những tình huống được giải quyết nên được tư liệu hóa và phổ biến trên mạng internet để nhiều người có thể sử dụng.
Do hoạt động truyền thông, tư vấn và trợ giúp pháp luật là điểm gặp của nhiều chương trình quốc gia ở địa phương, phối hợp và lồng ghép hoạt động của dự án với các chương trình sẽ giúp dự án tránh chồng chéo và lãng phí nguồn lực. Việc chia sẻ các kết quả và bài học của dự án với các cơ quan phụ trách các chương trình sẽ tiết kiệm nguồn lực, giúp nâng cao hiệu quả của các chương trình.
Khi vận động chính sách về lao động, đặc biệt về lao động ở nước ngoài, có chú ý về bình đẳng giới, cần thu thập tư liệu hóa thường xuyên thông tin từ hoạt động của dự án, đặc biệt từ các cuộc đối thoại giữa người lao động với đại diện cơ quan lập pháp và hành pháp ở địa phương, cũng như với giới doanh nghiệp làm dịch vụ môi giới lao động và dịch vụ đưa người lao động ra nước ngoài. Các câu chuyện của người đang chuẩn bị đi lao động, các trường hợp bất cập khi tham gia chuẩn bị cho chuyến đi, các tình huống bất cập về hoạt động của các tổ chức xúc tác, môi giới và làm dịch vụ đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài khi họ không đủ năng lực, hoặc khi LĐNN làm việc ở nước ngoài, hay khi trở về cần được ghi chép chính xác và tin cậy qua các cuộc tham vấn, trợ giúp pháp luật. Tài liệu hữu ích này cần biên soạn tập hợp có hệ thống để cung cấp cho báo chí và cung cấp cho các cơ quan dân cử, các tổ chức chính quyền hữu trách, cũng như để tác động tới dư luận và ý kiến của công chúng.
Trong các tổ chức đối tác vận động, ngoài các cơ quan dân cử và cơ quan thực hiện pháp luật, dự án nên chú ý lôi cuốn Hiệp hội XKLĐ Việt Nam và Tổ chức Lao động quốc tế trong việc giám sát việc thi hành Bộ quy tắc ứng xử dành cho các doanh nghiệp XKLĐ. Việc cung cấp thông tin của dự án cho các tổ chức này qua việc chia sẻ các báo cáo, tài liệu hoặc thông qua các hội thảo, hội nghị có thể giúp các tổ chức này đánh giá xếp hạng chính xác và tin cậy hơn các tổ chức thành viên. Điều này cũng có thể góp phần tăng cường sự tham gia của các tổ chức đoàn thể địa phương trong việc góp ý cho chủ chương và chính sách của hiệp hội của các doanh nghiệp này. Dự án nên sử dụng tiếng nói của người lao động trong các hoạt động vận động điều chỉnh chính sách cho phù hợp, và thuận lợi, cũng như để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của LĐNN.
Đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài là một chủ chương lớn và dài hơi của đảng và chính phủ Việt Nam về giảm nghèo, tạo việc làm và phát triển kinh tế-xã hội được ghi nhận qua Quyết định 135/1998/QĐ-TTg ngày 31 tháng 7 năm 1998 công bố "Chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi". Chủ chương này được củng cố và làm rõ hơn trong Nghị quyết số 30/A/2008/NQ-CP quyết định Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo. Trong nghị quyết này nổi bật nội dung dạy nghề tập trung để đưa lao động nông thôn đi làm việc tại các doanh nghiệp và ”xuất khẩu lao động”.
Theo ghi nhận của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), luồng lao động di cư từ Việt Nam ra nước ngoài ngày một tăng và một vấn đề xã hội lớn đi liền với xu hướng này là đảm bảo di cư lao động an toàn, có trật tự, hợp thức và dễ dàng
[2]. Từ năm 2007 đến nay, trung bình mỗi năm có hơn 80.000 người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Đặc biệt, trong 5 năm gần đây, mỗi năm có trên 130.000 người lao động ra nước ngoài làm việc
[3]. Lao động di cư ở nước ngoài đóng góp tích cực vào việc nâng cao thu nhập và đời sống của người dân do nói chung chi phí đầu tư thấp nhưng thu nhập cao, người lao động được học thêm ngôn ngữ mới, được đào tạo thêm kiến thức chuyên môn, học được kỹ năng làm việc ở môi trường hiện đại, kỹ thuật cao, hình thành tác phong làm việc có tính kỷ luật cao. Lao động di cư làm việc ở nước ngoài giải quyết việc làm cho hàng nghìn lao động, tiết kiệm được một lượng vốn đầu tư tạo cho làm mới cho người lao động, là nguồn thu ngoại tệ cho đất nước, đóng góp cho ngân sách nhà nước thông qua phí bảo hiểm XH, thuế doanh thu của DN xuất khẩu lao động, hơn nữa góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác trên nhiều lĩnh vực, tạo mối quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam và các nước.
Ở tỉnh Quảng Bình, theo Hội nghị tổng kết 10 năm (2007-2016) thi hành Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và triển khai Kế hoạch XKLĐ giai đoạn 2017-2020, hàng năm tỉnh có kế hoạch đưa từ 2.400 đến 2.700 lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng xuất khẩu lao động. Mục tiêu của kế hoạch là tăng số lượng lao động từ đủ 18 đến 39 tuổi đi tham gia lao động có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng, nhất là người dân tộc thiểu số; người thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo hoặc hộ bị thu hồi đất nông nghiệp; thân nhân của người có công với cách mạng; người lao động thuộc hộ gia đình ở địa bàn bị thiệt hại do sự cố môi trường biển
[4] nhằm giải quyết việc làm tăng thu nhập và đời sốn của người lao động; góp phần giảm nghèo bền vững.
Huyện Bố Trạch là một địa phương có nhiều lao động di cư làm việc ở nước ngoài nhất trong tỉnh Quảng Bình, số lao động đi nhiều đặc biệt ở các xã ven biển, vì những động cơ đẩy và hút. Ở các xã dự án, chính quyền đã xây dựng đề án XKLĐ 15 năm từ 2003-2017 như là mũi nhọn để phát triển kinh tế. Những yếu tố đẩy nổi bật là tình trạng nông thôn thiếu việc làm, thu nhập từ nông và ngư nghiệp thấp, đặc biệt là từ khi có sự cố ô nhiễm môi trường Formosa. Những yếu tố hút là những cơ hội lao động ở nước ngoài, nổi bật là ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, nhất là nhu cầu về lao động không có tay nghề và thu nhập cao hơn hẳn.
Khi chuẩn bị và tham gia lao động ở nước ngoài, người lao động đối diện nhiều nguy cơ có khả năng đẩy họ vào tình trạng khó khăn, mất vốn, ảnh hưởng sức khỏe, thậm chính tính mạng đặc biệt là với phụ nữ. Ví dụ, khi chuẩn bị tham gia lao động ở nước ngoài (tham gia tuyển dụng, học nghề, giao kết hợp đồng lao động với các doanh nghiệp tuyển dụng, lao động), lao động (cả năm và nữ) có nguy cơ bị cung cấp thông tin sai lệch, bị tuyển dụng theo con đường không an toàn, không hợp pháp, bị đối xử không công bằng, thậm chí bị bóc lột hoặc có nguy cơ trở thành nạn nhân buôn bán người.
Do mức độ hiểu biết về pháp luật còn thấp, chưa nắm vững các chính sách về lao động - việc làm, chưa tiếp cận đầy đủ được Luật lao động (LLD2019), người lao động, nhất là nữ không thể phát hiện, ứng phó khi doanh nghiệp có các sai phạm hoặc khi doanh nghiệp làm điều pháp luật nghiêm cấm hay khi có các xung đột về lao động.
Họ cũng chưa có kinh nghiệm và cơ sở để tập hợp thành các tổ chức tập thể, đại diện để có tiếng nói trong thương lượng tập thể cũng như trong quá trình giám sát thực thi LLD2019, các văn bản dưới luật và pháp luật liên quan về lao động nữ. Chính vì thế, phụ nữ Việt Nam lao động ở nước ngoài vẫn còn chịu nhiều thiệt thòi, bất bình đẳng khi xét trên những tiêu chí cụ thể của Mục tiêu Phát triển Bền vững SDG 8 và bình đẳng giới. Cụ thể: Trong quá trình tuyển dụng, đào tạo, cũng như khi làm việc và khi trở về sau khi lao động ở nước ngoài, nữ lao động gặp nhiều thách thức về bình đẳng giới; họ cũng gặp các trở ngại khi tiếp cận thông tin về thị trường lao động, định kiến giới về nghề nghiệp, rào cản học vấn, tình trạng xâm hại và quấy rối tình dục ở nơi học nghề và làm việc, những như khoảng trống về chăm sóc sức khỏe tâm lý/cảm xúc khi phụ nữ học nghề và làm việc xa gia đình.
Dự án “Thúc đẩy phụ nữ có việc làm xứng đáng, an toàn và hợp pháp khi tham gia thị trường lao động ở nước ngoài thông qua cải thiện tiếp cận công lý về lao động” (gọi tắt là Dự án) được Quỹ Hỗ trợ phụ nữ phát triển tỉnh (Quỹ) thực hiện với sự hỗ trợ về mặt tài chính của Quỹ Sáng kiến Tư Pháp (JIFF).
Dự án hướng đến việc thúc đẩy phụ nữ có việc làm xứng đáng, an toàn, hợp pháp khi tham gia thị trường lao động nước ngoài thông qua cải thiện tiếp cận công lý về lao động-việc làm và giới bằng cách thực hiện các quyền do Luật lao động và luật liên quan đảm bảo cho cộng đồng ở các xã ven biển huyện Bố Trạch.
Vùng dự án được triển khai là ở cộng đồng bốn xã Thanh Trạch, Hải Phú, Đức Trạch, Nhân Trạch, là những địa phương có nhiều người lao động ở nước ngoài, cũng là những xã có nhiều “lao động bất thường” của huyện Bố Trạch. Thời gian dự án là 12 tháng bắt đầu từ tháng 8 năm 2020. Cuộc điều tra này được thực hiện trong tháng 11 năm 2020 như là một trong những hoạt động đầu tiên của dự án.
Cuộc khảo sát nhằm thu thập thông tin cơ bản ban đầu cho dự án một cách có phương pháp và khoa học, mô tả rõ ràng và cung cấp bằng chứng cụ thể về thực trạng đối với nhóm đối tượng tác động của dự án gồm nữ (chủ yếu) và nam lao động làm cơ sở thực tế góp phẩn làm rõ hơn những vấn đề mà lao động ở địa phương đang gặp để đưa ra các giải pháp tác động của dự án về vấn đề xuất khẩu lao động, hoàn thiện bộ chỉ tiêu theo dõi và giám sát của dự án và làm cơ sở cho hoạt động vận động thực thi chính sách về lao động.
Toàn bộ các điều tra viên tham gia thu thập cuộc khảo sát (Danh sách đoàn xem Phụ lục 1) đã được tập huấn về cách sử dụng các công cụ thu thập tin. Nghiên cứu viên chính đã thao diễn làm mẫu cho các điều tra viên trong buổi tập huấn và ở hiện trường.
Nội dung cuộc khảo sát gồm phần rà xoát chính sách và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan tới người lao động ở nước ngoài theo hợp đồng và phần khảo sát ở hiện trường. Phần rà xoát pháp luật với các văn bản của luật lao động, luật về lao động ở nước ngoài theo hợp đồng và hệ thống các văn bản dưới luật, được thực hiện theo phương pháp phân tích văn bản dạng “desk study” (Các văn bản quy phạm pháp luật đã rà soát được nêu trong Phụ lục 3). Ngoài rà soát văn bản pháp luật, đề tài có tổng quan các nghiên cứu trước đây về di cư lao động, đặc biệt ở Quảng bình, cà từ các nguồn hàn lâm và báo chí. Phần khảo sát ở hiện trường bao gồm các thu thập và phân tích thông tin cả định lượng và định tính từ các bên liên quan ở hiện trường thực hiện dự án gồm người lao động và từ đại diện các cơ quan chức năng có trách nhiệm ở các xã, huyện, tỉnh và các doanh nghiệp tham gia làm dịch vụ giới thiệu việc làm hoặc đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài (Bộ công cụ thu thập thông tin được tập hợp ở Phụ lục 4).
Đối tượng khảo sát của phần khảo sát hiện trường để chọn ra mẫu cả định tính và định lượng là cộng đồng người “hưởng lợi” từ bốn xã dự án (Thống kê về lao động và lao động nước ngoài ở các xã xem ở Phụ lục 2) ở độ tuổi lao động (từ 18-60) trong đó có các nhóm lao động đang chuẩn bị và dự kiến tham gia thị trường lao động nước ngoài. Họ là những người đang mong muốn đi, đang lao động nước ngoài và những người trở về sau khi đi lao động nước ngoài. Họ cũng là những người lao động chịu ảnh hưởng của thảm họa môi trường Formosa và di dời tái định cư tại bốn XDA, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, trong đó đối tượng ưu tiên là phụ nữ nghèo.
Phần khảo sát định lượng thu thập thông tin bằng bảng hỏi với mẫu chọn từ cộng đồng với phiếu hỏi. Mẫu định lượng được chọn theo phân tầng ở bốn xã dự án với công thức tính với mức tin cậy 95% và khoảng tin cậy 5,8%, số mẫu cần được thu thập là 250
[5] từ cộng đồng “hưởng lợi” nói trên. Thực tế, cuộc điều tra đã thu thập được thông tin từ 254 bảng hỏi, đáp ứng mong đợi đặt ra ban đầu.
Các phương pháp định tính bao gồm các cuộc phỏng vấn linh hoạt và thảo luận nhóm trọng tâm. Với người lao động đã thực hiện được 5 cuộc thảo luận nhóm người LĐNN đã trở về và 5 nhóm mong muốn đi. Các cuộc phỏng vấn linh hoạt bán cấu trúc với 5 người lao động và đại diện của 10 doanh nghiệp môi giới, giới thiệu việc làm trong tỉnh (trong đó có 02 doanh nghiệp đóng cửa do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19). Ở bốn xã tham gia dự án, đoàn khảo sát đã phỏng vấn linh hoạt mỗi xã lãnh đạo UBND, cán bộ tư pháp và cán bộ phụ trách ngành lao động-thương binh-xã hội, và lãnh đạo HPN xã. Có 28 cán bộ lãnh đạo các thôn cũng đã được phỏng vấn.
Với những người đang làm việc ở nước ngoài, các cuộc phỏng vấn được thực hiện bằng cách gọi viễn thông với chế độ “Voice Chat” của các mạng xã hội Zalo hoặc Messenger sau khi hẹn gặp qua giới thiệu của các tổ chức đoàn thể địa phương. Thông tin định lượng được mã hóa và đưa vào cơ sở dữ liệu dùng phần mềm SPSS để phân tích. Các công cụ thu thập thông tin được dùng có nêu trong phụ lục. Để bảo vệ danh tính, toàn bộ thông tin về tên người trả lời đã được loại bỏ khỏi cơ sở dữ liệu ngay từ khi nhập số liệu.
Trước khi sử dụng, các phiếu hỏi định lượng và định tính kiểm định và được điều chỉnh sau khi trao đổi với các cán bộ thu thập thông tin là người địa phương trong buổi tập huấn hướng dẫn các công cụ thu thập thông tin. Các công cụ này còn được kiểm định và hoàn thiện sau khi thực hiện các cuộc phỏng vấn kiểm định (pre-test).
Việc thu thập thông tin được thực hiện theo tiến trình “cuốn chiếu” từng xã một. Mỗi lần thu thập thông tin ở mỗi xã được rút kinh nghiệm về kỹ thuật và tổ chức thu thập thông tin. Ngoài việc làm mẫu, nghiên cứu viên chính đã theo dõi giám sát toàn bộ quá trình thu thập thông tin ở 4 xã để đảm bảo số lượng và chất lượng thu thập thông tin. Tương tự, nghiên cứu viên chính cũng giám sát và kiểm tra chất lượng bộ số liệu được nhập vào cơ sở dữ liệu SPSS.
2.1. Hệ thống văn bản pháp luật
Trong giai đoạn phát triển tới, Hiến pháp năm 2013 có thể coi là định hướng cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam để phục vụ mục tiêu kiến tạo phát triển, tạo dựng hành lang pháp lý an toàn cho phát triển và hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới cả về kinh tế, chính trị và văn hóa.
Về lao động, hệ thống pháp luật hiện nay có thể coi là khá toàn diện (xem Phụ lục 3) và sát với thông lệ quốc tế, cung một khung pháp lý để quản lý lao động di cư, dịch chuyển lao động quốc tế, có tính tới những tiến bộ mới về khoa học công nghệ, góp phần phát triển việc làm ngoài nước và bảo hộ quyền làm việc của công dân. Các bộ luật đã thúc đẩy chuyển biến về chất trong hoạt động xuất khẩu lao động, không chỉ về mang lại lợi ích kinh tế trực tiếp, mà còn góp phần nâng cao chất lượng, trình độ người lao động để cống hiến cho đất nước khi quay trở về.
Với sự ra đời của Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2006, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động lao động nước ngoài (LĐNN) dần được hoàn thiện. Ngày 01/8/2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 126/2007/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, theo sau đó là các văn bản hướng dẫn cụ thể các nội dung hỗ trợ hoạt động LĐNN như: Văn bản hướng dẫn chi tiết Luật; văn bản quy định chính sách hỗ trợ tạo việc làm; văn bản quy định về mức, cách quản lý và sử dụng tiền ký quỹ; văn bản quy định về mẫu hợp đồng; văn bản quy định các nội dung về xử phạt vi phạm hành chính.
Những nội dung chính của khung pháp lý về chính sách liên quan đến người lao động Việt Nam ở nước ngoài tập trung được đề cập ở phần này.
2.2.1. Cấp phép và quản lý hoạt động đưa lao động làm việc ở nước ngoài
Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ LĐNN để được tham gia cung ứng LĐNN cần phải được Cục Quản lý lao động nước ngoài (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội) cấp giấy phép kinh doanh. Đây là các doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp có 100% vốn điều lệ của các tổ chức, cá nhân Việt Nam với mức vốn pháp định của doanh nghiệp là 5 tỷ đồng, đồng thời quy định một số điều kiện chặt chẽ để được kinh doanh loại hình dịch vụ này. Để bảo vệ quyền lợi của người lao động đi làm việc tại nước ngoài, quy định hiện hành quy định rõ trách nhiệm của doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài trong việc tuyển chọn lao động, tổ chức đào tạo trước khi đưa lao động đi làm việc, phối hợp với bên nước ngoài giải quyết các vấn đề phát sinh liên quan đến người lao động ở nước sở tại.
Để bảo đảm năng lực tài chính, luật quy định chế độ ký quỹ cho các doanh nghiệp nhằm bảo vệ quyền lợi của LĐNN khi có tình huống bất thường. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 21/2013/TT-BLĐTBXH quy định mức trần kí quỹ mà doanh nghiệp cung ứng được nhận từ LĐNN. Ví dụ, mức ký quỹ tối đa đối với XKLĐ tại thị trường Malaysia, Thái Lan, Lào, Brunei,... là 300USD. Một số thị trường có mức kí quỹ cao hơn như Đài Loan là 700 - 1000USD hay với Nhật Bản và Hàn Quốc tới 1500 - 3000USD.
Hiện nay, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội là cơ quan trực tiếp giúp Chính phủ quản lý hoạt động LĐNN. Theo đó, Bộ là đơn vị chịu trách nhiệm chính về việc kiểm tra, thanh tra và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về người lao động đi làm việc ở nước ngoài, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo trong hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Đặc biệt, các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài (Ban Quản lý lao động) có trách nhiệm bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động đi làm việc ở nước ngoài; xử lý hành vi vi phạm của người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo quy định. Nhờ đó, cơ quan quản lý đã góp phần hạn chế những vi phạm của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ LĐNN cũng như góp phần tích cực ngăn ngừa các hành vi lừa đảo của các tổ chức cá nhân ngoài xã hội. Tùy vào từng trường hợp mà một số cơ quan khác như Bộ Tài chính, Bộ Công an, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Thương mại, Ngân hàng Nhà nước, các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài cũng như các đoàn thể liên quan đều chịu trách nhiệm liên đới trong việc quản lý hoạt động này.
2.2.2. Cho vay ưu đãi
Đồng thời, để tháo gỡ khó khăn về tài chính cho LĐNN, Nghị định số 61/2015/NĐ-CP đã đưa ra một số quy định về cho vay ưu đãi từ Ngân hàng chính sách xã hội đối với đối tượng vay vốn đi LĐNN thuộc diện hộ nghèo, hộ bị thu hồi đất nông nghiệp và người dân tộc thiểu số và cho vay 100% chi phí từ Quỹ quốc gia về việc làm đối với lao động thuộc hộ cận nghèo hoặc thân nhân của người có công với cách mạng. Các quy định này đã giải quyết phần nào những khó khăn mà LĐNN gặp phải trong quá trình kí kết và tham gia lao động tại nước ngoài.
2.2.3. Hoàn trả tiền môi giới
Thông tư liên tịch số 16/2007/TTLT-BLĐTBXH-BTP ngày 4-9-2007, người lao động được hoàn trả tiền môi giới trong trường hợp người lao động phải về nước trước thời hạn vì lý do bất khả kháng (thiên tai, chiến tranh, doanh nghiệp bị phá sản) hoặc không phải do lỗi của người lao động, doanh nghiệp có trách nhiệm yêu cầu bên môi giới hoàn trả lại cho người lao động một phần tiền môi giới người lao động đã nộp theo nguyên tắc: người lao động làm việc chưa đủ 50% thời gian theo hợp đồng thì được nhận lại 50% tiền môi giới đã nộp. Người lao động đã làm việc từ 50% thời gian theo hợp đồng trở lên thì không được nhận lại tiền môi giới. Trường hợp không thể đòi được của bên môi giới, doanh nghiệp có trách nhiệm hoàn trả cho người lao động theo nguyên tắc trên và được hạch toán vào chi phí hợp lý khi tính thu nhập chịu thuế theo quy định của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp.
Người lao động còn được hoàn trả tiền dịch vụ theo nội dung quy định tại Khoản 3 Mục III Thông tư liên tịch số 16/2007/TTLT-BLĐTBXH-BTP ngày 4-9-2007. Cụ thể, trường hợp người lao động phải về nước trước thời hạn vì lý do bất khả kháng hoặc không phải do lỗi của người lao động thì doanh nghiệp chỉ được thu tiền dịch vụ theo thời gian (số tháng) thực tế người lao động làm việc ở nước ngoài. Cục Quản lý lao động ngoài nước đang phối hợp với Quỹ Hỗ trợ việc làm ngoài nước trao đổi với đơn vị chức năng của Bộ Tài chính, nghiên cứu việc giãn nộp khoản đóng góp 1% số thu tiền dịch vụ của doanh nghiệp vào Quỹ Hỗ trợ việc làm ngoài nước theo Quy định tại Điều 2 Quyết định số 144/2007/QĐ-TTg trong thời gian dịch bệnh hoặc cả năm 2020.
2.2.4. Đào tạo trước khi đi lao động nước ngoài
Thủ tục hỗ trợ xuất khẩu lao động về học nghề, ngoại ngữ, bồi dưỡng kiến thức cần thiết, hỗ trợ chi phí làm thủ tục hộ chiếu, khám sức khỏe, lý lịch tư pháp trước khi đi làm việc ở nước ngoài quy định tại Quyết định số 71/2009/QĐ-TTg. Nhằm nâng cao chất lượng của lực lượng LĐNN, quy phạm pháp luật đã yêu cầu các các doanh nghiệp cung ứng LĐNN phải tổ chức các khóa học bồi dưỡng cho LĐNN trước khi ra nước ngoài. Công tác đào tạo nghề và kỹ năng cho các lao động chuẩn bị đi xuất khẩu được coi là khâu then chốt để LĐNN có thể tham gia các thị trường lao động đòi hỏi trình độ tay nghề cao. Nội dung các khóa học bao gồm kiến thức khá đa dạng, ví dụ phổ biến pháp luật và quy định của quốc gia sở tại; đào tạo nghề và nâng cao trình độ tay nghề trong trường hợp nước tiếp nhận yêu cầu; mở các lớp học và phổ cập ngoại ngữ cũng như các lớp bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho LĐNN
Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và các văn bản hướng dẫn có các quy định các nội dung liên quan để bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động đi làm việc ở nước ngoài và của doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Những quyền được quy định cụ thể gồm quyền được cung cấp các thông tin về chính sách, pháp luật có liên quan và phong tục, tập quán của nước tiếp nhận người lao động; được hưởng tiền lương, tiền công, thu nhập khác, chế độ khám bệnh, chữa bệnh, bảo hiểm xã hội và các quyền lợi khác quy định trong các hợp đồng và điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế; được doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp, tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài, cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật của nước tiếp nhận người lao động, pháp luật và thông lệ quốc tế trong thời gian làm việc ở nước ngoài; được tư vấn, hỗ trợ để thực hiện các quyền và hưởng các lợi ích trong Hợp đồng lao động, Hợp đồng thực tập.
Các văn bản pháp lý cũng quy định trách nhiệm và nghĩa vụ của người lao động như trách nhiệm nộp tiền ký quỹ, tìm hiểu các quy định của pháp luật có liên quan, tham gia khóa bồi dưỡng kiến thức cần thiết trước khi đi làm việc ở nước ngoài, tuân thủ pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước tiếp nhận người lao động.
Hiện nay, việc bảo đảm quyền, lợi ích cho LĐNN được xử lý thông qua hai kênh chính là Đại sứ quán Việt Nam ở nước sở tại và Ban quản lý lao động Việt Nam thuộc Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (chủ yếu áp dụng đối với nước có đông lao động Việt Nam đang làm việc).
Chính phủ ban hành nhiều chính sách hỗ trợ đầu tư mở thị trường lao động mới, thị trường có thu nhập cao, thị trường tiếp nhận nhiều người lao động thông qua việc kí kết các thỏa thuận hợp tác. Hiện tại, các thị trường LĐNN chủ yếu của Việt Nam là Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Malaysia, Bắc Phi và Trung Đông. Ngoài ra, Việt Nam cũng đã đưa lao động sang làm việc tại một số nước châu Âu như Cộng hòa Síp, Cộng hòa Séc, Phần Lan, Anh, Pháp, Italia, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Rumani và Slovakia. Trong đó, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan là các thị trường trọng điểm đem lại thu nhập cao, tiếp nhận nhiều lao động trong đó có lao động có trình độ chuyên môn.
Tóm lại, hệ thống văn bản chính sách pháp luật đối với hoạt động LĐNN đã có những điều chỉnh mới theo hướng tích cực như:
- Quy định mức trần tiền ký quỹ (được hiểu là mức tiền ký quỹ tối đa) mà doanh nghiệp dịch vụ có thể thỏa thuận với người lao động nhằm minh bạch hóa chi phí đi xuất khẩu lao động, tạo thuận lợi cho cả doanh nghiệp và người lao động;
- Chính sách hỗ trợ các chi phí cho người lao động đi làm việc bao gồm chi phí đào tạo nghề, chi phí làm thủ tục trước khi đi, chi phí giải quyết rủi ro trong thời gian làm việc ở nước ngoài…, đặc biệt là chính sách cho vay tối đa đến 100% chi phí đi lao động ở nước ngoài nhằm hỗ trợ người lao động có nhu cầu ra nước ngoài làm việc với tài chính hạn chế;
- Quy định hợp đồng mẫu đối với 02 loại hợp đồng ký giữa doanh nghiệp và đối tác nước ngoài và hợp đồng ký giữa doanh nghiệp và người lao động, đảm bảo công khai, minh bạch các trường hợp lao động được đưa ra nước ngoài làm việc;
- Quy định cụ thể chế tài, hình thức, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xuất khẩu lao động.
Những thay đổi tích cực nêu trên đã tạo hành lang pháp lý thông thoáng trong lĩnh vực đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, tạo điều kiện khuyến khích hoạt động LĐNN trong thời gian qua.
2.2.2. Giới và bình đẳng giới
Đối với Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, dễ dàng nhận thấy quá trình soạn thảo Luật đã rất chú trọng vấn đề bình đẳng giới. Cụ thể, trong quá trình soạn thảo, vấn đề bình đẳng giới (môi trường làm việc, hỗ trợ phòng chống xâm hại, ngược đãi, hỗ trợ sau khi trở về…) được rất nhiều đại biểu Quốc hội đề cập tại nghị trường và sau đó được Ban Soạn thảo giải trình, tiếp thu. Cụ thể, các quy định tại điều tại điểm e khoản 2 Điều 26 của Luật quy định về nghĩa vụ của doanh nghiệp dịch vụ và bổ sung nội dung giáo dục định hướng tại điểm i và k khoản 1 Điều 65 đã có lưu ý đến vấn đề bình đẳng giới - tuy chưa thật sự rõ ràng. Đây là vấn đề cần lưu tâm trong quá trình xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành luật.
Điểm e khoản 2 Điều 26 yêu cầu “Tổ chức quản lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động do doanh nghiệp đưa đi làm việc ở nước ngoài; có nhân viên nghiệp vụ đủ năng lực quản lý và hỗ trợ người lao động ở nước ngoài theo quy định của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; bảo đảm cung cấp trợ giúp pháp lý trong trường hợp người lao động cần đến các hỗ trợ pháp lý khi bị lạm dụng, bạo lực hoặc phân biệt đối xử trong quá trình làm việc ở nước ngoài.”
Điều 65 có Điểm i và k ở Khoản 1 có nội dung giáo dục định hướng giới cụ thể:
i) Kiến thức cơ bản của vấn đề cưỡng bức lao động, phòng, chống buôn bán người, bình đẳng giới, lạm dụng tình dục, bạo lực giới và các kỹ năng phòng ngừa;
k) Nội dung cơ bản về bảo hộ công dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng và những vấn đề cần phòng ngừa trong thời gian làm việc ở nước ngoài;
Luật lần này cũng đã bổ sung nhiều nội dung hỗ trợ từ Quỹ Hỗ trợ việc làm ngoài nước đối với các hoạt động đưa NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, góp phần nâng cao, phát huy hơn hiệu quả của Quỹ. Luật đã quy định rõ tính chất của quỹ ngoài ngân sách, nhằm hướng đến mục tiêu hỗ trợ NLĐ, DN.
2.3. Những bất cập ở các văn bản pháp luật về lao động
Bộ Luật Lao động có nhiều điểm tiến bộ, đặc biệt xét trên khía cạnh bình đẳng giới, bắt đầu có hiệu lực là từ năm 2021. Tuy vậy, thời điểm ban hành các văn bản hướng dẫn Luật khá muộn (cuối năm 2020) vì thế đến thời điểm này, nhiều địa phương và doanh nghiệp vẫn lúng túng trong việc áp dụng Luật mới.
2.3.1. Những quy định về báo cáo
Nghị định số 144/2007/NĐ-CP ngày 10/9/2007 của Chính phủ (đã hết hiệu lực) đã được thay thế bằng Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày 22/8/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Nghị định này sau đó được bổ sung, sửa đổi bằng Nghị định số 88/2015/NĐ-CP ngày 07/10/2015 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung Nghị định số 95/2013/NĐ-CP chỉ quy định việc xử phạt vi phạm điều kiện hoạt động của doanh nghiệp dịch vụ, vi phạm quy định về tuyển chọn, ký kết và thanh lý hợp đồng, quy định các mức xử phạt đối với các hành vi vi phạm hợp đồng, vi phạm tuyển lao động. Tuy vậy, nghị định chưa quy định việc xử phạt trong trường hợp doanh nghiệp dịch vụ không báo cáo, hoặc báo cáo không đúng thời gian quy định cho cơ quan quản lý Nhà nước về số lượng người lao động được tuyển chọn đi làm việc ở nước ngoài. Khoảng trống này đã gây khó khăn trong công tác quản lý lao động ở địa phương. Mặt khác, quy định xử phạt hành vi vi phạm chưa bảo đảm tính răn đe do mức xử phạt còn thấp dẫn đến khả năng có tình trạng coi thường pháp luật và vi phạm, đặc biệt là hành vi “cò mồi”, thu phí quá cao khi tuyển lao động, hoặc “trốn” ở lại nước ngoài khi hết hợp đồng lao động.
Thông tư số 21/2007/TT-BLĐTBXH ngày 08/10/2007 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn chi tiết một số điều của Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và Nghị định số 126/2007/NĐ-CP ngày 01/8/2007 của Chính phủ chỉ quy định việc báo cáo danh sách người lao động về nước hoặc ra ngoài hợp đồng theo mẫu tại Phụ lục số 10 và số 11 gửi Cục Quản lý lao động. Văn bản này không quy định gửi danh sách cho Sở Lao động - Thương binh và Xã hội các địa phương nên gây khó khăn cho việc quản lý người lao động về nước, ở lại nước ngoài trên địa bàn tỉnh.
2.3.2. Hỗ trợ học nghề, ngoại ngữ
Thủ tục hỗ trợ xuất khẩu lao động về học nghề, ngoại ngữ, bồi dưỡng kiến thức cần thiết, hỗ trợ chi phí làm thủ tục hộ chiếu, khám sức khỏe, lý lịch tư pháp trước khi đi làm việc ở nước ngoài quy định tại Quyết định số 71/2009/QĐ-TTg và Nghị định số 61/2015/NĐ-CP quá rờm rà, nhiều giấy tờ và khó thực hiện việc hỗ trợ cho người lao động; từ năm 2007 đến nay, địa phương (tỉnh Quảng Bình) không hỗ trợ được cho một đối tượng nào theo quy định.
2.3.3. Giải quyết khiếu nại tố cáo
Hiện tại chưa có thông tư hướng dẫn chi tiết thực hiện Nghị định số 119/2014/NĐ-CP ngày 17/12/2014 về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng. Khi chưa có Thông tư hướng dẫn, các cá nhân, đơn vị liên quan lúng túng khi xử lý vấn đề phát sinh cả trong nước và cả ở ngoài nước trong một khoảng thời gian không chỉ 1 năm mà có thể 2 năm, 3 năm hoặc lâu hơn quá trình lao động đi làm việc ở nước ngoài. Thông tư hướng dẫn về sau này khi xây dựng cần xem xét đặc thù này trong giải quyết khiếu nại và tố cáo.
Một ví dụ cụ thể là vấn đề văn bản Quyết định về đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Theo quy định của pháp luật hiện hành cũng như trên thực tế, các doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài không có quyết định nào bằng văn bản Nghị định quy định, mà người lao động và đại diện DN cùng thỏa thuận và ký một Hợp đồng dịch vụ đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài. Văn bản này vẫn thể hiện tính tự nguyện, không bị ép buộc của người lao động khi quyết định đi làm việc ở nươc ngoài qua DN mình lựa chọn. Do vậy, cần quy định làm rõ Hợp đồng dịch vụ có thể coi là “quyết định bằng văn bản” hay không.
Một ví dụ khác là có khá nhiều câu hỏi về thời hiệu khiếu nại. Theo Nghị định 119, “Thời hiệu khiếu nại lần đầu là 180 ngày, kể từ ngày người khiếu nại nhận được hoặc biết được quyết định, hành vi…”. Vấn đề đặt ra người lao động đi làm việc ở nước ngoài được hiểu như thế nào về thời hiệu khiếu nại, kể từ ngày nào; thế nào là nhận được biết được quyết định, hành vi…?
Trong thực tế, Thông tư hướng dẫn cần cân nhắc để làm rõ các trường hợp cụ thể hóa quy định về thời hiệu khiếu nại lần đầu. Chẳng hạn, sau khi người lao động được giáo dục định hướng, được nghiên cứu kỹ hợp đồng và ký chính thức hợp đồng rồi xuất cảnh thì thời hiệu khiếu nại lần đầu được tính từ ngày lao động xuất cảnh và có thời hiệu là 180 ngày tính từ ngày xuất cảnh. Trong thời gian đó, người lao động nếu có khiếu nại lần đầu thì sẽ được thụ lý và sau 180 ngày nếu có khiếu nại thì không được giải quyết.
Cũng có những trường hợp cần làm rõ trong văn bản hướng dẫn. Chẳng hạn, khi người lao động không được phổ biến, không có cam kết mặc dù người lao động đã ký hợp đồng và họ đưa được bằng chứng về lý do trên liệu họ co quyền khiếu nại sau 180 ngày kể từ ngày xuất cảnh? Trường hợp khác là khi chủ sử dụng vi phạm hợp đồng thì xác định thời hiệu khiếu nại của NLĐ quy định thế nào? Trường hợp khiếu nại xảy ra trong trường hợp họ về nước thanh lý hợp đồng (sau 1 năm, 2 năm…) thì liệu có được giải quyết không?
Do đặc thù trong trường hợp người lao động khiếu nại đang làm việc ở nước ngoài thì việc đối thoại giải quyết khiếu nại lần đầu nên có quy định người lao động có thể ủy quyến cho gia đình họ đối thoại với tổ chức đưa họ đi ở trong nước; tương tự khi giải quyết khiếu nại lần 2 thì Cục trưởng Cục Quản lý Lao động ngoài nước có thể ủy quyền cho người đứng đầu Ban Quản lý lao động ở nước đó đối thoại với người khiếu nại lần 2.
2.3.4. Giáo dục định hướng
Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (sửa đổi) tuy đã quy định tại điểm e khoản 2 Điều 26 về nghĩa vụ của doanh nghiệp dịch vụ và bổ sung nội dung giáo dục định hướng tại điểm i và k khoản 1 Điều 65, tuy nhiên những hoạt động này mới quy định về công tác chuẩn bị, giáo dục, định hướng cho người lao động (công việc mang tính chủ động). Còn việc xử lý các tình huống có yếu tố khách quan (phối hợp với các cơ quan sở tại thì chưa đề cập đến).
Trên thực tế, báo chí có phản ánh những vụ việc người giúp việc bị lạm dụng hoặc bị làm nhục, bạo hành tinh thần, thể chất uất ức đến tự tử khi đi lao động ở nước ngoài, không chỉ riêng trong người lao động Việt Nam. Chính vì thế, cần có quy định để đảm bảo khi trường hợp này xảy ra, sẽ có chế tài để phối hợp với nước sở tại xử lý, bảo vệ quyền lợi cho lao động đặc biệt là lao động nữ.
2.3.5. Hạn chế về ngành nghề với lao động nữ
Một số quy định tại các điều 27, 68 và 72 đã chú trọng đến việc lồng ghép bình đẳng giới vào luật. Tuy nhiên, việc luật hóa danh mục các công việc và khu vực người lao động không được đi làm việc ở nước ngoài dù được xem là góp phần hạn chế các rủi ro cho họ, đặc biệt là lao động nữ, nhưng lại có thể là nguy cơ phân biệt đối xử về giới. Một ví dụ là quy định hạn chế làm việc ở một số nghề như vũ công, ca sĩ, massage tại các nhà hàng, khách sạn, các trung tâm giải trí với mục đích để bảo vệ cho người lao động, nhất là lao động nữ, khỏi những nguy cơ về xâm hại tình dục, mại dâm, mua bán người. Đây là những ngành nghề mang lại thu nhập cao mà phù hợp với nữ. Theo Khuyến nghị số 26 của Công ước CEDAW, những quy định này trong Luật có thể được xem là phân biệt đối xử trên cơ sở giới.
2.3.6. Đơn phương chấm dứt hợp đồng
Ngoài ra, một số điều Luật chưa quy định cụ thể, trong quá trình ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Luật, cần chú ý cụ thể hóa một số quan điểm như sau: trong quá trình đưa người đi tham gia, Luật chưa quy định cụ thể, trong quá trình ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Luật, cần chú ý cụ thể hóa một số quan điểm như sung quyền và nghĩa vụ của người lao động, quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc thay đổi công việc trong trường hợp có vi phạm quyền lao động, quyền con người.
Luật chưa quy định cụ thể, trong quá trình ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Luật, trong việc ban hành chính sách, hỗ trợ đào tạo, cung cấp thông tin về thị trường lao động để hỗ trợ người lao động tìm kiếm việc làm; chưa cụ thể chính sách vay vốn ngay từ khi cung cấp thông tin về thị trường lao động để hỗ trợ người lao động trở về và lại tái diễn tình trạng nợ nần, nghèo khó.
2.3.7. Phòng chống buôn bán người và lao động bất thường
Trong quá trình biên soạn Luật, Ban Soạn thảo thể hiện rõ quan điểm là Luật chỉ điều chỉnh đối tượng người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Điều này bộc lộ một khoảng trống của Luật không điều chỉnh một bộ phận không nhỏ người vẫn là công dân Việt Nam đi lao động tại nước ngoài theo diện “chui”, mà mặc dù họ không chính thức được ghi nhận, theo dõi trong hồ sơ của các cơ quan quản lý nhưng vẫn đều đặn gửi kiều hối về nước, họ là nhóm đối tượng dễ gặp những rủi ro và bị lạm dụng trở thành nạn nhân của tệ mua bán người trong quá trình lao động.
Luật phòng, chống mua bán người năm 2011, vẫn tồn tại một số khó khăn, vướng mắc, cụ thể: Quy định về hỗ trợ nạn nhân bị mua bán theo Nghị định số 09/2013/NĐCP ngày 11/01/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng, chống mua bán người mâu thuẫn (quy định thẩm quyền ra quyết định hỗ trợ học văn hóa, học nghề cho nạn nhân tại Điều 39 Luật Phòng, chống mua bán người) còn khác biệt với Điều 23 của Nghị định số 09/2013/NĐ-CP gây khó khăn không nhỏ cho đơn vị trực tiếp thực hiện hỗ trợ nạn nhân.
2.3.8. Hòa nhập sau khi trở về
Thiếu quy định về việc hỗ trợ hòa nhập cộng đồng bền vững: nạn nhân bị mua bán người còn gặp khó khăn do nhận thức của cộng đồng, thiếu cơ chế phối hợp đồng bộ và thiếu nguồn lực cần thiết đảm bảo cho việc hồi gia bền vững.
Cụ thể, (i) Nạn nhân của mua bán người thường khó khăn trong việc hưởng các chính sách hỗ trợ (học nghề, vốn...). Những khó khăn bao gồm: cần đảm bảo các thủ tục hành chính (chứng minh là nạn nhân của mua bán người, chứng minh hộ nghèo...), vì vậy đã không tiếp cận được hoặc không muốn tiếp cận các chính sách hỗ trợ do đa số các nạn nhân trở về không muốn công khai hoàn cảnh và quá khứ quá mình, chưa kể để thực hiện được các chính sách này trong thực tế còn rất hạn chế, thiếu đồng bộ.
(ii) Hoạt động dạy nghề, tạo việc làm có thu nhập ổn định cho nạn nhân gặp khó khăn do trình độ văn hóa, nhận thức của nạn nhân có nhiều hạn chế (nhiều trường hợp không biết tiếng Kinh, có trường hợp còn mù chữ hoặc không có khả năng học lên do vấn đề sức khỏe tâm thần), nhiều trường hợp không đáp ứng được yêu cầu học nghề. Nhiều nạn nhân bị mua bán trở về còn trong độ tuổi vị thành niên khó tiếp cận được chương trình hỗ trợ học nghề và vay vốn sản xuất.
(iii) Nạn nhân sau khi trở về địa phương khó khăn trong việc hòa nhập tại cộng đồng do sự kì thị của cộng đồng, thậm chí từ cả những người thân trong gia đình khiến tâm lý của nạn nhân bị ảnh hưởng nặng nề, có những trường hợp nhận thấy không thể sinh sống và làm việc tại địa phương phải di chuyển đi nơi khác và bị tái mua bán hoặc bị buộc tham gia vào hoạt động trái pháp luật, một số trường hợp đã trở thành tội phạm mua bán người do biết cách đi lại biên giới.
Phần này trình bày kết quả điều tra về thực trạng người lao động ở nước ngoài tại 4 xã Thanh Trạch, Hải Phú, Đức Trạch, Nhân Trạch, Huyện Bố Trạch, Tỉnh Quảng Bình là vùng thực hiện dự án.
3.1. Đặc điểm xã hội của mẫu điều tra
Phần này của báo cáo giới thiệu những đặc điểm nhân khẩu, kinh tế gia đình và văn hóa, xã hội của những người tham gia điều tra. Những đặc điểm này được phân tích và trình bày theo địa phương, giới tính và nhóm tuổi. Những mục tiêu khác nhau và đích các nước tới để thực hiện mục tiêu cũng được trình bày ở phần này.
3.1.1. Đặc điểm nhân khẩu
Ở các xã tham gia dự án, các thôn đều có người LĐNN và đều có mật độ người đi cao. Theo số liệu từ các trưởng thôn cung cấp, Thanh Trạch là xã có tỷ lệ người đang đi LĐNN tính cho một hộ gia đình cao nhất ở mức 0,85 người, kế là Nhân Trạch: 0,81. Ở hai xã này, mỗi xã có hai thôn mà số người đang LĐNN có tỷ lệ tính cho một hộ gia đình nhiều hơn 1. Đó là thôn Nhân Nam và Nhân Đức ở xã Nhân Trạch, và Thanh Vinh và Thanh Hải ở xã Thanh Trạch.
Hai xã còn lại có mức độ người đi thấp hơn, nhưng cũng cao, như Hải Phú có tỷ lệ người đi trên hộ là 0,51 còn Đức Trạch thấp nhất: 0,38. Tỷ lệ nữ trong LĐNN được ghi nhận từ các thôn có số liệu là dao động trong khoảng 21-28%. Các cuộc thảo luận nhóm với trưởng thôn các xã chỉ ra rằng, ở Đức Trạch, có một đội tàu đánh bắt xa bờ lớn với 218 tầu, nên việc làm trong xã cũng nhiều.
Cuộc khảo sát đã thu thập được thông tin bảng hỏi của 254 người từ bốn xã, gồm đối tượng lao động có nhu cầu đi LĐNN, lao động đang làm việc ở nước ngoài và LĐ đã làm việc ở nước ngoài trở về, trong đó có 54% là nữ và 46% là nam (Phụ lục 5.1). Số mẫu trong mỗi xã dao động từ 49-80, đủ cho phép phân tích số liệu cả theo giới tính và theo xã.
Về giới tính xét theo tình trạng LĐNN, trong cả ba nhóm muốn đi LĐNN, đang làm việc ở nước ngoài và đã về, mẫu lựa chọn đáp ứng mục đích dự án tập trung khảo sát “nữ” LĐNN nên tỷ lệ LĐ nữ được khảo sát lớn hơn rất nhiều so với tổng thể, với tỷ lệ nữ dao động trong phạm vi 53-54%. Số người trong ba nhóm, tuy vượt trội trong nhóm muốn đi 149 mẫu, và hai nhóm đang lao động và đã về nhỏ hơn, tương ứng là 40 và 65, nhưng cũng đủ để phân tích thống kê.
Biểu đồ 3.1.1. Tình trạng hôn nhân trong mẫu điều tra.
Về tuổi, trong số mẫu tham gia điều tra (Xem Phụ lục 5 Bảng 5.4), có 17% ở độ tuổi dưới 24. Hai nhóm độ tuổi lao động chín chắn là 24-30 chiếm 31% và nhóm 30-45 chiếm 45%. Nhóm trên 45 tuổi, là độ ngoài chế độ tuyển dụng củng cố và tới tổng cộng là 6%; xét riêng trong những người đang làm việc LĐNN, tỷ lệ trong nhóm này khá cao chiếm tới 18%.
Về tình trạng hôn nhân, số người chưa kết hôn trong bộ mẫu chiếm 35% và đang trong hôn nhân chiếm 62%, số còn lại ở ở trong tình trạng góa hoặc ly hôn (Hình 1). Việc phân tích sẽ có ý nghĩa thống kê khi chia mẫu thành hai nhóm chưa kết hôn và đã có kinh nghiệm hôn nhân.
Cuộc điều tra ghi nhận trong bộ mẫu, đa số (86%) là những người trong các gia đình thuần nông và ngư, cũng như các gia đình có sinh kế chủ yếu là đi làm công. Những người trong các gia đình có sinh kế là phi nông nghiệp và công chức viên chức chiếm một số rất ít trong bộ mẫu.
Xét theo mức sống, ở thời điểm điều tra, tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo trong số mẫu khảo sát chiếm một tỷ lệ nhỏ, tương ứng 1 và 3%. Tỷ lệ hộ được coi là khá, theo phương pháp tự nhận cũng nhỏ, chỉ chiếm 4%, số còn lại 93% là nhóm hộ trung bình. Với phân bố khá phù hợp với cơ cấu mức sống chung ở các xã như vậy, việc phân tích mẫu theo nhóm mức sống ít có ý nghĩa. Phân bố theo mức sống này cũng giữ cùng khuôn mẫu xét theo địa bàn các xã, cũng như theo tình trạng lao động muốn đi, đang và đã đi LĐNN.
Trong số mẫu điều tra, 58% là những người chưa từng đi LĐNN và 42% đã và đang làm việc ở nước ngoài (Phụ lục 5 Bảng 5.3).
Biểu đồ 2.2.3 LĐNN phân theo kinh nghiệm tại các xã dự án
Trong số những người muốn đi LĐNN, đa số ở độ tuổi 24-45 (77%), tuy nhiên có cả những người ở độ tuổi trên 45, tuy không nhiều. Những người ở nhóm tuổi này, thường không nằm trong diện tuyển dụng theo hợp đồng lao động chính thức. Tương tự, cũng có những người trong nhóm trên 45 đang làm việc ở nước ngoài.
Biểu đồ 2.3.1. Điều tra theo học vấn và nhóm tuổi

Về học vấn, có thể thấy ở nhóm trẻ (Phụ lục 5, Bảng 5.4), lao động có học vấn cao hơn hẳn nhóm tuổi trên 30 và trên 45. Với thanh niên dưới 24 tuổi, tỷ lệ hoàn thành PTTH chiếm tới 76% và với nhóm tử 24 tới 30- 72%. Hai nhóm tuổi từ 30-45 và trên 45 có tỷ lệ hoàn thành PTTH tương ứng là 34 và 13%. Điều này cũng có nghĩa thanh niên có cơ hội đi theo các hợp đồng với các công ty tư vấn môi giới cao hơn.
Khi xem xét theo giới tính (Phụ lục 5 Bảng 5.8), học vấn giữa nam và nữ cơ bản là như nhau. Sự chênh lệnh về học vấn các cấp học của hai nhóm chỉ chênh lệch dưới 3%. Chỉ số này cho thấy không có sự bất bình đẳng về học vấn trên cơ sở giới.
Biểu đồ 2.3.2. Điều tra theo học vấn và giới tính
Trong số mẫu điều tra, có 170 người (69%) trả lời là có tham gia một trong các đoàn thể chính trị xã hội ở địa phương (Phụ lục 5 Bảng 5.10). Đoàn thanh niên được liệt kê có nhiều người tham gia nhất (một nửa số người trả lời), đặc biệt trong nhóm dưới 30 tuổi. Kế là Hội phụ nữ - 42% và Hội nông dân -21%.
Trong số những người chưa đi LĐNN, tỷ lệ tham gia HPN cao hơn hẳn (gần gấp ba lần) so với tỷ lệ này trong nhóm người đã và đang đi LĐNN (chỉ có 12%). Với HND, tỷ lệ này không chênh nhau đáng kể, cụ thể là 11% ở nhóm chưa đi và 10%- nhóm đã và đang đi LĐNN.
Biểu đồ 2.4.1. Tham gia các đoàn thể chính trị ở cơ sở
Với người có mong muốn đi và đang/đã LĐNN, kỹ năng sử dụng mạng xã hội có ý nghĩa quan trọng trong việc tìm kiếm thông tin và duy trì quan hệ với gia đình. Cuộc khảo sát có kiểm tra việc sử dụng các loại mạng xã hội ở các nhóm lứa tuổi, giới tính và quan hệ LĐNN. Với bốn loại mạng xã hội được tìm hiểu là Facebook, Zalo, Tiktok và Youtube- đây là các MXH phổ biến nhất ở Việt Nam
[6], cuộc điều tra ghi nhận có 248 lượt người trả lời có sử dụng ít nhất một trong các MXH này.
Số liệu (Phụ lục 5 Bảng 5.11) cho thấy trong các nhóm tuổi, gần như Facebook được tất cả mọi người dùng. Nhóm cao tuổi hơn cả (lớn hơn 45 tuổi), có tỷ lệ dùng MXH này (trong nhóm tuổi) thấp nhất cũng có tỷ lệ 93%. Đứng thứ hai là Zalo, mạng xã hội được coi là bản địa. Nhóm tuổi 24-30 là nhóm có tỷ lệ người dùng cao nhất, chiếm tới 75%, số người trong nhóm tuổi; đứng thứ hai về mức độ phổ biến là nhóm dưới 30-45 tuổi- 68%; Nhóm trẻ dưới 24 tuổi- 63.6%. Zalo có mức độ phổ biến thấp nhất (53%) trong nhóm trên 45 tuổi.
Biểu đồ 2.5.1. Mục đích sử dụng internet trong cộng đồng
Hai mạng xã hội dùng hình ảnh động (video) là YouTube và TikTok có mức độ sử dụng thấp. Hai nhóm trẻ tuổi nhất có tỷ lệ người dùng MXH này cao hơn, nhưng cũng chỉ đạt 52% với nhóm tuổi trẻ nhất (dưới 25 tuổi). Khi phân tích mẫu theo các nhóm muốn LĐNN, đang/đã đi LĐNN, việc sử dụng mạng Facebook cũng phổ biến tới 99% người trả lời, và mạng Zalo đứng thứ nhì với tỷ lệ người dùng trong hai nhóm tương ứng là 74 và 62%. Mạng YouTube và Tiktok ít người dùng hơn.
Kết quả điều tra ghi nhận trong những mục đích sử dụng internet (và mạng xã hội) của những người tham gia điều tra, phổ biến nhất là để đáp ứng nhu cầu về tin tức (76% người trả lời), kế đó là để giải trí (63%). Hơn một nửa người trả lời cho biết là họ dùng để liên lạc với người thân. Chưa đầy 40% người trả lời cho biết họ dùng internet để tìm cơ hội việc làm ở nước ngoài hay học hỏi nghề nghiệp; đáng chú ý, nhóm sử dụng dụng internet cho mục đích trang bị kiến thức về luật pháp lao động Việt Nam và lao động nước ngoài có tỉ lệ rất thấp (thấp nhất trong liệt kê các mục đích sử dụng). Điều này cũng phần nào lý giải cho việc người lao động Việt Nam thường có những mảng trống trong hiểu biết pháp luật Việt Nam và các nước sở tại. Thực trạng này cũng đặt ra một vấn đề đối với công tác tuyên truyền: rõ ràng rằng nội dung kiến thức pháp luật là nội dung tương đối khô cứng, nhàm chán và khó hiểu nếu không gắn vào các tình huống thực tế. Vì thế, nếu muốn tăng tỉ lệ phụ nữ tiếp cận với kiến thức pháp luật, cần phải lồng ghép qua các kênh thông tin mạng xã hội bằng hình thức dễ hiểu, gắn với tình huống cụ thể hơn.
Kết quả từ một số cuộc phỏng vấn sâu cũng khẳng định thêm giả thuyết này.
Những nhóm người tham gia điều tra cho biết họ theo đuổi đa mục đích khi đi LĐNN (để giải quyết những vấn đề cá nhân), những mục đích này có những ưu tiên khác nhau trong những giai đoạn chuẩn bị đi, đang làm việc ở nước ngoài và khi trở về.
Ở cả ba nhóm, ưu tiên hàng đầu là thu nhập để thay đổi cuộc sống cả bản thân và điều này là nổi bật nhất ở những người đang làm việc ở nước ngoài (64-90% người trả lời). Khi đang ở nước ngoài và cả khi trở về, vấn đề trả nợ cho gia đình là mục đích thứ hai trong số người trả lời, tương ứng là 58 và 59%. Giải quyết vấn đề việc làm là mục đích quan trọng thứ hai với người dự định đi và thứ ba với người đang làm việc ở nước ngoài và đã về. Với những người đã trở về, hơn một nửa (55%) trong số họ nhận thấy việc đi LĐNN có ý nghĩa thay đổi đời sống của thế hệ đời con.
Dường như, những khát vọng của người đi LĐNN có thể đáp ứng nếu giải quyết được việc làm ở địa phương với một mức thu nhập phù hợp; một lợi thế cơ bản của việc làm trong nước là không làm cho người lao động phải chịu sức ép của việc trả nợ để tìm việc nước ngoài, điều này có thể đối trọng phần nào với nhu cầu có thu nhập cao vượt trội (để trả nợ).
Biểu đồ 2.6 Mục đích đi lao động nước ngoài
Với những người mong muốn đi LĐNN, qua các cuộc thảo luận nhóm với cả nam và nhóm nữ ở các thôn ở cả bốn xã điều tra, có thể thấy người lao động hiểu rõ các yếu tố lựa chọn nơi tới cho mình căn cứ vào thu nhập khi tới làm việc, chi phí cho chuyến đi về tiền và thời gian chờ đợi, mức độ chấp nhận rủi ro khi đi theo con đường không chính thức.
Các điểm tới có mức chi phí vừa phải, có thu nhập tốt, điều kiện lao động phải đáp ứng về tay nghề, khả năng về thăm gia đình, và hợp pháp và an toàn (không có rủi ro) được xác nhận là các nước Nhật Bản, Hàn Quốc. Một số nước ở thị trường Châu Á như Singapore, Trung Quốc, Đài Loan, Lào, Thái Lan cũng được lao động nữ lựa chọn. Trong nhiều năm, người lao động đi theo những con đường có hợp đồng lao động với các công ty môi giới theo các cô-ta mà họ được phân phối hay “khai thác thị trường”. Với Hàn Quốc, do có nhu cầu về lao động làm nghể biển ở Hàn Quốc (do lao động thanh niên trẻ không làm), những người ở các xã dự án có kinh nghiệm làm nghề đánh bắt cá đặc biệt phù hợp.
Các nước được người lao động ưa thích lựa chọn nhưng có nhiều cản trở tập trung ở châu Âu, ví dụ như Anh, Đức, Ba Lan, Nga; hay các nước châu Úc, như Úc và New Zealand; các nước châu Mỹ như là Canada, Mỹ. Những yếu tố thúc đẩy với nhóm nước này là thu nhập cao và môi trường làm việc tốt. Ngược lại có những yếu tố cản trở được liệt kê là chi phí cao, thời gian chờ đợi lâu nếu đi theo đường chính ngạch, khả năng đáp ứng về kỹ năng nghề nghiệp và không có các chỉ tiêu về lao động hợp tác giữa các chính phủ.
Các cuộc phỏng vấn cá nhân cho thấy với các nước ở các châu Âu, Mỹ và Úc, người lao động đi bằng con đường du lịch, du học rồi “trốn ra làm ngoài”. Khi đi “bất thường” như vậy, những rủi ro có thể giảm mạnh nếu người đi có người thân bên nước sở tại đón. Hơn nữa, khi đi theo đường “tiểu ngạch” chi phí về thời gian giảm mạnh, thường dưới một năm là đi được.
Một số cuộc phỏng vấn định tính cho thấy, một nhóm đáng kể phụ nữ ở ngoài các vùng ven biển, thường là từ các gia đình có thu thập thấp, ưu tiên chọn các nước đi gần, như Trung Quốc hay Lào. Để tới các nước này, chi phí của chuyến đi thấp chỉ ở mức khoảng 10 triệu VND. Thông thường, họ đi theo đường được gọi là “tiểu ngạch”, cách gọi khác của đi không chính thức qua người môi giới dẫn đường. Thời gian đi cuả họ cũng ngắn, thường là một năm trở lại. Mức thu nhập của họ một tháng, được biết bằng một nửa so với người đi, ví dụ, Đài loan.
3.2 Tiếp cận thị trường và tham gia lao động ở nước ngoài
Trong những người tham gia điều tra, có 149 người (59%) mong muốn đi LĐNN, trong số này, có 54% là nữ và 46% là nam (Phụ lục 5 Bảng 5.12). Những người còn lại thuộc hai nhóm đang và đã làm việc ở nước ngoài. Phần 3 này của báo cáo đề cập tới hiện trạng tiếp cận của những lao động này tới thị trường LĐNN, hoàn cảnh làm việc của họ khi ở nước ngoài, cũng như khi họ trở về cũng như tác động của LĐNN với gia đình và cộng đồng.
Với những người đang có nguyện vọng đi LĐNN, phần lớn họ đều thể hiện dự định sẽ đi trong phạm vi một (74%) hoặc hai năm tới (Hình 3.1.). Phần này đưa ra các phát hiện về hiểu biết của họ về các nơi dự định tới làm việc, việc chuẩn bị ngoại ngữ, cũng như tiếp cận nguồn lực tài chính của họ để chuẩn bị cho quá trình đi.
Hình 3.1. Thời điểm muốn đi của những người có dự định LĐNN
3.1.1. Cách tìm hiểu về thị trường lao động nước ngoài
Trong số 148 người cho ý kiến, cuộc điều tra ghi nhận có tới 76% cho biết “tự tìm hiểu” là cách họ biết về thị trường LĐNN (Phụ lục 5 Bảng 5.13). Bạn bè giới thiệu là một nguồn quan trọng với gần 35% ý kiến cho biết đây là cách họ tiếp cận thông tin về thị trường LĐNN. Tỷ lệ được người nhà giới thiệu chiếm 26%. Chỉ có 20% cho biết họ có thông tin từ các công ty môi giới lao động việc làm.
Với phụ nữ, điều khác biệt các tìm hiểu nguồn tin về thị trường lao động là nguồn người nhà giới thiệu quan trọng hơn (30% nữ cho biết), trong khi chỉ có 20% nam dùng nguồn này. Với nam, người môi giới là nguồn tin của 14%, trong khi với nữ- chỉ 4%. Có thể thấy rõ việc tìm hiểu các thông tin về thị trường lao động nước ngoài chủ yếu là tự tìm hiểu qua người thân hoặc bạn bè. Họ rất ít biết đến các thông tin chính thống từ chính quyền địa phương hay các công ty cung cấp dịch vụ lao động nước ngoài có uy tín.
Biểu đồ 3.1.1 Cách tìm hiểu thị trường lao động nước ngoài
3.1.2. Việc học nghề
Có thể thấy rằng, ở thời điểm hiện tại, có tới gần 60% người trong nhóm muốn đi lao động chưa học nghề. Có thể nhìn nhận là nhiều khả năng là tới đây họ sẽ làm các công việc dành cho lao động giản đơn, không có kỹ năng.
Trong số những nghề được các ứng viên đi học (Phụ lục 5 Bảng 5.14), có thể thấy sự khác biệt rõ nét về nghề nghiệp của nam và nữ. Nam học các nghề cần sức lao động và đòi hỏi về kỹ thuật, ví dụ như cơ khí, điện máy (33%); sơn, mộc, xây dựng, lái xe (18%); tàu biển, nghề cá (15%). Còn nữ tập trung học các nghề “nhẹ nhàng”, lao động phổ thông như chăm sóc cá nhân, làm đẹp (63%), may (14%), chế biến thực phẩm, nhà hàng (8%). Khi chưa được đào tạo kỹ năng nghề nghiệp có kỹ thuật và trình độ cao, người lao động chủ yếu là lao động phổ thông và tương ứng có mức lương thấp, có mức bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội hạn chế và dễ có khả năng mất việc trong các tình huống khủng hoảng.
Biểu đồ 3.1.2.Việc học nghề và chưa học nghề của NLĐ mong muốn đi NN
Số người cho biết đã học ngoại ngữ cũng rất ít (nam- 8%; nữ - 4%), thậm chí có người nhận định là họ đi nước ngoài nhưng không cần biết ngoại ngữ vì đã có người quen, người nhà.
Trong số những người có dự định đi LĐNN, đáng chú ý là họ hoàn toàn không có sự chuẩn bị cho mình về việc tìm hiểu phong tục tập quán. Đây có thể là khoảng trống mà những tổ chức hỗ trợ người lao động có ý muốn LĐNN đóng góp để có thể làm giảm những xung đột hay va chạm với người địa phương hay người lao động bản địa, cũng như giảm các cú sốc văn hóa.
Trong tổng số 105 người đã đi lao động nước ngoài làm việc trở về và đang làm việc ở nước ngoài thì số người có hiểu biết về tiêu chuẩn tuyển dụng là 90 người, chiếm tỷ lệ là 85%. Còn những người mong muốn đi lao động nước ngoài thì chưa biết gì về tiêu chuẩn tuyển dụng (Phụ lục 5 Bảng 5.17).
Ngoài một số người có chuẩn bị về học tập nghề nghiệp, có thể thấy người mong muốn đi LĐNN có một sự thụ động trong việc tìm hiểu phong tục tập quán, pháp luật địa phương, cũng như các tiêu chuẩn tuyển chọn.
Cuộc điều tra ghi nhận trong số 149 người có nhu cầu đi lao động nước ngoài thì có 81 người (54%) cho biết họ chưa hề đọc, dù là sơ qua, các luật Bộ luật dân sự, Luật lao động, Pháp luật về xuất khẩu lao động, Luật khiếu nại, Luật tố cáo, Luật bình đẳng giới, Luật hôn nhân và gia đình, Luật phòng chống bạo lực gia đình và Luật trợ giúp pháp lý. Tỷ lệ này trong phụ nữ có cao hơn ở mức 58% (Phụ lục 5 Bảng 5.18).
Biểu đồ 3.1.5 Xác nhận chưa đọc các văn bản Luật liên quan đến LĐNN
Về cách thức người tham gia điều tra biết về luật pháp lao động của nơi tới, có thể vai trò của các công ty tuyển dụng khá hạn chế, chỉ đạt không quá 30% người lao động hoặc các ứng viên. Đa số người tham gia ở cả ba nhóm tự mình tìm hiểu về pháp luật lao động (68-82%). Vai trò của người quen, bạn bè có ý nghĩa ngang với công ty tuyển dụng và môi giới.
Có thể nhận thấy những hạn chế về hiểu biết về pháp luật lao động của những người quan tâm tới LĐNN có hai yếu tố ảnh hưởng: sự quan tâm của người lao động với pháp luật và mức độ năng động/hiệu quả của các công ty môi giới.
Như đã ghi nhận dưới đây ở Mục 3.1.7, nguồn vốn là yếu tố rào cản quan trọng để có thể đi LĐNN. Điều này được làm rõ hơn với 149 người trả lời về việc cần vay mượn để đi LĐNN. Trong số này, 89% (133 người) cho biết họ cần phải vay mượn. Tỷ lệ nữ trong số cần vay mượn 88%, còn trong nam giới là 91%- chênh nhau không nhiều (Phụ lục 5 Bảng 5.19).
Trong các nguồn mà họ có thể vay được, phổ biến hơn cả là các ngân hàng: 55 người nói là vay được từ ngân hàng thương mại và 59 người nói là vay được từ Ngân hàng chính sách xã hội. Trong số những người có thể vay NHTM có 58% là nam và 42% là nữ. Còn với NHCS, tương ứng là 49 và 51%.
Điều đáng chú ý là có 61 người (trong đó có 36 nữ) nói là họ có thể vay từ bạn bè, và 6 người (4 nam) cho biết họ vay mượn từ nguồn tư nhân lãi cao. Đây là chỉ báo về tầm quan trọng của các nguồn vay không chính thức cho mục tiêu LĐNN.
Biểu đồ 3.1.6. Các nguồn vay của những người nữ muốn đi LĐNN
Trong 146 ý kiến trả lời về những rào cản để tham gia LĐNN, yếu tố tài chính được coi là quan trọng nhất (Phụ lục 5 Bảng 5.20). Có hơn một nửa số người muốn tham gia LĐNN (54%) coi tài chính là yếu tố cản trở. Đứng thứ hai là ngôn ngữ, với một nửa số người tham gia điều tra coi đó là yếu tố rào cản. Giữa hai giới nam và nữ, các yếu tố rào cản này không có khác biệt nhiều.
Trong các nhóm tuổi, các yếu tố rào cản về ngoại ngữ và vốn có sự khác biệt đáng kể. Với nhóm tuổi 30-45, các yếu tố cản trở với họ là học vấn (do họ có học vấn thấp), và trách nhiệm chăm sóc người thân. Với những nhóm trẻ hơn, cản trở với họ là ngoại ngữ và vốn cần có để có thể tham gia LĐNN. Như vậy, có thể hình dung được với nhóm người trên 30 tuổi mà tham gia LĐNN họ có thể gặp những tình huống bất lợi do học vấn thấp, không có tay nghề phù hợp mà vẫn nặng trách nhiệm chăm nom người thân ở quê hương.
Trong những người đã đi LĐNN, không ít cá nhân cho rằng “anh chị em dắt díu nhau đi”, hay là nhấn mạnh vai trò của mạng lưới quan hệ gia đình trong việc thúc đẩy LĐNN. Nghiên cứu đưa ra những cơ sở củng có ý kiến này.
Cuộc điều tra này cho thấy, trong số 149 người có ý muốn LĐNN, có 82% người trả lời cho biết là đã tham vấn người thân hay bạn bè đang LĐNN, với phụ nữ tỷ lệ này là 88%. Như vậy, có thể thấy trải nghiệm của người đã và đang LĐNN có tác động quan trong tới quyết định của người đang có ý định đi LĐNN, đặc biệt với phụ nữ.
Một số cuộc phỏng vấn sâu cho thấy, khi có người thân ở nước ngoài, phụ nữ đặc biệt là phụ nữ trẻ khao khát muốn đi nhanh và không thấy có bất kỳ nguy hiểm nào. Họ cũng vững tin vượt qua luôn những rào cản về mặt ngôn ngữ hay kỹ năng nghề nghiệp với tâm lý: “người khác làm được thì mình cũng làm được”; một số người có thể lường trước những khó khăn do thấy nhiều vụ việc “đau lòng” trên báo đài. Người lao động cho rằng việc tìm công ty uy tín là quan trọng và họ mong muốn, các công ty này được chính quyền xã giới thiệu như là một cách bảo chứng tạo sự tin cậy cao với các tổ chức môi giới.
Cuộc điều tra này đã tiếp xúc được 40 người đang LDDNN, trong đó 21 người là nữ. Phần này của báo cáo giới thiệu những đặc điểm xã hội của họ và ý kiến của họ về quá trình tuyển dụng, cũng như nhìn nhận của họ về quá trình lao động ở nước ngoài. Đoàn khảo sát tiếp cận và phỏng vấn người đang LĐNN bằng chế độ gọi video-call của các mạng xã hội hoặc Zalo hoặc Messenger, sau khi hẹn với họ qua người thân ở địa phương.
Trong số những người đang lao động ở nước ngoài mà cuộc điều ra tiếp cận được, có 25 người trong độ tuổi dưới 30, có 14 người trong nhóm tuổi 30-45 (nằm trong phụ lục Bảng 3.2.1.a).
Trong người đang LĐNN, có 73% là đang làm việc ở các nước Đông Á, nhiều nhất là Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan (nằm trong phụ lục Bảng 3.2.1.c). Có 15% đang làm việc ở các nước phương Tây, như Úc, Canada và Đức. Có thể coi các ý kiến ở đây, cơ bản là đại diện cho những người đang làm việc ở Đông Á.
Có 38 trong 40 người đang làm việc ở nước ngoài đánh giá về mức độ hài lòng với quá trình tuyển dụng và đào tạo cho LĐNN.
Trước nhận định “Tôi hoàn toàn hài lòng với toàn bộ quá trình tuyển và đào tạo để XKLD”, có 32% hoàn toàn đồng ý và 45% đồng ý một phần. Tỷ lệ hoàn toàn không đồng ý là 5% và “không đồng ý một phần” là 8%. Có thể thấy, mức độ hài lòng của khách hàng như vậy là khá cao, nhưng vẫn còn chỗ để hoàn thiện.
Trong các nội dung hợp phần của quá trình tuyển dụng, những người đang LĐNN ít hài lòng hơn cả về chi phí dạy nghề và chi phí khám sức khỏe. Với các câu hỏi tương tự về nội dung chi phí dạy nghề, tỷ lệ hoàn toàn đồng ý và đồng ý một phần bằng nhau và là 32%, còn nói về chi phí khám sức khỏe, tỷ lệ tương ứng 37 và 21%.
Tất cả 40 người trả lời về các thách thức, rào cản khi LĐNN. Ý kiến của họ ở Bảng 3.2.3 cho thấy, khác với những người muốn đi LĐNN, khả năng nói tiếng nước ngoài được nhiều người nêu ra hơn cả. Trong nam giới, một nửa cho rằng cản trở là tiền vốn chi ra để đi LĐNN, trong khi đó chỉ có 29% nữ cho là như vậy.
Trong những người LĐNN, một số đáng kể đang có dư nợ với các tổ chức thương mại chính thức và các chủ nợ phi chính thức. Nhiều hơn cả là những người mới đi được 1-2 năm, tuy vậy có những người đi hơn 5 năm vẫn còn nợ cả ở các tổ chức tín dụng chính thức, và cả nợ nần ở khu vực phi chính thức.
Nói về việc tham gia các cuộc tập huấn và truyền thông về pháp luật, đại đa số -70% người đang LĐNN cho biết họ chưa dự lần nào. Với phụ nữ, tỷ lệ này cao hơn đáng kể so với mức trung bình, cụ thể là 76%. Có khoảng một phần ba trong họ cho biết đã một vài lần dự các hoạt động này.
Một cách tổng quan nhất, trong số 40 người đang làm việc ở nước ngoài mà cuộc điều tra tiếp cận được, chỉ có 45% người đang làm việc ở nước ngoài hoàn toàn đồng ý với nhận định “Hoàn toàn hài lòng với toàn bộ quá trình làm việc khi LĐNN” (Bảng 3.2.4.a). Số người đồng ý một phần là 45%. Số người đồng ý một phần là 40%. Số người hoàn toàn không đồng ý là 3%.
Đi vào chi tiết, về việc tuân thủ hợp đồng lao động đã ký kết, chỉ có hơn một nửa (55%) hoàn toàn đồng ý là các công ty môi giới và chủ sử dụng lao động tuân thủ các cam kết nêu trong hợp đồng lao động (Bảng 3.2.4. b). Có 5% hoàn toàn không đồng ý với nhận định này.
Với những nội dung chi tiết, những người đang lao động ở nước ngoài đồng ý ở mức cao hơn (85-86%) với các nhận định tích cực về nơi làm việc, giờ làm việc phù hợp với hợp đồng lao động, cũng như về mức độ bình đẳng về trả công, trả lương tương đương với lao động bản địa (Bảng 3.2.4.c.). Đáng chú ý là có tới 13% hoàn toàn không đồng ý về mức độ bình đẳng về trả công trả lương, phụ cấp làm việc với người bản địa. Về nơi làm việc, giờ làm việc hoặc tiền công, tiền lương và phụ cấp phù hợp với hợp đồng lao động, không có nam giới nào hoàn toàn không đồng ý, trong khi nữ giới vẫn có người có ý kiến khác.
Trong quá trình làm việc tại nước ngoài người lao động được học hỏi thêm về ngoại ngữ, tiếp cận với các phương pháp làm việc tiên tiến, tiếp thu công nghệ mới, có điều kiện nâng cao tay nghề…mà không phải trả tiền chi phí đào tạo.
Bạo lực nơi làm việc được nam và nữ đánh giá khác nhau về loại thể xác và tinh thần. Hầu hết cả nam và nữ (tương ứng là 89 và 90%) hoàn toàn đồng ý là chưa gặp bạo lực thể xác (nằm trong phụ lục Bảng 3.2.5.a). Tuy vậy, với bạo lực tinh thần chỉ có 42% đồng ý là chưa bao giờ gặp. Với phụ nữ, tỷ lệ này là 62%. Có thể thấy, bạo lực tinh thần ở nơi làm việc là khá phổ biến khi lao động ở nước ngoài.
Về bạo lực tình dục nơi làm việc, có 5% phụ nữ hoàn toàn không đồng ý là “chưa bao giờ gặp bạo lực về tình dục”, trong khi với nam, không có ai có ý kiến về vấn đề này (nằm trong phụ lục Bảng 3.2.5.b). Tỷ lệ nữ hoàn toàn đồng ý là 90%, trong khi với nam tỷ lệ này chỉ là 68%. Kết quả này có thể gợi ý rằng, với nam LĐNN, họ chịu nhiều bạo lực tình dục hơn, nhưng ở những dạng không nghiêm trọng, còn với phụ nữ ít người bị bạo lực tình dục, nhưng khi gặp thì là ở dạng nghiêm trọng.
Một giả thuyết nữa cũng được đặt ra là có thể nam giới thì cởi mở khi nói về vấn đề này hơn nữ giới. Nữ giới thường sợ bị kỳ thị khi thú nhận ra vấn đề nhạy cảm này nên có thể họ không thành thực trong câu trả lời của mình. Mặt khác, do không nắm vững các quy định luật về vấn đề này, họ không biết liệu mình có được bảo vệ khi thú nhận những vấn đề này hay không.
Đóng góp của người LĐNN cho cộng đồng được các nhà chức trách ghi nhận. Một cách định tính, cán bộ ở các xã cho một cảm nhận về việc các gia đình có người LĐNN có vốn đầu tư vào các doanh nghiệp vi mô, hoặc vừa và nhỏ, ví dụ mở nhà hàng, khách sạn, karaoke hoặc các tiệm tạp hóa nhỏ. Qua đó họ tạo việc làm cho bản thân và địa phương.
Ở các xã điều tra, gia đình những người có LĐNN đóng góp tình nguyện và hào phóng cho việc xây mới, tu bổ và mua sắm đồ mộc và các trang thiết bị cho các công trình công cộng, như nhà văn hóa thôn hay đình chùa của xã. Có những xã, những công trình này có giá trị vài tỷ, được xây dựng với phần đóng góp từ cộng đồng, mà quan trọng là các gia đình có LĐNN, như được minh họa ở ví dụ trong Hộp 1.
Các lãnh đạo thôn và xã cũng ghi nhận việc đóng góp từ cộng đồng, cũng đồng nghĩa với từ các gia đình có LĐNN dễ dàng để xây dựng đường làng kiên cố để đạt tiêu chuẩn nông thôn mới. Các hộ gia đình, có người LĐNN thường xây dựng nhà kiên cố, có thể nhiều tầng, cũng là những đóng góp giảm tỷ lệ hộ nghèo, và thúc đẩy việc công nhận làng đạt tiêu chuẩn “nông thôn mới”. Một người dân làng đưa ý kiến mà tất cả các thành viên trong thảo luận nhóm đều đồng tình là “đi làm nghề cá cả đời không xây dựng được nhà kiên cố, trong khi đi LĐNN “một nhiệm kỳ
[7]” là xây được.”
Người lao động đi làm việc ở nước ngoài có thu nhập cao hơn gấp nhiều lần so với việc làm trong nước trong khi đó vốn đầu tư ít nhưng mang lại lợi ích kinh tế cao, đời sống bản thân và gia đình được cải thiện đáng kể.
Với các vụ thiên tai vừa xẩy ra trong tháng 10 năm 2020, các vị lãnh đạo xã và thôn trong các cuộc phỏng vấn xác nhận các khoản quyên góp từ “con em đi làm nước ngoài gửi về giúp đỡ cộng đồng. Có lãnh đạo thôn cho biết số tiền được gửi về hỗ trợ lên tới 50 triệu VND. Xã Hải Phú lao động nước ngoài ủng hộ cho nhân dân bị ảnh hưởng lũ lụt tháng 10/2020 trong và ngoài địa phương gần 200 triệu đồng.
Hộp 1. Đóng góp của người LĐNN ở thôn Nhân Đức, xã Nhân Trạch
Trong thôn, con em các gia đình đi LĐNN ở Hàn Quốc đã đóng góp tài trợ làm sân bóng chuyền của thôn có trị giá 28 triệu VND. Họ cũng đóng góp 70 triệu VND để trang bị nội thất trong đó có bộ bàn ghế inox cho nhà văn hóa thôn.
Trong quá trình xây dựng nhà văn hóa thôn 2018-2019, phần đóng góp của chính quyền xã là 400 triệu VND, trong khi ngoài phần nội thất kể trên, các gia đình trong thôn đóng góp 640 triệu.
Nguồn: Phỏng vấn lãnh đạo thôn. |
Về khả năng tác động của việc di cư lao động nam quá nhiều ra nước ngoài lên cơ cấu dân số và lao động, các lãnh đạo địa phương cho rằng không có ảnh hưởng gì đáng kể. Các đôi đi lao động hợp pháp thì họ mang con về theo con đường hợp pháp. Những người đi lao động không hợp pháp cũng mang con về được để gửi cho ông bà nuôi.
Ở các xã khảo sát, lãnh đạo địa phương đều cho rằng hệ thống nhà trẻ, mẫu giáo và các trường học vẫn đủ năng lực để tiếp nhận trẻ em ở các độ tuổi.
Các lãnh đạo địa phương thừa nhận có hiện tượng thiếu lao động nam, ví dụ cho nghề đánh bắt cá. Điều này cũng được các chủ tầu thuyền đánh cá xác nhận. Tuy nhiên, nhu cầu về lao động này được đáp ứng bằng cách tuyển dụng lao động nam từ các vùng ven biển của các tỉnh lân cận, cụ thể một tỉnh được nêu tên là Thanh Hóa.
Về di động của lao động, số liệu của khảo sát cho thấy ở 13 thôn có số liệu từ trưởng thôn, tỷ lệ lao động đi LĐNN chiếm trung bình 25% tổng lực lượng lao động; có những làng, tỷ lệ này lên tới hơn 40%. Sự thay đổi này chắc chắn có ảnh hưởng tới sự thiếu hụt lao động ở địa phương, tuy nhiên, khảo sát này không tìm hiểu cách thức bù đắp sự thiếu hụt này.
Có một sự khác biệt rõ nét giữa các xã trong vùng dự án về cơ cấu LĐNN. Điều này phụ thuộc đáng kể vào cơ cấu kinh tế của mỗi địa phương.
Từ một thảo luận với các trưởng thôn xã Nhân Trạch, có thể thấy ở địa phương, trung bình một gia đình có 0,9 người đi lao động nước ngoài. Tỷ lệ nữ trong số LĐNN là 25%. Ở các xã khác, ví dụ Đức Trạch, tuy không có số liệu chi tiết như ở Nhân Trạch, lãnhm ./ đạo chính quyền cũng ước tỷ lệ nữ tham gia LĐNN chừng 20%.
Ở xã Đức Trạch, nơi mà nghề đánh bắt cá xa bờ phát triển, tỷ lệ người LĐNN trong các hộ gia đình 0.21 cho một hộ gia đình, thấp chỉ bằng một nửa xã Nhân Trạch. Quy mô gia đình ở đây là 3,3 người/hộ cũng thấp hơn đáng kể so với xã được so sánh.
Xã Đức Trạch có 208 tầu đánh bắt cá xa bờ. Ước tính của lãnh đạo xã là ngành đánh bắt cá thu hút hầu hết lao động địa phương làm nghề biển, và phần nhỏ còn lại làm nghề chế biến cá, buôn bán tạp hóa, hoặc nuôi cá trên đất liền. Tuy vậy, đây cũng chính là những ngành nghề thu hút lao động sang Hàn Quốc, vì bên đó, lao động trẻ không muốn làm việc trên tàu do cường độ lao động vất và và thời gian làm việc rất dài ngày liên tục trên bờ.
Ở cả hai xã, tỷ lệ nữ tham gia LĐNN thấp được lãnh đạo cả thôn và xã giải thích là vai trò của phụ nữ khi lập gia đình trong việc nuôi dạy con cái và trông nom người cao tuổi. Đây là những rào cản lớn với phụ nữ trong việc tham gia LĐNN. Khi con cái lớn, thì phụ nữ quá tuổi tuyển dụng theo đường “chính ngạch”. Nếu họ đi chi là theo đường “tiểu ngạch” hay nghĩa là đường không hợp pháp. Việc nữ tham gia LĐNN chính ngạch phổ biến ở nhóm tuổi dưới 24, khi họ chưa lập gia đình, hoặc chưa vướng bận con cái. “Nam giới có vợ có con vẫn đi làm ở nước ngoài được, chứ phụ nữ có chồng có con là ở nhà”, một ông trưởng thôn nhận xét như vậy về dân làng mình.
Cuộc khảo sát này đã tiếp xúc với 62 người LĐNN đã trở về, trong số này có 32 nam và 30 nữ. Hai nước đông người trở về nhất là Đài Loan và Hàn Quốc. Trong số này, nữ có nhiều người đi Đài Loan về hơn (50%), còn nam từ Hàn Quốc về nhiều hơn (43%). Trong một chừng mực nào đó, có thể hình dung là Đài Loan thu hút nhiều lao động nữ, còn Hàn Quốc thu hút nhiều hơn lao động nam. Những người đã lao động ở hai nước là các cặp nước Đức-Anh, Hàn Quốc- Nhật Bản, Đài Loan- Nhật Bản, Singapore-Đài Loan, Nga-Úc. Trong nhóm này cũng có hai người làm việc ở ba nước là Singapore-Hàn Quốc-Đài Loan, Đài Loan-Macao-Trung Quốc.
Trong đó, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan là các thị trường trọng điểm đem lại thu nhập cao, tiếp nhận nhiều lao động trong đó có lao động có trình độ chuyên môn.
Phần này của báo cáo tập trung nhiều hơn về kết quả tìm hiểu đánh giá của người LĐNN với quá trình làm việc của họ, tác động kinh tế xã hội của LĐNN với gia đình và cộng đồng.
Thời gian đi làm việc của người LĐNN đã trở về khá đa dạng. Hơn một nửa trong số này cho biết họ trở về sau 1-2 năm. Nửa còn lại trở về sau 3 năm làm việc trở lên. Phân bổ những người LĐNN đã trở về trong các xã ở Bảng 3.3.1, cho thấy số người Hải Phú và Thanh Trạch gấp hai lần số người trong hai xã kia và đều dưới 20 người, khiến việc phân tích theo xã ít có ý nghĩa. Về giới tính, nữ và nam trong nhóm LĐNN đã trở về khá gần nhau và tương ứng là 32 và 30.
Xét theo nhóm tuổi, đa số người trở về trên 30 tuổi, đây là nhóm đông nhất có 43 người. Chỉ có 4 người dưới 24 tuổi, còn lại 16 người là thuộc nhóm từ 25 tới 30- cả hai nhóm này chiếm 32% số người trở về.
3.3. Kết quả của LĐNN và tác động tới kinh tế gia đình và kinh tế địa phương
Xét mức độ thành công một cách chung nhất, có 61% người đã LĐNN trở về cho rằng đã đạt được kết quả đợt LĐNN bằng và vượt xa so với mong đợi, trong số này 33% cho rằng đạt đúng mức mong đợi. Tỷ lệ không đạt mức mong đợi là 30%, trong đó có 25% cho rằng kết quả đạt xa mức mong đợi ban đầu (Phụ lục 5 Bảng 5.26).
Với nam giới, tỷ lệ cho rằng “thấp xa so với mong đợi khá cao- 33%, trong khi với nữ, tỷ lệ này thấp hơn đáng kể- 18%. Tỷ lệ nữ cho rằng kết quả vượt xa mong đợi cũng cao gần gấp đôi nam- 18% so với 10%.
Cũng có sự khác biệt đáng kể trong đánh giá kết quả LĐNN ở các địa phương. Ở xã Thanh Trạch, có tới hơn một nửa (55%) người LĐNN trở về cho rằng kết quả thấp xa so với mong đợi, trong khi đó, ngược lại, ở xã Đức Trạch không có ai cho rằng kết quả LĐNN thấp hơn mong đợi.
Như không ít người khẳng định, mục tiêu LĐNN chủ yếu là thu nhập, tiêu chí này nên được coi là quan trọng khi đánh giá mức độ thành công. Xét theo tiêu chí này, tỷ lệ người hoàn toàn không đồng ý là đã đạt được mục tiêu này là 23% rất sát với con số 25% người LĐNN trở về nói kết quả LĐNN thấp xa so với mong đợi. Tỷ lệ này cũng cao hẳn trong lao động nam (28%) so với nữ (18%) tương tự như đánh giá về mức độ thành công của hai nhóm giới tính (tương ứng là 33% và 18%). Cũng đáng chú ý là có tới 28% lao động nam hoàn toàn không đồng ý là thu nhập khi LĐNN lớn hơn hẳn so với lao động trong nước; với nữ tỷ lệ này là 18%. Đây chính là cơ sở để phân tích sâu hơn giúp những người mong muốn đi LĐNN cân nhắc cho thấu đáo.
Vay mượn là một phương thức quan trọng để có thể đi LĐNN. Khảo sát này ghi nhận mức độ có dư nợ với ngân hàng thương mại của nhóm đang lao động ở nước ngoài cao nhất (70%), hơn hẳn so với nhóm đang muốn đi LĐNN chỉ có 13% số hộ (Phụ lục 5 Bảng 5.27). Nhóm đã về cũng vay nợ nhiều; trong nhóm này có tới 36% đang có dư nợ với NHTM.
Trong số những người đi LĐNN về, có một số đáng kể hoàn toàn không đồng ý là họ đã trả xong đúng hạn các món vay để đi LĐXK. Trong phụ nữ đi LĐNN về, tỷ lệ này là 27%, còn với nam-17%. Rất có khả năng, ngành nghề lao động nữ (nông nghiệp, chế biến thực phẩm, may, chăm sóc cá nhân) có thu nhập thấp hơn các ngành nghề của nam (cơ giới, cơ khí). Với phụ nữ, họ còn gặp phải một số vấn đề như tiền họ gửi về không được quản lý tốt như việc họ quản lý cho nam giới trong gia đình khi nam giới đi lao động nước ngoài. Thậm chí nhiều người vợ còn bức xúc vì chồng đã chi tiêu phung phí số tiền mình kiếm được.
Có thể thấy rằng, cơ hội lao động nước ngoài không hoàn toàn giúp người lao động thực hiện giấc mơ thay đổi cuộc sống như họ nghĩ ban đầu, với những người chưa trả xong nợ, vấn đề lại càng tồi tệ hơn.
Có một giả thuyết là LĐNN mang thu nhập từ nước ngoài về và giúp các gia đình tổ chức các doanh nghiệp hoạt động sản xuất. Kết quả điều tra dường như không khẳng định giả thuyết này. Xét theo sinh kế chủ yếu của các hộ gia đình (Phụ lục 5 Bảng 5.40), tỷ lệ hộ gia đình nông/ngư ở hai nhóm gia đình không quen ai đã/đang đi và có người trong gia đình hoàn toàn như nhau ở mức 52%. Tỷ lệ hộ phi nông nghiệp ở hộ gia đình có người đang hoặc đã đi LĐNN có cao hơn, nhưng chỉ là 16% so với 7%.
Kết quả phân tích theo loại hình sản xuất kinh doanh của khảo sát cũng cho thấy giả thuyết về thúc đẩy phát triển doanh nghiệp không đứng vững. Trong các gia đình có nguời đã và đang đi LĐNN, tỷ lệ hộ nông/ngư (75%) thậm chí còn cao hơn các gia đình không quen ai đã/đang đi LĐNN. Các hộ kinh doanh tự do trong nhóm không quen ai đã/đang đi LĐNN là 42% cao gần gấp đôi con số của các hộ có người đã và đang đi LĐNN.
Kết quả phân tích đặt ra một vấn đề cho chính quyền địa phương về lao động nước ngoài như là một đòn bẩy có tác dụng hạn chế với phát triển kinh tế địa phương. Một điều khá rõ ràng là sau khi đi nước ngoài về, mức độ thoát khỏi lao động thuần nông vẫn không rõ rệt, việc khởi nghiệp bằng các mô hình kinh doanh cũng không được ghi nhận đáng kể, cho dù LĐNN có mang một số tiền vốn và là nguồn nhân lực có kinh nghiệm làm việc ở nước ngoài.
Như đã ghi nhận trên đây, tỷ lệ LĐNN trở về đánh giá kết quả là bằng và vượt trên mong đợi là 61%. Tỷ lệ đồng ý hoàn toàn của nhóm này với nhận định LĐNN cải thiện mạnh mức sống như nhà ở, xe cộ, tiện nghi gia đình là 54% (nằm trong phụ lục Bảng 3.3.5.a). Tính cho cả nhóm, 13% hoàn toàn không đồng ý với nhận định này, trong nữ, con số này là 15% với 10% ở nhóm nam.
Về nhận định quan hệ gia đình sau khi LĐNN trở về như cũ hoặc tốt hơn, có 74% người đã trở về hoàn toàn đồng ý như vậy. Tỷ lệ hoàn toàn không đồng ý là 8%, trong đó ở nữ LĐN trở về là 12%, gấp bốn lần con số ở nam 3%.
Về giáo dục, cụ thể là với học vấn của con em trong gia đình, các ý kiến từ phần điều tra định tính cả với các nhóm lao động và nhóm cán bộ thôn và xã cho thấy tác động tích cực của LĐNN tới việc cho con em học tập hết PTTH. Với bậc học này, thanh niên có thể học nghề để đi làm LĐNN tốt hơn, tới những nước có thu nhập tốt hơn. Đặc biết, khi tốt nghiệp PTTH, thanh niên có thể đi ra nước ngoài bằng con đường du học. Điều này được xác nhận phần nào qua kết quả điều tra ở học vấn cao hơn của nhóm tuổi trẻ hơn so với các nhóm khác.
Quả thực, với khả năng của mạng xã hội giúp người LĐNN dễ dàng kết nối với gia đình bằng hình ảnh và nói chuyện, người đang ở nước ngoài dễ dàng trao đổi, thậm chí theo dõi việc học hành, sinh hoạt của người thân, hoặc con cái. Đây là một yếu tố đóng góp cho việc duy trì gia đình. Như một người nam LĐNN về đã nhận xét “có Zalo facebook thì khi nào rảnh là có thể gọi về nói chuyện với gia đình.” Nhưng giao tiếp qua mạng cũng có nhiều hạn chế, như một phụ nữ đã nhận xét, “gọi điện thì chỉ nói chuyện tình cảm được, chứ làm sao mà sát sao được chuyện học hành của con?”. Xét về khía cạnh mềm như tâm lý, tình cảm, việc lao động đi nước ngoài khiến cho trẻ em không có sự chăm sóc trực tiếp từ cha mẹ. Điều này làm cho trẻ thiếu hụt tình cảm, sự nuôi dạy của ông bà có những rào cản thế hệ nhất định nên chắc chắn những trẻ này không thể phát triển bình thường như những trẻ được sự chăm sóc trực tiếp từ cha mẹ. Thêm vào đó, do tâm lý muốn bù đắp cho con nên những trẻ này thường được đáp ứng các nhu cầu vật chất nhiều khi dư thừa, có tâm lý đua đòi. Điều này tiềm ẩn nguy cơ khi trẻ lớn lên sẽ có những lệch lạc trong việc phát triển nhân cách.
Ở chiều ngược lại, có những câu chuyện mà đoàn điều tra ghi nhận là người phụ nữ LĐNN gửi tiền về, nhưng người chồng dùng tiền để “lô đề, cá độ” không dành vốn để làm ăn hoặc tu bổ nhà cửa, dẫn đến gia đình đổ vỡ. Cũng có trường hợp vợ đi làm xa, chồng ở nhà có “quan hệ ngoài luồng” dẫn tới ly hôn khi người nữ trở về. Đoàn khảo sát cũng ghi nhận những câu chuyện về chồng gửi tiền về nhà mà vợ là người chi tiêu hoang phí hay đánh lô đề làm mất tài sản người LĐNN tích lũy được. Khoảng cách về mặt tình cảm cũng xảy ra đối với vợ hoặc chồng những người đi lao động nước ngoài. Không ít gia đình tan vỡ khi người chồng hoặc vợ trở về như trong một trường hợp ở Hộp 2.
Hộp 2. Vợ đi lao động nước ngoài, gửi tiền về, chồng ở nhà ngoại tình dẫn đến ly hôn
Chị N.T.H.X. học hết lớp 9 thì ở nhà vì gia cảnh khó khăn. Năm 17 tuổi X. lấy chồng và sinh được một bé trai kháu khỉnh. Cuộc sống khó khăn, chồng làm thợ phụ nề thu nhập bấp bênh. Năm con được 1 tuổi thì chị đi Malaixia làm việc, để lại con cho mẹ chăm sóc, với lời hứa hẹn của người chồng là em cứ yên tâm đi làm ăn, anh sẽ ở nhà trông con và phụng dưỡng bố mẹ. Đến Malaixia X. Làm việc trong một dây chuyền sản xuất linh kiện điện tử, hợp đồng được ký hàng năm. Chị chắt chiu từng đồng để gửi tiền quê nhà. Đến năm thứ 3, X. hay tin chồng ở nhà ăn chơi trác táng từ số tiền chị gửi về, rồi cặp bồ ngoại tình với một người trong xã lớn hơn X. 10 tuổi. X đau đớn bỏ dở công việc trở về nhưng không thể giữ được hạnh phúc gia đình. Chồng X. đã chuyển hết số tiền X. gửi về vào tài khoản của người tình và làm đơn li hôn vì cho rằng cô không chăm lo được cho anh thì để người khác lo. X. muốn quay lại công ty làm việc nhưng không được chấp nhận vì cô đã bỏ hợp đồng giữa chừng.
Nguồn: Phỏng vấn sâu ở xã Hải Phú |
Ở xã Hải Phú có những trường hợp khi bố mẹ đi lao động nước ngoài thì con cái thiếu bàn tay chăm sóc, quan tâm dẫn đến học hành bê trễ, lêu lỏng… Một số đôi vợ chồng đi lao động nước ngoài do một số hoàn cảnh cũng đã ly hôn gây ra một số hệ lụy cho xã hội. Một số người lao động vay mượn số tiền lớn để sang nước ngoài làm việc, nhưng khi đến nước sở tại làm việc không đúng yêu cầu nên bị chủ trả về làm cho họ khó khăn lại chồng chất khó khăn.
Điều đáng lo ngại là chưa hề có một chính sách hay biện pháp trực tiếp nào từ chính quyền để hỗ trợ người lao động nước ngoài xử lý những vấn đề về gia đình hoặc tiền bạc họ gửi về. Tất cả chỉ trông chờ một cách may rủi những người ở nhà. Nếu người ở nhà quản lý vốn tốt, chăm sóc gia đình tốt, người lao động sẽ có lãi khi trở về. Ngược lại, họ không những không có lãi mà còn lỗ vì đã đánh đổi những tháng ngày vất vả để đổi lấy sự tan vỡ gia đình, sự phát triển lệch lạc của người thân… Chính vì thế, đoàn khảo sát cũng đặt ra giả thuyết – liệu có thể hỗ trợ phụ nữ đi lao động nước ngoài bằng cách hỗ trợ họ chăm sóc, quản lý con cái hoặc có các cơ sở, hình thức thích hợp giúp họ quản lý tiền bạc mà họ gửi về để bảo toàn số vốn cần thiết cho hoạt động khởi nghiệp sau khi về nước.
Huyện Bố Trạch là một trong 10 huyện mà trong năm 2020 chính phủ Hàn Quốc áp dụng biện pháp “phạt” là không nhận lao động do có tỷ lệ trên 28% lao động ở lại không về sau khi hết hạn hợp đồng và số người bỏ hợp đồng lớn hơn 53 người. Theo một công văn ngày 5/6/2020 của Bộ LĐ-TB-XH
[8], tỷ lệ này của Bố Trạch là 50%.
Các cuộc phỏng vấn sâu cho thấy, bên cạnh những người lao động cho rằng việc lao động không về sau khi hết hạn hợp đồng là bất thường, là ảnh hưởng tới danh dự của đất nước, sự an toàn của bản thân, nhiều người cho rằng việc này hoàn toàn bình thường bởi đó là thời gian họ tranh thủ kiếm thêm thu nhập, bù vào những khoản phí không chính thức phải bỏ ra cho công ty môi giới để đi lao động nước ngoài, “tranh thủ kiếm thêm” vốn liếng để về lập nghiệp. Điều này đặt ra bài toán cho các nhà quản lý, chính quyền xã về việc có những biện pháp, hình thức thích hợp để quản lý người của địa phương mình. Ngoài những cách giải quyết bằng những giải pháp “cứng” về quản lý hay “phạt”, hoạt động truyền thông cũng rất quan trọng để thay đổi văn hóa “xuất ngoại, bỏ trốn” khá phổ biến trong cộng đồng người dân. Đặc biệt, cần tuyên truyền theo hình thức phải dành cơ hội cho người đi sau, phải tạo uy tín cho địa phương mình để có thể nhiều người có cơ hội đi lao động nước ngoài.
Với một câu hỏi “nhạy cảm” về “Có khi nào muốn bỏ hợp đồng làm ngoài”, cuộc khảo sát này ghi nhận có 20% những người đang LĐNN trả lời là có, và trong số người đã đi LĐNN về, tỷ lệ này là 14%. Tính chung cho hai nhóm, tỷ lệ này là 17%- một tỷ thấp hơn so với công bố của chính phủ Hàn Quốc. Vì lý do này, kết quả định lượng ở đây, chỉ mang tính tham khảo.
Cuộc điều tra ghi nhận ý muốn này có trong mọi nhóm LĐNN xét theo thời gian làm việc LĐNN, nhóm tuổi, giới tính, mức độ thỏa mãn với kết quả LĐNN. Bảng số liệu về ý muốn bỏ hợp đồng theo các thuộc tính này được giới thiệu trong mục này.
Với cộng đồng LĐNN về nước trước thời hạn, cuộc điều tra đã ghi nhận 16 trường hợp. Trong số này, 9 trường hợp là vì bị trục xuất khi bị phát hiện phá hợp đồng ra “làm việc bên ngoài”. Hầu hết các trường hợp này là người đi LĐNN ở các nước châu Âu, và có chế độ Phương Tây (giống như Hàn Quốc, Singapore). Cũng có trường hợp báo cáo là do chủ lao động bị phá sản, hoặc không có việc làm. Chỉ có một trường hợp được cho biết là do hoàn cảnh gia đình (xem Bảng 3.4.1.f). Những người bị trục xuất trở về nước đã khó khăn lại càng khó khăn hơn, nhiều người nợ nần chồng chất, chưa được hỗ trợ tái hòa nhập sau khi trở về cộng đồng.
Hộp 3. Người lao động chọn kênh đi lao động bất hợp pháp
Chị N.T.H. ở thôn Quyết Thắng, xã Thanh Trạch hiện đã ly hôn chồng, không có việc làm, phải nuôi hai con nhỏ. Nghe bạn bè giới thiệu có anh M. - người cùng làng, đang làm việc ở Đức, đã làm thủ tục cho 4 người, trong đó có 1 người đã sang được Đức, chị H. liều mượn thẻ đỏ của mẹ đẻ, vay ngân hàng để nộp cho anh M. 350 triệu với mong muốn được đi Đức, kiếm tiền cho các con đỡ khổ. Không hợp đồng, giấy nộp tiền không ghi rõ lý do, tiền đưa cho bố mẹ M. vì M. không ở Việt Nam. Đã 2 năm, lần lừa mãi vẫn không đi được, chị H. đã khó khăn lại càng khó khăn hơn, chị không đủ khả năng để trả số tiền lãi hàng tháng cho ngân hàng. Muốn đòi lại số tiền thì bố mẹ M. nói đã gửi hết cho M. ở bên Đức.
Nguồn: Phỏng vấn sâu tại xã Thanh Trạch |
Về lao động bất thường ở nước ngoài, qua các cuộc phỏng vấn sâu, những người LĐNN trở về và cả các nhà quản lý của chính quyền cấp thôn và xã cho biết, người LĐNN thường có những kênh đa dạng để tham gia thị trường một cách “không chính ngạch” hoặc tiểu ngạch nhưng bằng đường đi ban đầu là hợp pháp. Một con đường là thăm người thân, du lịch, hoặc đi học. Sau khi sang tới nước đích, họ sẽ “trốn” ở lại và lao động ngoài pháp luật. Con đường tiểu ngạch này thường cần có người nhà hay người thân, hoặc người môi giới ở nước “sở tại” đón.
Hộp 4. Đi lao động hợp pháp, hết thời hạn hợp đồng bỏ trốn ra ngoài
Anh LH. sinh năm 1978, quê ở Đức Trung, Đức Trạch. Năm 2015, anh đi Hàn Quốc làm nghề đánh bắt cá, chi phí đi hết 260 triệu. Trong thời gian lao động ở Hàn Quốc anh đã trả hết nợ và gửi tiền về cho vợ xây được ngôi nhà 2 tầng. Sau thời gian 4 năm 10 tháng hết hợp đồng lao động, ông chủ Hàn Quốc đề nghị anh về rồi qua lại, nhưng anh nghe thông tin sợ về không qua được do tuổi cao và có đi được thì chi phí cũng hết 300 triệu, nên tháng 5/2020 sau khi hết hợp đồng, anh đã bỏ ra ngoài làm và tháng 7/2020 bị cảnh sát Hàn Quốc bắt và trục xuất về nước. Hiện tại anh cũng mong muốn tiếp tục được đi lao động nước ngoài, do nghề biển hiện nay tại Đức Trạch khai thác đánh bắt cá khó khăn, nhưng do ảnh hưởng của Covid 19 nên anh vẫn chưa đi được.
Nguồn: Phỏng vấn sâu tại xã Đức Trạch |
Con đường thứ hai là ở lại sau khi hết hợp đồng làm việc hợp lệ. Việc quay về và làm lại từ đầu thủ tục tuyển dụng là con đường hợp pháp, nhưng tốn kém (tới 300 triệu VND cho một người một lượt - theo thông tin từ một cuộc phỏng vấn sâu) và mất nhiều thời gian. Con đường này thuận lợi hơn, khi chủ lao động chấp nhận người lao động ở lại làm việc “tiểu ngạch”. Họ được lao động quen người, quen việc. Hơn nữa họ không mất chi phí đào tạo lại. Nhiều người lao động cho biết chủ lao động có thể trả lương cao hơn, bằng cách trả luôn chi phí bảo hiểm cho người lao động. Những người LĐNN về cho biết con đường này không được chấp nhận ở các nước pháp luật “nghiêm minh”, ví dụ như ở Đức hay ở Nhật. Ở hai nước này, những người LĐNN trở về cho biết người chủ khi sử dụng lao động không hợp pháp bị phạt rất nặng và người lao động không có giấy phép sẽ bị trục xuất không khoan nhượng.
Con đường này thuận lợi hơn ở Đài Loan và Hàn Quốc do giới chủ chấp nhận và cảnh sát không “gay gắt”. Người LĐNN cho biết, cảnh sát ở Hàn Quốc hay Đài Loan chỉ truy quyét khi có những sự cố nghiêm trọng với người lao động nước ngoài. Khi đó, họ chỉ cần không ra ngoài phố cho đến khi tình hình “lắng xuống” là an toàn.
Một lý do “ở lại” được người LĐNN trở về cho biết là do hết tuổi lao động chính thức theo các hợp đồng tuyển dụng. Với những người hết tuổi mà nước tiếp nhận lao động, khi hết hợp đồng là họ “trốn ra ngoài” vì khi về nước sẽ không còn cơ hội quay lại làm việc. Ngoài việc quá tuổi, khi điều kiện thể chất không đạt để đi chính ngạch, ví dụ chiều cao cân nặng, người lao động cũng thu xếp để đi theo con đường “tiểu ngạch”. Những người đi LĐNN và cả cán bộ chính quyền cho biết những người có bệnh viêm gan siêu vi trùng không được tuyển, nên con đường LĐNN của họ chỉ còn là “tiểu ngạch”.
Hộp 5. Đi lao động “tiểu ngạch” khi không đủ điều kiện thể chất
Chị QT là con út trong gia đình có 5 anh em. Một người anh đã đi Đức và đã về, một người chị hai (28 tuổi) đang làm việc ở Singapore sang năm sẽ về. Người anh cả (30 tuổi) đi làm việc ở Nhật mới về. Chị ba đi sang Đức ở đó làm việc đã sang năm thứ tư.
Chị QT có chiều cao 1m53 và nặng 40 kg, trong khi đó để đi làm thì phải có chiều cao 1m55 và cân nặng 43kg. Chị biết để du học sang Đức hay Anh thì chiều cao 1m50 vẫn đi được. Theo các thông tin từ người quen, chị biết đường dây để du học sang Đức (và sau này sang Anh được) thì mất 500 triệu VND, còn đi Nhật thì mất 300 triệu VND.
Chị đang cân nhắc đi Đức bằng du học, vì có thu nhập cao và có chị ruột bên đó. Chị hiểu là chính quyền Đức rất nghiêm trong việc kiểm tra người lao động trái luật, nhưng chị có chị ruột che chở. Hiện giờ, chị QT đang thu xếp đi học làm “neo” một năm ở nhà một chị trong xã với chi phí học nghề 1,5 triệu cho khóa học 3 tháng.
Nguồn: Phỏng vấn sâu ở xã Đức Trạch |
Những người thu nhập thấp có những nơi làm việc và kiểu đi riêng rất khác biệt đi hợp pháp, nhưng khi lao động ở nước nơi đến thì không được bảo vệ bằng pháp luật, do không có hợp đồng lao động. Từ các cuộc phỏng vấn với người lao động được cán bộ đoàn thể chính quyền xác nhận, đoàn khảo sát ghi nhận với những người thu nhập thấp, con đường LĐNN tiểu ngạch là đi làm việc ở các nước láng giềng, như Trung Quốc, hay Lào. Họ làm những công việc không cần kỹ năng cao. Với phụ nữ họ làm các công việc như phục vụ nhà hàng, vệ sinh viên, chăm sóc người ốm, làm hộp hoặc phụ việc ở trang trại. Nam giới làm các công việc xây dựng, cơ khi hay lái xe. Những chuyến đi như vậy, ví dụ sang Trung Quốc được biết là chỉ cần 10 triệu VND cho một người, với thời gian làm việc hoặc nửa năm hoặc một năm. Những lao động đi sang Lào hay Trung Quốc thường đi từ các làng hay thôn ở vùng đồi, chứ không ở vùng ven biển.
Hai nước Anh và Úc là hai địa chỉ LĐNN bất thường được cán bộ chính quyền xã Thanh Trạch nhắc tới. Ở xã đã có 6 trường hợp đi Úc và có ba trường hợp trở về, cả bị bắt trục xuất và tự đầu thú sau đó bị trục xuất. Công việc được biết là “trồng cỏ” cách gọi khác của cần sa. Thu nhập hàng tháng, được biết có thể tới một tỷ. Cán bộ xã cho biết “họ làm việc đến khi được chục tỷ thì về.” Cũng theo lời cán bộ chính quyền địa phương, những người lao động này biết khả năng bị tù, nếu bị bắt, và họ chấp nhận tù vài năm rồi về.
Trong các cuộc phỏng vấn, cán bộ các xã đều biết và nhắc tới những vụ tai nạn chết người lao động đi “làm việc bất thường” ở nước ngoài ở các xã trong huyện mà họ không được chế độ bảo hiểm. Nổi tiếng là các vụ chết người trong xe lạnh ở Anh, chết người trên tàu cá bị cháy ở Hàn Quốc, vụ tai nạn lao động chết người trên tầu cá ở Nam Phi, vụ người lao động bị cướp bắn chết để cướp của ở Angola.
Các cán bộ thôn và xã cho biết, với Hàn Quốc, cho dù huyện bị “phạt” và lao động không được tiếp nhận, nhưng “người vẫn đi được” bằng các con đường khác. Có những người không đi Hàn Quốc được thì đi nước khác. Hoặc với những người bị trục xuất về thì con đường đi tiếp của họ là đường “tiểu ngạch”.
Các doanh nghiệp, cá nhân không có chức năng, không có giấy phép hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng lợi dụng sự thiếu thông tin, kém hiểu biết cộng với tâm lý người lao động muốn được nhanh chóng xuất cảnh tránh thủ tục phiền hà hoặc là lao động thiếu tiêu chuẩn để tiến hành lừa đảo đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng gây hậu quả nghiêm trọng làm thiệt hại về kinh tế, mất ổn định về xã hội hoặc tiến hành các hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng bất hợp pháp như đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng bằng con đường du lịch, thăm thân, đăng ký kết hôn giả với người nước ngoài… Cần có chế tài đủ mạnh để ngăn chặn các lao động bỏ trốn, các Công ty môi giới lợi dụng chiếm đoạt tiền của người lao động.
Những cá nhân tổ chức đưa người đi, cho dù những bước đầu là hợp pháp, nhưng họ có trách nhiệm gián tiếp về việc “thúc đẩy” lao động bất thường ở nước ngoài. Trách nhiệm này là trực tiếp, một khi họ là một mắt xích có hiểu biết về đường dây này.
Nhóm nghiên cứu đã gặp và phỏng vấn 8 trong 12 đơn vị có chức năng tư vấn, giới thiệu cho người lao động (trong số này chỉ có 01 doanh nghiệp có chức năng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài là Công ty Cổ phần sách thiết bị trường học Quảng Bình.. Từ đầu năm 2020, đại dịch Covid-19 bùng phát ở nhiều quốc gia trên thế giới và cả ở Việt Nam đã gây ảnh hưởng lớn đến mọi mặt đời sống, kinh tế - xã hội. Nhiều người lao động dù đã được tuyển chọn đi làm việc ở nước ngoài cũng buộc tạm hoãn thời gian xuất cảnh do dịch bệnh. Có một số doanh nghiệp cho biết họ phải thu hẹp hoạt động, thậm chí “đóng cửa”.
Trong một chừng mực nhất định có thể coi phân đoạn đầu tiên của chuỗi cầu về LĐNN là hoạt động của các doanh nghiệp dịch vụ môi giới tuyển dụng LĐNN. Cuộc khảo sát này thu thập thông tin về LĐNN qua phỏng vấn lãnh đạo của 8/10 doanh nghiệp (02 doanh nghiệp đóng cửa do ảnh hưởng của dịch covid-19) có các hoạt động trong lĩnh vực môi giới, giới thiệu LĐNN ở tỉnh Quảng Bình. Thông tin này được bổ sung bằng báo cáo của Trung tâm Lao động Việc làm thuộc Sở LĐTBXH tỉnh, và của một số báo cáo thường niên của một số công ty gửi cho Sở. Các đơn vị tham gia khảo sát được liệt kê ở Phụ lục 5, Bảng 5.51.
Theo VCCI
[9], Quảng Bình có một lượng cung lao động dồi dào, chiếm tới 64,5% dân số ở độ tuổi lao động. Lao động có đào tạo chiếm tới hơn 60% và có 36% lao động được học nghề ở một mức độ nhất định. Lãnh đạo một công ty cho biết, hiện tại có nhiều công ty ngoài nhà nước về Quảng Bình thu hút tuyển dụng lao động vì Quảng Bình người lao động có nhu cầu đi nước ngoài rất cao, năm 2019 là 4.000 người, năm sau cao hơn năm trước.
Sở LĐTBXH Quảng Bình cho biết hàng năm nhu cầu người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng của người lao động trên địa bàn tỉnh là khoảng từ 5.000 – 7.000 lao động. Theo ước tính ở mức thấp của Sở, hiện tại có 15.000 người lao động từ Quảng bình đang lao động ở nước ngoài, trong đó cũng theo ước tình mức thấp, có 1500 người lao động thuộc diện “bất thường”, mà 700 người đang ở Hàn Quốc.
Các doanh nhân làm việc trong ngành cho biết “Thu nhập của người đi lao động nước ngoài gửi về cho người thân và gia đình mà doanh nghiệp nắm được thường là 17 triệu đồng đến 30 triệu đồng/người/tháng. Khoản gửi về này góp phần không nhỏ vào việc nâng cao thu nhập ổn định đời sống cho người lao động, góp phần làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội của địa phương.
Trước nhu cầu lớn về LĐNN, tỉnh chỉ có một đơn vị là Công ty sách thiết bị trường học (Trung tâm Halim) được Bộ Lao động Thương binh và Xã hội chính thức cấp phép đưa lao động ra nước ngoài và có 12 công ty tham gia hoạt động tư vấn môi giới, giới thiệu việc làm theo hướng cung cấp dịch vụ LĐNN. Các doanh nghiệp trong tỉnh có mối quan hệ kết nối với 30 đơn vị ở phía Bắc và chưa tới một chục công ty ở phía Nam. Tuyến phía bắc có chi phí thấp hơn vì đi lại thuận tiện nhưng “khó hơn”, còn “Kênh phía Nam đi dễ, rẻ hơn nhưng đi lại không tiện”.
Từ các cuộc phỏng vấn, có thể thấy các doanh nghiệp địa phương dù có tuổi thành lập khác nhau (Bảng 4.1.) nhưng hầu hết mới tham gia hoạt động này từ năm 2014- một thời gian khá muộn khi mà chủ chương coi xuất khẩu lao động là một chiến lược phát triển kinh tế xã hội đã chính thức lan tỏa xuống tới cấp xã. Nhóm khảo sát đã ghi nhận ở các xã dự án đã có đề án XKLD cho giai đoạn 2002-2017.
Cả tỉnh có hai đơn vị có số người đưa lao động đi nhiều nhất đều thuộc các cơ quan nhà nước: đó là Trung tâm giới thiệu việc làm Thanh niên và Trung tâm giới thiệu việc làm tỉnh (trực thuộc Sở LĐTBXH), chiếm tương ứng 48 và 24% tổng số người đưa đi thành công trong tỉnh trong giai đoạn. Những công ty lớn có hoạt động dạy nghề, dạy ngoại ngữ, chuẩn bị cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài.
Khi chưa có chức năng đưa người lao động ra nước ngoài, các đơn vị giới thiệu việc làm môi giới, như lãnh đạo một trung tâm cho biết “Trung tâm chỉ có vai trò tư vấn, giới thiệu việc làm và hỗ trợ các thủ tục xuất khẩu cho người lao động, theo dõi, hỗ trợ người lao động trong vòng 12 tháng. Các hoạt động quản lý và hỗ trợ trực tiếp cho người lao động ở nước ngoài là do công ty đưa đi phụ trách”. Một người quản lý khác mô tả vai trò của doanh nghiệp mình là “chủ yếu tuyển chọn lao động phổ thông để cung ứng cho các đơn vị có hợp đồng liên kết. Lao động cung ứng được tuyển thành công sẽ được ký hợp đồng xuất khẩu lao động. Số lao động không được tuyển chọn sẽ chuyển sang “danh sách chờ” để giới thiệu cho các hợp đồng khác.”
Với các công ty có chức năng đưa người đi lao động, họ có thể có văn phòng và nhân viên ở các nước có quan hệ lao động để hỗ trợ người lao động. Ví dụ, công ty Bảo Lâm nhìn nhận người lao động khi đi làm việc ở nước ngoài thì thường bỡ ngỡ về văn hóa, đặc biệt ở trong thời gian đầu, công ty có người đại diện ở tại nước ngoài để hướng dẫn cho người lao động về tiếp cận văn hóa, về nhà ở, tìm việc làm, hướng dẫn cho người lao động cách hòa nhập cộng đồng khi tham gia việc làm môi trường lao động mới. Nói về các hoạt động hỗ trợ lao động trong năm đầu tiên khi mới sang, một giám đốc công ty cho biết: “Công ty hỗ trợ người lao động trong thời gian vừa mới sang nước ngoài như hỗ trợ để tìm nhà ở, tìm việc làm, các thủ tục làm thẻ ngân hàng, làm thẻ xe buýt và hỗ trợ khi người lao động gặp khó khăn, đau ốm hoặc các vấn đề về pháp lý, về thủ tục về hợp đồng lao động.”
Với những doanh nghiệp lớn, họ cung cấp một dải phổ dịch vụ rộng hơn. Ví dụ, Trung tâm dịch vụ việc làm Thanh niên đã đào tạo nghề mỗi năm từ 300 đến 400 người, chủ yếu các nghề cơ khí, hàn công nghệ cao, may công nghiệp, kỹ thuật trồng và nhân giống nấm. Mỗi năm Trung tâm tư vấn miễn phí về việc làm cho khoảng 15.000 thanh niên; cung ứng, giới thiệu trên 3.000 lao động cho các tổ chức doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp XKLĐ, với mức độ thành công là mỗi năm khoảng 600 người chủ yếu đi làm việc tại các nước Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, và các nước Trung Đông, đạt tỷ lệ [Tư vấn:Giới thiệu: Ký hợp đồng LĐNN= 15:3:0,6]. Trung tâm cũng tổ chức dạy ngoại ngữ chủ yếu tiếng Nhật, Hàn là những nước nhận chủ yếu, cụ thể . Từ 2015, họ đã tổ chức 47 lớp ngoại ngữ cho 973 lao động. Ngoài ra còn liên kết đào tạo tiếng Anh, Đức, Trung. Theo quy định của pháp luật, Trung tâm còn theo dõi tình trạng việc làm của người lao động và có trách nhiệm hỗ trợ họ trong 12 tháng.
Trên thị trường dịch vụ môi giới tuyển dụng LĐNN, có một sự cạnh tranh của giữa các công ty chính thức có giấy phép với nhau và cả những công ty, đầu mối ngoài luồng, theo nghĩa không đăng ký, và /hoặc không có giấy phép, được gọi là “công ty ma”. Giám đốc một công ty cho biết các công ty hay các đầu mối này có thể cung cấp thông tin không tin cậy, đưa ra các mức phí trái phép, hoặc quảng cáo quá mức-một cách nói khác của từ “lừa đảo” để tuyển dụng, với hứa hẹn tuyển tới các thị trường khó khăn nhưng hứa hẹn. Hiện tại, người lao động chỉ có thể tố cáo khi bị lừa đảo xong, mà khi đó thì có thể những kẻ lừa đảo đã biến mất, không thể liên lạc được, ví dụ trên mạng xã hội.
Xét theo kết quả đưa được người lao động đi làm việc ở nước ngoài, có thể thấy các công ty ở ngoài Hà Nội đóng vai trò quyết định trong việc tuyển mộ và đưa người đi. Tổng số lao động và du học sinh đi từ 2015 của những doanh nghiệp điều tra (hầu hết các doanh nghiệp chủ chốt của tỉnh, mới đạt 3479 người- một con số còn ít hơn số người đi làm ở nước ngoài năm 2019 là 4000 lao động.
Chất lượng dịch vụ tư vấn môi giới tuyển dụng có thể nhìn nhận ở ba chỉ tiêu số hồ sơ tiếp nhận, số người được giới thiệu, số người trúng tuyển được ký hợp đồng và sang lao động. Với mỗi công ty tỷ lệ này rất khác nhau, tùy thuộc uy tín, kinh nghiệm và hoạt động tiếp thị. Ví dụ với công ty Hoàng Ngân, tỷ lệ (Lao động được tư vấn): (Lao động được tuyển chọn): (Lao động được ký hợp đồng)= 110:70:43.
Chất lượng dịch vụ đưa người LĐNN cũng thể hiện ở tình trạng về nước trước thời hạn. Sở LĐTBXH cho biết số người về nước trước thời hạn tính đến tháng 12/2020 là 235 người. Trong số này, có nguyên nhân từ phía người lao động, cụ thể 105 người do hoàn cảnh gia đình, 65 người do đau ốm. Về phía sử dụng lao động có 40 lao động phải về nước hoặc xin về nước trước hạn do ít việc làm thu nhập thấp hoặc nhà máy đóng cửa.
Từ giới doanh nhân trong lĩnh vực tư vấn giới thiệu LĐN cũng xác nhận các con đường di LDNN gồm đi theo các hợp đồng cung cấp lao động, đi theo các doanh nghiệp trúng thầu ở nước ngoài, và đi du học hay du lịch rồi xin việc làm hoặc “nhẩy việc”. Việc các địa phương trong tỉnh, có lúc lên tới ba huyện và thành phố Đồng Hới bị đưa vào danh sách đen làm giảm hiệu năng làm việc của họ, làm mất cơ hội đi làm ở nước ngoài của các lao động. Họ cũng xác nhận ba quốc gia nhận lao động chủ yếu của tỉnh là Hàn Quốc, Đài Loan và Nhật Bản. Các nước khác ở châu Âu, Úc, và vùng Trung cận đông cũng có nhưng ít.
Các ý kiến từ phỏng vấn sâu cho thấy việc ký kết hợp đồng giữa các DN môi giới với NLĐ vẫn tuân thủ và đầy đủ theo qui định, tuy nhiên, đi theo con đường chính ngạch mất nhiều thời gian do phải học tiếng, học nghề, công việc bó buộc theo hợp đồng lao động. Với không ít người lao động khi đi nước ngoài, họ có người quen, người thân ở nước ngoài và nhiều khi đã tìm sẵn việc cho họ. Nhóm này mong muốn đi nhanh, làm việc có thu nhập cao, thậm chí không cần phải học ngoại ngữ. Những câu chuyện cho thấy có người sau khi hết hạn hợp đồng không trở về nước, trốn ra ngoài làm và trở thành đối tượng bất hợp pháp [có không ít trường hợp nhờ có quan hệ trước đó với người thân].
Có thể thấy, các yếu tố chi phí tài chính, thời gian chuẩn bị, và cơ hội thu nhập xứng đáng từ việc làm là những yếu tố khiến người lao động cân nhắc khi quyết định đi làm việc theo con đường hợp pháp hay bất thường, bên cạnh yếu tố “thúc đẩy” là người thân ở nước ngoài.
Một tiêu chí có thể được dùng để đánh giá chất lượng dịch vụ LĐNN là số lượng lao động đi theo đường “tiểu ngạch”, nghĩa đi theo cách không hợp pháp, và không trở về và/hoặc sau hợp đồng cư trú bất hợp pháp ở nước ngoài. Bố trạch- huyện dự án, có thể coi là nổi bật trong cả nước tính theo số lao động không về nước mà ở lại Hàn Quốc: đến ngày 31-1-2019, huyện có 323 lao động không về bằng 47% của 700 người tính cho cả nước
[10].
Khi phỏng vấn, các doanh nghiệp nhìn nhận hai nguyên nhân của tình trạng LĐNN đi “tiểu ngạch” và bất thường. Trước hết về phía cộng đồng doanh nghiệp, có các doanh nghiệp không có chức năng hoạt động lậu nhiều, nhất là các cơ sở ở tình ngoài về địa phương hoạt động, mà không có một sự kiểm soát, thanh tra phù hợp. Những hoạt động tuyển mộ của họ có những trường hợp có thể coi là mô tả không đúng sự thật, trong trường hợp như vậy có thể xem xét đó là việc “tổ chức lao động cưỡng bức” theo chuẩn mực của ILO
[11].
Một nguyên nhân khác mà các doanh nghiệp nhìn nhận là từ phía người lao động, thiếu hiểu biết và nhận thức chưa đầy đủ về trách nhiệm của người lao động. Người lao động đi theo đường này được coi là thiếu trách nhiệm để làm xấu hình ảnh của đất nước, của tỉnh, làm mất cơ hội của người địa phương.
Có doanh nghiệp chỉ ra vai trò của vốn xã hội khi người đi có quan hệ thân thiết ruột thịt với người ở bên nước nhận, họ sẽ đón khi người lao động sang, theo đường hợp đồng lao động hay du học/du lịch, và nhảy việc. Họ cũng cho rằng điều kiện làm việc như lao động di cư bất thường ở các nước phương Tây khá ưu ái, tất nhiên là có thu nhập cao. Thời gian xuất đi LĐNN nhanh cũng được tính là yếu tố thúc đẩy những trường hợp bất thường. Khi ở lại bất thường, LĐNN tránh được một khoản chi phí làm hồ sơ tuyển dụng để đi trở lại và chi phí đi lại. Những điều lợi này “cân đối” được những yếu tố phí tổn khi đi “không chính thức” như chi phí cao hơn nhiều so với đi theo con đường chính thức”, những rủi ro trên đường đi hay ở nơi làm việc; không được bảo hiểm cả về y tế và bảo hộ lao động.
Có nhận xét khác nhau về giới với xu hướng lao động không chính thức: một người cho rằng xu hướng nam và nữ thì cũng cơ bản là giống nhau, nhưng có ý kiến cho rằng ở nam cao hơn do họ có “phiêu lưu”. Thực tế, tỷ lệ nữ tham gia LĐNN đã rất thấp, nên họ có trong nhóm LĐNN không chính thức ít, và họ thường lựa chọn con đường rủi ro thấp nhất, ví dụ có người thân đón, hoặc bắt đầu chuyến đi bằng các bước hợp pháp như du học, du lịch, thậm chí lao động theo hợp đồng.
Địa bàn khảo sát ghi nhận một cách không công khai các trường hợp bị mua bán hoặc tham gia các đường dây mua bán người bất hợp pháp, tình trạng này vẫn tồn tại tại địa phương trong nhiều năm qua. Trong vụ 39 người lao động Việt tử nạn tại Anh quốc trong xe container có một người từ vùng dự án. Điều này xác nhận nhu cầu của dự án về thay đổi nhận thức ở người lao động hướng về lao động xứng đáng, hợp pháp, an toàn, ngoài các hướng quan trọng là tạo việc làm khởi nghiệp có thu nhập tốt ở ngay tại địa phương.
Để khắc phục tình trạng lao động bất thường theo hướng thúc đẩy lao động xứng đáng, hợp pháp và an toàn, từ phía các chính phủ và doanh nghiệp có nhiều biện pháp được các doanh nghiệp liệt kê. Hai địa phương ở Quảng Bình có tỷ lệ lao động hết hạn hợp đồng lao động không về nước cao hơn 50% đang chịu biện pháp hạn chế, ví dụ là không được cung cấp lao động theo diện chương trình hợp tác lao động phi lợi nhuận của Chính phủ Hàn Quốc, được gọi là chương trình EPC
[12]. Chính phủ Việt Nam cũng có quy định về “Quỹ chống trốn”, khoảng 100 triệu đồng/người; khi có sự vi phạm khoản tiền ký quỹ này được đưa vào Quỹ thúc đẩy lao động nước ngoài,.
Các doanh nghiệp đề nghị tiếp tục tăng cường phối hợp và hợp tác giữa doanh nghiệp với chính quyền và tổ chức địa phương trong công tác quản lý lao động. Họ đều đồng ý tiếp tục hoạt động truyền thông vận động nhằm thay đổi cách nhìn về lao động không chính thức của người dân. Họ cũng đề nghị tăng cường giám sát, thanh tra, kiểm tra hoạt động của các đơn vị, cá nhân trên địa bàn hoạt động đưa người đi làm động làm việc ở nước ngoài kịp thời điều chỉnh và xử lý khi vi phạm các văn bản quy định, nhất là các công ty “ma” hoạt động trái pháp luật và cả người lao động vi phạm hợp đồng và pháp luật.
Địa bàn khảo sát ghi nhận một cách không công khai các trường hợp bị mua bán hoặc tham gia các đường dây mua bán người bất hợp pháp, tình trạng này vẫn tồn tại tại địa phương trong nhiều năm qua. Trường hợp khá “ồn ào” quy mô quốc tế là vụ 39 nạn nhân tử vong ở Anh quốc trong xe container có một người từ vùng dự án. Điều này xác nhận nhu cầu tác động thay đổi nhận thức ở cộng đồng người lao động tiếp cận lao động xứng đáng, hợp pháp và an toàn. Cũng là một hướng có thể là tạo việc làm được trả công xứng đáng, hoặc khởi nghiệp để có thu nhập tốt ngay tại quê hương.
Quảng Bình là một trong những tỉnh đi đầu trong việc lựa chọn đưa người đi LĐNN như một chiến lược quan trọng trong xóa đói giảm nghèo bền vững. Chiến lược này được cụ thể hóa thành kế hoạch dài hạn ở từng xã trong khu vực dự án. Trong tỉnh, huyện Bố trạch là huyện thứ hai trong toàn quốc về số người ở lại cư trú bất hợp pháp ở Hàn Quốc năm 2019, còn Ba Đồn là địa phương đứng đầu cả nước về tỷ lệ người đi mà ở lại (tới 100%).
Với nhu cầu LĐNN lớn, số doanh nghiệp của Quảng Bình hiện tại có năng lực trực tiếp ký kết hợp đồng cung cấp lao động cho doanh nghiệp nước ngoài hiện tại chỉ có một là quá ít. Các dịch vụ đào tạo, giáo dục ý thức tuân thủ pháp luận, hỗ trợ người lao động của tỉnh ở nước ngoài hoàn toàn phụ thuộc các doanh nghiệp ở Hà Nội. Trong số các doanh nghiệp hiện đang còn hoạt động, nhất là ở huyện dự án, một số ít doanh nghiệp đứng vững là nhờ làm việc với thị trường lao động trong nước, các doanh nghiệp môi giới, tuyển dụng giới thiệu việc làm LĐNN đang đứng trước nguy cơ khủng hoảng tới mức có một số đáng kể các doanh nghiệp đã tạm ngưng hoạt động.
Để giải quyết vấn đề này, nhóm nghiên cứu cho rằng có thể có hai hướng: hoặc thúc đẩy phát triển và nâng cao năng lực cho các doanh nghiệp địa phương đóng ở tỉnh, và thứ hai là tạo môi trường để các doanh nghiệp ở Hà Nội hay Tp HCM về mở chi nhánh hoạt động hạch toán độc lập ở tỉnh. Để góp phần duy trì phát triển các doanh nghiệp, chính quyền tỉnh có thể xem xét các chính sách hỗ trợ đặc thù, do chính sách chung, chỉ có phần giãn nợ và giảm lãi xuất là có ích với các doanh nghiệp dịch vụ này.
5. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Trong khuôn khổ của Quỹ Thúc đẩy sáng kiến Tư pháp (EU JULE JIFF), với sự hỗ trợ của Ban Quản lý sáng kiến “Thúc đẩy phụ nữ có việc làm xứng đáng, an toàn và hợp pháp khi tham gia thị trường lao động ở nước ngoài thông qua cải thiện tiếp cận công lý về lao động”, trong tháng 11 năm 2020, nghiên cứu đã rà soát các văn bản pháp luật liên quan đến lao động nước ngoài và thực hiện cuộc khảo sát đánh giá đầu kỳ ở các xã dự án thuộc huyện Bố Trạch tỉnh Quảng Bình. Hoạt động nghiên cứu, theo tiếp cận hỗn hợp cả định tính và định lượng, có mục tiêu làm rõ chi tiết hơn bối cảnh tư pháp và hiện trạng ở vùng dự án nhằm góp phần tổ chức hoạt động dự án sát hơn với thực tế, có một bộ số liệu phục vụ theo dõi và đánh giá dự án và định hướng các ưu tiên trong nội dung vận động chính sách của dự án và của tổ chức QBWDF về lâu dài.
5.1.1. Về hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
Nghiên cứu ghi nhận những thay đổi quan trọng của hệ thống văn bản quy pháp luật về lao động nói chung, lao động làm việc ở nước ngoài sát với các chuẩn mực quốc tế, được ILO khuyến nghị. Quyền lợi và trách nhiệm của người lao động và các cơ quan môi giới, tuyển dụng đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài đã được quy định chặt chẽ và hài hòa. Những nội dung về an toàn lao động, bình đẳng giới, về phòng chống bạo lực hay quấy rối nơi làm việc đã được quy định. Cơ chế giải quyết những va chạm, xung đột giữa lao động và bên xử dụng lao động đã được đề cập thỏa đáng.
5.1.2. Về thực thi các chính sách và pháp luật
Khảo sát này ghi nhận nhu cầu cao về LĐNN ở cộng đồng các xã ven biển của huyện Bố Trạch, cũng như những điểm chung và khác biệt của các cộng đồng trong vấn đề LĐNN, mà các yếu tố quan trọng là loại hình sinh kế địa phương. Những nguyên nhân chính thúc đẩy người đi là thiếu việc làm có thu nhập xứng đáng, suy giảm hoặc mất nguồn sinh kế từ biển do sự cố ô nhiễm môi trường hoặc khai thác quá mức, và chính sách khuyến khích LĐNN như một giải pháp tạo việc làm và giảm nghèo. Các yếu tố hút người lao động đi được phát hiện là nhu cầu lao động giản đơn ở các nước công nghiệp, cơ hội việc làm và thu nhập cao hơn so với thị trường lao động trong nước và cùng với thời gian là mạng lưới xã hội và gia đình giúp đỡ giới thiệu việc làm và bảo vệ người lao động, và ở một số quốc gia là chính sách cởi mở với lao động di cư. Khảo sát xác nhận những thiếu hụt của người tìm cơ hội LĐNN về việc tìm hiểu thông tin về thị trường lao động, yêu cầu tuyển dụng, phong tục tập quán nơi, các kỹ năng nghề nghiệp và ngoại ngữ, cũng như quyền lợi và trách nhiệm, quyền lợi của mình cũng như bên tuyển dụng hoặc môi giới.
Với những người đang làm việc ở nước ngoài, khảo sát này xác nhận sự chuẩn bị chưa đầy đủ, đặc biệt về ngôn ngữ là yếu tố tác động đến việc làm và thu nhập; việc trang bị kiến thức về pháp luật sở tại, pháp luật Việt Nam dành cho người lao động nước ngoài, trang bị hiểu biết về văn hóa sở tại hầu như chưa được lưu tâm đúng mức; việc tuyên truyền về các văn bản pháp luật, giới thiệu văn hóa và thông tin cụ thể về thị trường lao động chưa được chú trọng; yếu tố đầu tiên mà người lao động chú trọng khi có ý định đi nước ngoài chính là tài chính (tiền đóng phí) trong khi những vốn kỹ năng, kiến thức làm hành trang đang bị yếu, bỏ ngỏ ở nhiều khâu.
Đoàn khảo sát cũng ghi nhận những kết quả khả quan về việc người lao động không bị hoặc ít bị xâm hại, lạm dụng, kỳ thị nhưng ở một góc độ khác, có thể phụ nữ ngại chia sẻ về vấn đề này hoặc chưa có cái nhìn đầy đủ về pháp luật sở tại, Việt Nam về việc trừng phạt, xử lý xâm hại nên họ chọn cách im lặng để có được sự yên ổn, tránh bị kỳ thị từ nhiều phía.
Điều ghi nhận quan trọng là đóng góp của họ với quê nhà, mà quan trọng ở những đầu tư vào các cơ sở tín ngưỡng, văn hóa xã hội và giao thông địa phương; Những đánh giá về cơ bản là tích cực của NLĐNN với việc tuân thủ hợp đồng lao động về điều kiện làm việc, an toàn về bạo lực nơi làm việc về thể xác và tinh thần, tình dục, cũng như mức độ bình đẳng với người lao động. Tuy nhiên vẫn còn một số vấn đề còn chưa được NLĐ quan tâm đó là việc tìm hiểu các văn bản pháp luật liên quan đến lao động nước ngoài, các thông tin về thị trường lao động nước ngoài; người lao động chưa được đào tạo nghề có kỹ thuật, trình độ cao và chừng mực nào đó là lao động nữ chưa thực sự cởi mở về vấn đề xâm hại tình dục; những trăn trở khi đi lao động nước ngoài nhưng con cái không được chăm nom, quan tâm đúng mức, số tiền tích góp gửi về không biết có được sử dụng hiệu quả không và những băn khoăn nếu gặp những rủi ro phải về nước có cách nào để tái hòa nhập cộng đồng.
Khảo sát ghi nhận sự phong phú của các quốc gia nơi làm việc của LĐNN, cũng như mức độ thu hút cao của hai nước là Hàn Quốc và Đài loan với lao động của Việt Nam, và chừng mực nào đó là Nhật Bản, tuy nhiên hầu hết là lao động phổ thông, tay nghề thấp, rất ít lao động có kỹ thuật nên thu nhập không cao và dễ dẫn đến nguy cơ mất việc làm.
Khảo sát ghi nhận với những đánh giá của người lao động trở về với những mong đợi của họ ban đầu, đặc biệt về thu nhập, tác động của họ với kinh tế và mức sống gia đình, và đóng góp của LĐNN với việc phát triển doanh nghiệp địa phương. Khảo sát ghi nhận một bộ phận đáng kể LĐNN không thấy kết quả của chuyến đi như mong đợi, đặc biệt trong nam giới. Điều này được đặc biệt xác nhận về mức độ hài lòng về thu nhập sau một “nhiệm kỳ” LĐNN. Mức độ tác động tiêu cực của LĐNN tới quan hệ hôn nhân và gia đình cũng được ghi nhận và phân tích. Nhóm khảo sát cũng ghi nhận đáng kể các trường hợp đã không thể dung hòa mâu thuẫn vợ - chồng, cha mẹ - con cái do xa cách về địa lý, thời gian, do sự thay đổi khi có tiền nhưng thiếu vắng sự gần gũi, quản lý đúng cách.
Về những cân nhắc của người lao động với việc tham gia LĐNN “bất thường”, ngoài yếu tố thu nhập, những phát hiện cho thấy có các yếu tố nội sinh như bảo đảm sự an toàn của người thân, chi phí của chuyến đi, và các yếu tố khách quan là thu nhập ở nơi đến, và mức độ nghiêm khắc của cơ quan chế tài với người làm việc “bất thường”. Với những loại hình việc làm phi pháp, như trồng cần sa, sức hút của thu nhập thường vượt qua những lo ngại về khả năng bị bắt giam, trục xuất thậm chí bị đe dọa đến tính mạng. Dự án được chọn thực hiện ở Bố Trạch chính là ở khu vực mà hiện tượng “phá” hợp đồng để lao động bất thường phổ biến ở mức độ cao nhất không chỉ ở trong tỉnh mà ở cả cấp độ quốc gia, đến mức mà trong nhiều năm, một nước tới, là Hàn Quốc, đã thực hiện biện pháp “phạt” là không nhận lao động từ huyện.
5.2. Khuyến nghị
Trên cơ sở xác nhận tính thiết thực của dự án với nhu cầu của cộng đồng vùng dự án, cũng như khả năng tác động chính sách cuộc nghiên cứu này đưa ra những khuyến nghị theo hai hướng về a) những biện pháp và nội dung truyền thông, cũng như tư vấn pháp luật và b) những hoạt động vận động chính sách tập trung vào vào những người chuẩn bị đi LĐNN.
5.2.1. Về hoạt động truyền thông và trợ giúp pháp luật
Đối tượng truyền thông và trợ giúp pháp luật được dự án xác định là lao động, trọng tâm là phụ nữ, trong độ tuổi lao động đang có những cân nhắc làm việc ở nước ngoài, tuy vậy có một số nhóm mới được ghi nhận qua khảo sát. Cuộc khảo sát cho thấy, có một nhóm để truyền thông cần chú ý là không ít người, đặc biệt trong nhóm thu nhập thấp, và đi theo các kênh chi phí thấp sang Trung quốc hay Lào, đã đi và sẵn sàng đi theo kênh “tiểu ngạch.”
Những nhóm lao động trẻ đang tính toán đi theo con đường du lịch hoặc học để sau này “lao động bất thường” ở nước ngoài cũng là đối tượng đích cần lưu ý. Hơn nữa, do người thân, trong đó cả những người đang làm việc ở nước ngoài và đã trở về đều được người muốn đi LĐNN tham vấn, họ cũng nên được đưa vào nhóm đích với mong đợi họ trở thành người đồng hành truyền thông thông tin đúng cùng dự án.
Một nhóm đối tượng có thể có nhu cầu trợ giúp cao hơn là truyền thông pháp luật là nhóm lao động trở về. Nghiên cứu cho thấy họ thường không làm các thủ tục đăng ký với chính quyền địa phương sau khi trở về và họ không được chú ý trong việc hỗ trợ việc làm và tích hợp với môi trường lao động việc làm sau khi trở về. Nhu cầu này, đặc biệt có ý nghĩa, nhiều khả năng là vấn đề “nhậy cảm”, với những người trở về sau khi giải quyết vấn đề “lao động kiểu bất thường” ở nước ngoài.
Các tiếp cận với các sản phẩm truyền thông đa dạng và trực tiếp, cả ở cấp cá nhân và nhóm, được biết là có hiệu quả cao và đã được đề xuất trong dự án. Dự án có lợi thế với việc sử dụng hệ thống mạng lưới có sẵn của Hội Phụ nữ ở các thôn xã, các câu lạc bộ phụ nữ và các tổ vay vốn của QBWDF.
Các hoạt động truyền thông “sân khấu hóa” mà dự án có dự kiến, có khả năng thu hút được đông đảo người tham dự, tuy vậy thường khó chiều sâu và khó đánh giá mức độ tiếp nhận thông điệp trong người tham dự. Hoạt động này cũng nên có chuyên gia, ít ra ví dụ là cán bộ ở các trung tâm văn hóa địa phương, để họ giúp xây dựng kịch bản và bố trí sân khấu, cho dù làm ở dạng “quần chúng” và nghiệp dư. Vì vậy, nên có phần thảo luận giữa diễn viên với người tham dự sau buổi trình diễn. Cũng có thể chú ý sử dụng các buổi truyền thông làm nơi đăng ký tiếp nhận nhu cầu tham vấn, hoặc trợ giúp pháp lý.
Để truyền thông có hiệu quả, việc nâng cao năng lực của các đối tác truyền thông là quan trọng để đảm bảo dự án thành công. Trong hoạt động này, việc phối kết hợp với các chương trình truyền thông và truyền hình trung ương và địa phương là một việc rất nên xem xét. Họ cũng có thể là một kênh truyền thông mà dự án có thể hợp tác để mở rộng phạm vi tác động của mình.
Với mức độ tiếp cận cao của người lao động và người chuẩn bị đi LĐNN, các sản phẩm truyền thông qua các kênh nghe nhìn qua mạng xã hội cũng nên được xem xét để sản xuất ở dạng live-stream hoặc video clip trong khả năng của dự án, bên cạnh các phương pháp truyền thông qua tờ rơi, hoặc truyền thông tĩnh qua pan-nô, áp phích. Các cuộc truyền thông qua mạng xã hội còn có hiệu quả là do khả năng thu hút được những người thân đang lao động ở nước ngoài tham gia, thậm chí thực hiện được các hoạt động trợ giúp pháp lý cho người lao động đang làm việc ở nước ngoài, ví dụ qua kết nối với chuyên gia về lao động theo hợp đồng ở nước ngoài. Khi tổ chức các cuộc truyền thông live-stream giống các thảo luận bàn tròn, nên có sự đóng góp của các chuyên gia truyền thông trong quá trình xây dựng kịch bản, và biên tập hậu kỳ để sản phẩm truyền thông có chất lượng và khả năng lan tỏa về sau.
Với hoạt động tư vấn và trợ giúp pháp lý, các nội dung giống nhau có thể lặp lại ở các xã dự án và tập trung vào việc thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ của người tham gia LĐNN theo hợp đồng, trách nhiệm nghĩa vụ của các tổ chức môi giới và dịch vụ đưa người lao động ra nước ngoài, giải quyết các tình huống xung đột va chạm ở nước ngoài, vì vậy ngoài việc đào tạo đội ngũ truyền thông viên, tư vấn viên, việc xây dựng một sổ tay truyền thông, tư vấn và trợ giúp pháp luật có thể là cần thiết để hoạt động truyền thông, tư vấn và trợ giúp có hiệu quả và chất lượng đồng nhất.
Lồng ghép và phối kết hợp là một khuyến nghị của nghiên cứu. Do hoạt động truyền thông, tư vấn và trợ giúp pháp luật mà dự án thực hiện là điểm gặp của nhiều chương trình quốc gia ở địa phương, ví dụ chương trình đào tạo và dạy nghề, tạo việc làm, chương trình giáo dục và phổ biến pháp luật, chương trình phòng chống buôn bán người, chương trình bình đẳng giới, việc phối hợp và lồng ghép hoạt động của dự án với các chương trình giúp tránh chồng chéo và lãng phí nguồn lực. Việc chia sẻ các kết quả và bài học của dự án với các cơ quan phụ trách các chương trình, ví dụ qua thông báo kế hoạch hoạt động hay trao đổi báo cáo, hoặc tham gia các hội thảo, sẽ tiết kiệm nguồn lực, giúp nâng cao hiệu quả của các chương trình.
Để theo dõi đánh giá tác động của chương trình, số lượng những người tham gia dự án nên được điều chỉnh lại, hay chọn lọc lại từ bộ số liệu điều tra này và điều chỉnh phù hợp, cân đối với cộng đồng LĐNN ở mỗi xã dự án, cả về số lượng, giới tính và nhóm tuổi. Một độ dôi cần thiết về người tham gia cần xác định ngay từ đầu do mức độ di động cao của những người trong cộng đồng LĐNN.
5.2.2. Về hoạt động vận động chính sách
Định hướng của dự án là vận động chính sách về lao động, đặc biệt về lao động ở nước ngoài, có chú ý về bình đẳng giới, được trù liệu trên cơ sở thông tin thực chứng thu thập từ dự án, thông qua cung cấp thông tin và các cuộc đối thoại giữa người lao động với đại diện cơ quan lập pháp và hành pháp ở trung ương (thông qua đoàn đại biểu quốc hội tỉnh) và địa phương, cũng như với giới doanh nghiệp làm dịch vụ môi giới lao động và dịch vụ đưa người lao động ra nước ngoài. Một hướng hoạt động vận động mà dự án định hướng là tác động tới dư luận và ý kiến của công chúng thông qua báo chí và truyền thông.
Để có thể thực hiện thành công hoạt động vận động chính sách, đặc biệt với hướng tác động vào các dự thảo của nghị định và các hướng dẫn thực hiện Luật về lao động ở nước ngoài theo hợp đồng, rất cần coi trọng việc thu thập thông tin, đặc biệt là các câu chuyện của người đang chuẩn bị đi lao động, các trường hợp bất cập khi tham gia chuẩn bị cho chuyến đi, các tình huống bất cập về hoạt động của các tổ chức không đủ năng lực, hoặc khi lao động ở nước ngoài, hay khi trở về. Những câu chuyện này thường xuất hiện chi tiết qua các cuộc tham vấn, trợ giúp pháp luật, cần và hoàn toàn có thể chú ý thu thập và biên tập thành tài liệu có hệ thống, có thể cung cấp cho báo chí, và tập hợp thành tài liệu để cung cấp cho các cơ quan dân cử, các tổ chức chính quyền hữu trách (ví dụ, Sở LĐTBXH). Mức độ chính xác và tin cậy của các câu chuyện là đặc biệt quan trọng, khi thông thường đó là những trường hợp có liên quan tới hoạt động của các doanh nghiệp xúc tác, môi giới và làm dịch vụ đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Trong các tổ chức đối tác vận động, dự án nên chú ý lôi cuốn Hiệp hội XKLĐ Việt Nam (VAMAS), và Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) trong việc giám sát việc thi hành Bộ quy tắc ứng xử dành cho các doanh nghiệp XKLĐ (CoC-VN). Việc cung cấp thông tin của dự án cho các tổ chức này qua việc chia sẻ các báo cáo, tài liệu hoặc thông qua các hội thảo, hội nghị có thể giúp các tổ chức này đánh giá xếp hạng chính xác và tin cậy hơn các tổ chức thành viên. Điều này cũng có thể góp phần tăng cường sự tham gia của các tổ chức đoàn thể địa phương trong việc góp ý cho chủ chương và chính sách của hiệp hội của các doanh nghiệp này.
Có không ít yếu tố bên ngoài mà sáng-kiến-dự án không thể can thiệp, ví dụ chính sách về hợp tác trao đổi lao động của tỉnh với các quốc gia tiếp nhận, chính sách của chính phủ trung ương và các chính sách lao động-việc làm của các quốc gia tiếp nhận. Sáng kiến- dự án có thể sử dụng tiếng nói của người lao động để thực hiện các hoạt động vận động điều chỉnh chính sách cho phù hợp, và thuận lợi, cũng như để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của LĐNN. Việc cung cấp thông tin kịp thời về chính sách với LĐNN của các quốc gia, ít nhất là các nước chủ chốt như Hàn Quốc, Đài Loan hay Nhật Bản, bằng ngôn ngữ dễ hiểu và các kênh tiếp cận rộng rãi là việc có thể cân nhắc. Việc hợp tác với các cơ quan môi giới, với các tổ chức bảo vệ quyền lợi của người Việt ở nước ngoài nên được cân nhắc.
| STT |
Họ và tên |
Giới |
Vị trí |
| 1 |
Đặng Ngọc Quang[13] |
Nam |
Nghiên cứu viên chính - Trưởng nhóm |
| 2 |
Nguyễn Phương Huyền |
Nữ |
Nghiên cứu viên chính |
| 3 |
Lê Thị Hải Yến |
Nữ |
Điều tra viên |
| 4 |
Nguyễn Thị Thu Sương |
Nữ |
Điều tra viên |
| 5 |
Hoàng Thị Lượt |
Nữ |
Điều tra viên |
| 6 |
Hoàng Thị Minh Trang |
Nữ |
Điều tra viên |
| 7 |
Phạm Thị Hoa |
Nữ |
Điều tra viên |
| 8 |
Nguyễn Thị Thành Lý |
Nữ |
Điều tra viên |
| 9 |
Hoàng Thị Thanh Thủy |
Nữ |
Điều tra viên |
| 10 |
Hoàng Thị Hương Huế |
Nữ |
Điều tra viên |
| 11 |
Ngô Thị Hường |
Nữ |
Điều tra viên |
| 12 |
Bùi Lan Vân |
Nữ |
Điều tra viên |
| 13 |
Nguyễn Thị Huyền (DH) |
Nữ |
Điều tra viên |
| 14 |
Đặng Thị Thu Hằng |
Nữ |
Điều tra viên |
| 15 |
Nguyễn Thanh Bình |
Nữ |
Điều tra viên |
| 16 |
Nguyễn Thị Xuân Thanh |
Nữ |
Điều tra viên |
| 17 |
Nguyễn Thị Thanh Hoa |
Nữ |
Điều tra viên |
| 18 |
Phạm Thị Phương Thảo |
Nữ |
Điều tra viên |
| 19 |
Dương Thị Bông |
Nữ |
Điều tra viên |
| 20 |
Hoàng Thị Tố Như |
Nữ |
Điều tra viên-Nhập liệu |
| 21 |
Nguyễn Bá Hùng |
Nam |
Điều tra viên |
| 22 |
Lê Nguyễn Minh Hiếu |
Nam |
Điều tra viên-Nhập liệu |
| 23 |
Nguyễn Thị Ánh Nguyệt |
Nữ |
Điều tra viên |
| 24 |
Hoàng Thị Diệu Hương |
Nữ |
Điều tra viên |
| 25 |
Nguyễn Thị Hồng Ngọc |
Nữ |
Điều tra viên |
Phụ lục 2. Số liệu thống kê về người LĐNN ở các thôn khảo sát
(Nguồn: các trưởng thôn tham gia khảo sát)
| Xã |
Thôn |
Số hộ |
Số khẩu |
Lao động |
LĐNN |
LDNN nữ |
| Đức Trạch |
Đức Trung |
410 |
1659 |
1200 |
250 |
|
| Đức Trạch |
Nam Đức |
545 |
2283 |
1100 |
135 |
|
| Đức Trạch |
Thượng Đức |
380 |
1800 |
900 |
90 |
|
| Đức Trạch |
Đông Đức |
297 |
1406 |
860 |
70 |
|
| Đức Trạch |
Trung Đức |
240 |
1000 |
600 |
140 |
|
| Thanh Trạch |
Thanh Khê |
616 |
|
2900 |
500 |
|
| Thanh Trạch |
Thanh Hải |
213 |
943 |
|
210 |
|
| Thanh Trạch |
Thanh Xuân |
342 |
1651 |
|
300 |
|
| Thanh Trạch |
Tiền Phong |
610 |
2741 |
|
350 |
|
| Thanh Trạch |
Thanh Danh |
257 |
1257 |
|
220 |
70 |
| Thanh Trạch |
Thanh Vinh |
247 |
1620 |
|
247 |
50 |
| Nhân Trạch |
Bắc Hồng |
172 |
675 |
|
120 |
20 |
| Nhân Trạch |
Nhân Hải |
241 |
1130 |
|
220 |
50 |
| Nhân Trạch |
Nhân Bắc |
320 |
1136 |
750 |
276 |
50 |
| Nhân Trạch |
Nhân Đức |
299 |
1293 |
700 |
301 |
|
| Nhân Trạch |
Nam Hồng |
327 |
|
675 |
102 |
|
| Nhân Trạch |
Nhân Nam |
282 |
1425 |
730 |
330 |
|
| Nhân Trạch |
Nhân Tiến |
250 |
1250 |
627 |
201 |
32 |
| Nhân Trạch |
Nhân Quang |
327 |
1520 |
740 |
225 |
70 |
| Hải Phú |
Ngoại Hòa |
230 |
800 |
400 |
120 |
30 |
| Hải Phú |
Nội Hải |
316 |
1420 |
|
265 |
50 |
| Hải Phú |
Nam Sơn |
110 |
448 |
|
39 |
|
| |
|
|
|
|
4711 |
|
Phụ lục 3. Các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến người lao động Việt Nam ở nước ngoài
3.1. Bộ Luật Lao động năm 2019
- Bộ Luật Lao động năm 2019 được Quốc hội thông qua năm 2020, dự kiến bắt đầu có hiệu lực từ 1/1/2021, gồm 17 chương với 220 điều, giảm 22 điều so với Bộ luật Lao động năm 2012.
-
Thông tư 10/2020/TT-BLĐTBXH ngày 12/11/2020 hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về nội dung của hợp đồng lao động, Hội đồng thương lượng tập thể và nghề, công việc có ảnh hưởng xấu tới chức năng sinh sản, nuôi con.
- Thông tư
09/2020/TT-BLĐTBXH ngày 12/11/2020 hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về lao động chưa thành niên.
3.2. Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
- Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng 2006 của Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 10 năm 2006 gồm 8 chương 79 điều.
- Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng 2020 được thông qua tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIV.
Văn bản chung
- Nghị định 38/2020/NĐ-CP ngày 03/4/2020 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
-
Nghị định 126/2007/NĐ-CP chi tiết Luật 72/2006/QH11 về người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng-
Thông tư 21/2007/TT-BLĐTBXH Hướng dẫn chi tiết một số điều của Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và Nghị định số 126/2007/NĐ-CP ngày 01 tháng 8 năm 2007của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
- Quyết định số 402/QĐ-TTg ngày 20/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai Thỏa thuận toàn cầu về Di cư hợp pháp, an toàn và trật tự của Liên hợp quốc và hướng dẫn của Bộ Ngoại giao tại Văn bản số 1378/BNG-LS ngày 20/4/2020.
-
Thông tư 35/2017/TT-BLĐTBXH về quy định việc quản lý, vận hành và khai thác cơ sở dữ liệu về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
Văn bản quy định về bộ máy, đào tạo, hợp đồng
- Quyết định số 630/QĐ-LĐXH ngày 19/5/2010 đối với đào tạo nghề, ngoại ngữ, bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo QĐ số 71/2009/QĐ-TTg ngày 29/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ.
- Quyết định
20/2007/QĐ-BLĐTBXH về cấp chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức cho người lao động đi xuất khẩu lao động.
- Quyết định 19/2007/BLĐTBXH về tổ chức bộ máy hoạt động XKLĐ 22/2013/TT-BLĐTBXH về mẫu hợp đồng cung ứng lao động và hợp đồng dịch vụ XKLĐ.
- Quyết định
18/2007/QĐ-BLĐTBXH về chương trình bồi dưỡng kiến thức đi xuất khẩu lao động.
- Quyết định số 225/QĐ-LĐTBXH ban hành kế hoạch thực hiện kết luận thanh tra số 2112/KL-TTCP của Thanh tra Chính phủ về công tác quản lý Nhà nước trong lĩnh vực đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
-
Thông tư liên tịch 08/2007/TTLT-BLĐTBXH-BTP về hợp đồng bảo lãnh và thanh lý hợp đồng bảo lãnh đi XKLĐ
Văn bản quy định về chi phí
-
Quyết định 12/2020/QĐ-TTg về thực hiện thí điểm ký quỹ đối với người lao động đi làm việc tại Hàn Quốc theo Chương trình cấp phép việc làm cho lao động nước ngoài của Hàn Quốc.
- Quyết định 61/2008/QĐ-BLĐTBXH về mức tiền môi giới người lao động trả cho DN tại một số thị trường
-
Thông tư 54/2020/TT-BTC quy định về mức thu, nộp phí xác minh giấy tờ, tài liệu theo yêu cầu của tổ chức, cá nhân trong nước, lệ phí cấp Giấy phép hoạt động đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.
- Thông tư
21/2013/TT-BLĐTBXH về mức trần tiền ký quỹ XKLĐ tại một số thị trường.
-
Thông tư liên tịch 11/2008/TTLT-BLĐTBXH-BTC về quản lý, sử dụng quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước- Quyết định 144/2007/QĐ-TTg về thành lập, quản lý, sử dụng quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước.
- Thông tư liên tịch 16/2007/TTLT-BTC-BLĐTBXH về tiền môi giới, tiền dịch vụ xuất khẩu lao động.
Văn bản quy định về xử phạt.
-
Nghị định 28/2020/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
-
Nghị định 24/2018/NĐ-CP quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực lao động, giáo dục nghề nghiệp, người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, việc làm, an toàn, vệ sinh lao động.
-
Nghị định 88/2015/NĐ-CP về sửa đổi một số điều của Nghị định 95/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
-
Nghị định 119/2014/NĐ-CP hướng dẫn Bộ luật Lao động, Luật Dạy nghề, Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng về khiếu nại, tố cáo.
-
Nghị định 95/2013/NĐ-CP Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội và đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
-
Thông tư 35/2017/TT-BLĐTBXH về quy định việc quản lý, vận hành và khai thác cơ sở dữ liệu về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
-
Thông tư 259/2016/TT-BTC quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí xác minh giấy tờ tài liệu, lệ phí cấp giấy phép hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
-
Văn bản hợp nhất 4756/VBHN-BLĐTBXH năm 2015 hợp nhất Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
3.3. Luật Trợ giúp pháp lý
- Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018 và thay thế Luật Trợ giúp pháp lý số 69/2006/QH11.
- Thông tư số 12/2018/TT-BTP ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Bộ Tư pháp về hướng dẫn một số hoạt động nghiệp vụ trợ giúp pháp lý và quản lý chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý.
3.4. Luật Phòng chống mua bán người 2012
Luật Phòng chống mua bán người 2012 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2012 gồm 8 chương, 58 điều.
.-
Nghị định 09/2013/NĐ-CP Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng, chống mua bán người.
-
Thông tư liên tịch 134/2013/TTLT-BTC-BLĐTBXH Hướng dẫn nội dung, mức chi cho công tác hỗ trợ nạn nhân quy định tại Nghị định số 09/2013/NĐ-CP ngày 11/01/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng, chống mua bán người- Thông tư liên tịch 01/2010/TTLT-TATC-BLĐ-VKSTC về giải quyết tranh chấp Hợp đồng bảo lãnh trong XKLĐ.
-
Thông tư 35/2013/TT-BLĐTBXH hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 09/2013/NĐ-CP ngày 11 tháng 01 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng, chống mua bán người.
-
Thông tư liên tịch 01/2014/TTLT-BCA-BQP-BLĐTBXH-BNG Hướng dẫn trình tự, thủ tục và quan hệ phối hợp trong việc xác minh, xác định, tiếp nhận và trao trả nạn nhân bị mua bán.
3.5. Các văn bản pháp luật liên quan khác
- Luật Bình đẳng giới được Quốc hội XI thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2006 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 07 năm 2007 gồm 6 chương 44 điều.
- Luật Khiếu nại tố cáo năm 1998 và được sửa đổi, bổ sung một số điều tại kỳ họp thứ 8, Khóa XI ngày 29 tháng 11 năm 2005 gồm 9 chương, 103 điều.
- Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 được Quốc hội thông qua kỳ họp thứ 8 tại khóa XIII ngày 20 tháng 11 năm 2014 gồm 9 chương, 125 điều.
- Bộ Luật Hình sự số 100/2015/QH13 được Quốc hội thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2015, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2018 thay thế Bộ luật hình sự số 15/1999/QH10 và Luật số 37/2009/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự.
- Bộ Luật Dân sự năm 2015 được Quốc hội Khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 24/11/2015 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2017 gồm 6 phần, 27 chương với 689 điều.
Phụ lục 4. Các công cụ thu thập thông tin
4.1. Phiếu phỏng vấn các công ty dịch vụ việc làm, cung cấp lao động
PHIẾU PHỎNG VẤN
CÔNG TY CUNG CẤP DỊCH VỤ LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI, TRUNG TÂM DỊCH VỤ VIỆC LÀM
Dự án "Thúc đẩy phụ nữ có việc làm xứng đáng, an toàn và hợp pháp khi tham gia thị trường lao động ở nước ngoài thông qua cải thiện tiếp cận công lý về lao động" (gọi tắt là QBWDF9) do Liên minh châu Âu tài trợ, được triển khai tại địa bàn 4 xã Nhân Trạch, Đức Trạch, Hải Phú và Thanh Trạch huyện Bố Trạch. Cuộc khảo sát nhằm thu thập thông tin ban đầu về thực trạng làm cơ sở theo dõi đánh giá hoạt động dự án.
Cuộc phỏng vấn này là hoàn toàn tự nguyện, anh/chị có thể yêu cầu dừng bất cứ lúc nào mà không bị ảnh hưởng gì. Việc lựa chọn đối tượng khảo sát là ngẫu nhiên. Tất cả các thông tin do anh/chị cung cấp sẽ được giữ kín, bảo mật, ẩn danh, chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu nêu trên và không được sử dụng vào mục đích nào khác.
Anh/chị có đồng ý tham gia cuộc khảo sát này không: Có
Không
Giới thiệu công ty
- Xin giới thiệu chung về quá trình hình thành và phát triển doanh nghiệp
- Quá trình tham gia của doanh nghiệp vào lĩnh vực môi giới Lao động nước ngoài (LĐNN)
- Thành tích của của Công ty/Trung tâm trong 5 năm vừa rồi về số người đi (nam nữ), số nước và ngành nghề
- Thế mạnh của Công ty/Trung tâm về các dịch vụ chuẩn bị lao động: đào tạo ngoại ngữ, nghề, quản lý lao động
- Đánh giá của Công ty/Trung tâm về
- Chất lượng/số lượng lao động (nam và nữ) ở Quảng Bình, đặc biệt ở huyện Bố Trạch: các điểm yếu và điểm mạnh của lao động
- chiến lược kinh doanh của Công ty/Trung tâm ở Quảng Bình có gì khác so với các địa phương khác
Hoạt đông tuyển dụng
- Những vấn đề thường gặp với người tham gia tuyển dụng và học nghề và cách giải quyết (với nam với nữ)
- Chính sách hỗ trợ của địa phương với công tác LĐNN
- Vai trò của ngân hàng trong hỗ trợ vốn với người lao động tham gia LĐNN
- Sự phối hợp và hợp tác của chính quyền, tổ chức địa phương với công tác tuyển mộ
Quản lý người lao động ở nước ngoài
- Có những khác biệt gì quá đột ngột (cú Shock về văn hóa) trong cuộc sống hay văn hóa nơi làm việc?
- Những vấn đề thường gặp trong quá trình người lao động làm việc ở nước ngoài? Cách giải quyết?
- Những vấn đề thường gặp trong quá trình người lao động làm việc ở nước ngoài trở về? Cách giải quyết?
- Quan hệ của công ty môi giới, của công nhân với doanh nghiệp và công đoàn ở nước ngoài?
- Tình trạng người lao động bỏ hợp đồng làm việc ở ngoài? Nguyên nhân? Xu hướng và cách giải quyết
- Nhận xét của cty về LĐNN tác động thế nào tới gia đình, ví dụ về kinh tế, về lập nghiệp khi trở về và về quan hệ hôn nhân?
- Để thúc đẩy LĐNN, cần có những điều chỉnh chính sách gì, ví dụ về lao động, về tài chính (vốn, thuế), về bình đẳng giới hay hôn nhân và gia đình?
- Công ty đã có những hỗ trợ gì cho lao động ở nước ngoài?
Những tình huống lao động đặc biệt
- Xin cho biết xu hướng lao động không chính thức của lao động (nam và nữ) tại địa phương (thôn/xã) ở nước ngoài? Các nước đến, cách đi, việc làm và các lợi ích và chi phí so với cách đi chính thức? Có gì khác biệt giữa lao động nam và nữ
- Các chương trình thúc đẩy lao động chính thức, hạn chế tiến tới xóa bỏ lao động không chính thức đã có những thành công gì? Những hạn chế gì?
- Các cơ quan chính quyền, các tổ chức tuyển dụng và các chương trình quốc tế đã có những biện pháp gì để bảo đảm hạn chế lao động không chính thức? Kết quả của những (ba năm) năm gần đây?
- Xin cho biết giải pháp “trừng phạt” của các nước nhận, ví dụ như Hàn Quốc không nhận lao động từ các địa phương có nhiều lao động “làm ngoài”có tác động thế nào tới người lao động (nam và nữ) ở địa phương?
- Anh/chị thấy những chương trình truyền thông về lao động ở nước ngoài của chính phủ và các tổ chức xã hội (ví dụ, CSAGA) có những thành công gì, và có thể cải thiện thế nào?
- Anh/chị có suy nghĩ (đánh giá) thế nào về vụ 39 người Việt Nam bị tử vong trong xe tải ở Anh Quốc cách đây tròn một năm?
Tác động của COVID tới hoạt động LĐNN
- Tác động tới các thị trường và nhu cầu? Triển vọng?
- Tác động tới nguồn lao động trong nước? Triển vọng?
Luật lao động và các luật liên quan về LĐNN
- Những điều luật nào dễ và khó tuân thủ?
- Những điều luật nào thúc đẩy /cản trở hoạt động LĐNN?
- Hiệp hội các doanh nghiệp xuất khẩu lao động có vai trò gì với hoạt động của công ty?
- Anh/chị có ý kiến gì về bộ chuẩn mực tốt của các doanh nghiệp XKLĐ mà hiệp hội đề xuất?
4.2. Phiếu khảo sát thực trạng hiểu biết và nhu cầu người lao động
|
Số phiếu: A1-QBWDF9 WDF10.20
|
PHIẾU KHẢO SÁT
THỰC TRẠNG, HIỂU BIẾT VÀ NHU CẦU CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG VỀ LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI
Ngày thu thập tin: ……… tháng 11 năm 2020 Người thu thập tin[14]: ……………….………………
Dự án "Thúc đẩy phụ nữ có việc làm xứng đáng, an toàn và hợp pháp khi tham gia thị trường lao động ở nước ngoài thông qua cải thiện tiếp cận công lý về lao động" (gọi tắt là QBWDF9) do Liên minh châu Âu tài trợ, được triển khai tại địa bàn 4 xã Nhân Trạch, Đức Trạch, Hải Phú và Thanh Trạch huyện Bố Trạch. Cuộc khảo sát nhằm thu thập thông tin ban đầu về thực trạng để phục vụ tốt nhất nhu cầu của người lao động ở nước ngoài và làm cơ sở theo dõi đánh giá hoạt động dự án.
Cuộc phỏng vấn này là hoàn toàn tự nguyện, anh/chị có thể yêu cầu dừng bất cứ lúc nào mà không bị ảnh hưởng gì. Việc lựa chọn đối tượng khảo sát là ngẫu nhiên. Tất cả các thông tin cá nhân của anh/chị bảo mật, ẩn danh, chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu nêu trên.
Anh/chị có đồng ý tham gia cuộc khảo sát này không[15]? Có
Không
Nơi thu thập tin
Thôn: ……………………………….. Xã: ……………………… Huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình
Với cá nhân người trả lời:
Đang muốn lao động nước ngoài Thời điểm mong muốn đi: năm 202…..
Là người đang lao động nước ngoài Số năm LĐNN: …..…….
Là người đã lao động nước ngoài Số lần đi LĐNN: …… Tổng số năm: ….
Trong gia đình họ hàng
Không quen ai đã/đang đi LĐNN: Có bạn bè đã/đang đi LĐNN:
Có người trong gia đình đang hoặc đã đi LĐNN , số người: ………….
- Đặc điểm người trả lời:
- Giới tính: Nam Nữ 2.2. Năm sinh[16]: …………………
2.3. Học vấn: Học hết lớp: ………. Học hết Trung cấp: Học hết Cao đẳng/Đại học:
2.4. Hôn nhân: Chưa kết hôn: Trong hôn nhân: Ly thân/ly hôn: Góa:
2.5. Đã có học nghề: Có: Không: , nếu có vui lòng cho biết:
2.5.1. Nghề đã học là: ……………………….………………………………….……
2.5.2. Cơ sở đào tạo thuộc loại: tư nhân: nhà nước:
2.5.3. Thời gian (tính bằng tháng) đào tạo: ……………………………….……………
2.6. Chi phí học nghề (VND):
Không đáng kể: Dưới 3 triệu: Dưới 5 triệu: Dưới 10 triệu: Trên 10 tr:
2.7. Nguồn vốn học nghề:
Tự túc
[17]: Mượn/vay họ hàng: Vay tư nhân lãi cao: Vay Tổ chức tín dụng:
2.8. Tham gia tổ chức đoàn thể: Không: Có: , nếu có tham gia thì tổ chức nào?
Hội nông dân: Hội phụ nữ: Hội cựu chiến binh: Đoàn thanh niên:
CLB của HPN/HND: Khác: , là …..
2.9. Anh/chị đang có dư nợ với:
Quỹ HTPNPT: Ngân hàng Chính sách xã hội: Ngân hàng thương mại:
HTX tín dụng xã: Gia đình/bạn bè không lãi hay ưu đãi:
Tín dụng tư nhân lãi cao: Khác: , cụ thể ………………
2.10. Mức dư nợ của các tổ chức tín dụng chính thức (VND):
Dưới 100 triệu: 100-250 triệu: 250-500 tr: Từ 500 – 1 tỷ: Trên 1 tỷ:
2.11. Mức dư nợ của các tổ chức tín dụng phi chính thức:
Dưới 100 triệu: 100-250 triệu: 250-500 tr: Từ 500 -1 tỷ: Trên 1 tỷ:
2.12. Việc LDNN giúp anh/chị giải quyết những vấn đề gì của gia đình hoặc bản thân?
Thiếu việc làm ở địa phương: Đoàn tụ/Tái hợp với người thân ở nước ngoài:
Trả nợ cho gia đình: Chuẩn bị vồn liếng cho doanh nghiệp tương lai:
Thay đổi cuộc sống cho bản thân: Thay đổi cuộc sống cho đời các con:
Cải thiện sức khỏe/chữa bệnh: Nguyên nhân khác: , đó là …………………………..
2.13. Tiếp cận internet
Có điện thoại Smartphone: Có Không:
Có dùng Facebook: Có Zalo: Có dùng Tiktok: Có dùng Youtube:
2.14. Trong tuần vừa rồi, anh chị dùng internet để làm những việc gì sau đây?
Đọc tin xã hội: Học hỏi nghề nghiệp: Giải trí:
Tìm cơ hội việc làm trong nước: Tìm cơ hội việc làm ở nước ngoài:
Tìm hiểu luật pháp về lao động và lao động ở nước ngoài:
Liên hệ với bạn bè/người thân: Liên hệ với người thân/bạn LĐNN:
- Hiểu biết về thị trường lao động và phong tục tập quán nước ngoài
- Anh chị biết về thị trường lao động định tới ở mức nào?
Không đáng kể: Đáng kể: Kỹ càng:
- Anh/chị biết bằng cách nào:
Tự tìm hiểu: Do người nhà giới thiệu: Do bạn bè giới thiệu:
Do công ty tuyển dụng cung cấp: Từ người môi giới: Khác: đó là .........................
- Anh chị biết về phong tục tập quán nơi đến như thế nào?
Không đáng kể: Đáng kể: Kỹ càng: Không có ý kiến:
- Nếu có biết thì do:
Tự tìm hiểu: Do người nhà giới thiệu: Do bạn bè giới thiệu:
Do cty tuyển dụng cung cấp: Từ người môi giới: Khác: đó là .........................
- Anh chị biết về pháp luật của nơi đến như thế nào? Không biết gì: Có biết: .
Nếu biết thì do: Tự tìm hiểu: Do người nhà giới thiệu: Do bạn bè giới thiệu:
Do cty tuyển dụng cung cấp: Từ người môi giới: Khác: đó là .........................
- Anh/chị nhìn nhận hiểu biết của mình về thị trường lao động, phong tục và pháp luật nơi đến ở mức nào?
Không đáng kể: Đáng kể: Kỹ càng: Không có ý kiến:
- Anh/chị biết về tiêu chuẩn tuyển dụng từ các nguồn nào? Không biết gì: Có biết:
- Nếu biết thì do:
Tự tìm hiểu: Do người nhà giới thiệu: Do bạn bè giới thiệu:
Do cty tuyển dụng cung cấp: Từ người môi giới: Khác: đó là .........................
3.10. Với anh/chị, những rào cản nào lớn nhất đã/đang gặp để tham gia LĐNN?
Học vấn thấp: Thiếu tay nghề: Yếu khả năng học tiếng nước ngoài:
Thiếu tiền vốn chi cho LĐNN: Nặng trách nhiệm chăm sóc người thân:
Thiếu thông tin về thị trường LĐNN: Khác: , Cụ thể là ……………………………
- Hiểu biết về quyền lợi của người LĐNN
- Anh chị biết về quyền lợi của người LĐNN bằng cách nào? Không biết: Có biết:
- 1 Nếu có, anh/chị nhìn nhận hiểu biết của mình về quyền lợi nơi làm việc ở mức nào?
Hầu như không biết: Biết rất ít: Không có ý kiến:
Biết khá đủ: Biết đủ theo nhu cầu:
4.2.2. Nếu biết thì bằng cách nào?
Tự tìm hiểu: Do người nhà giới thiệu: Do bạn bè giới thiệu:
Do công ty tuyển dụng cung cấp: Từ người môi giới:
Từ người sử dụng lao động ở nước ngoài: Khác: , đó là……….
- Anh/chị có ý kiến thế nào với các nhận định sau
- “Người lao động cần được ký hợp đồng với doanh nghiệp dịch vụ XKLD”?
Đúng: Sai: Không biết:
- “Người lao động được tham gia khóa bổ túc nghề và ngoại ngữ tại các cơ sở đào tạo, giáo dục nghề nghiệp được cơ quan có thẩm quyền cấp phép”
Đúng: Sai: Không biết:
- NLĐ được vay vốn của tổ chức tín dụng để đi làm việc ở nước ngoài theo quy định
Đúng: Sai: Không biết:
- NLĐ được bồi thường thiệt hại trong trường hợp doanh nghiệp dịch vụ vi phạm
Đúng: Sai: Không biết:
- NLĐ có trách nhiệm ký quỹ hoặc giới thiệu người bảo lãnh theo thoả thuận với doanh nghiệp dịch vụ XKLĐ
Đúng: Sai: Không biết:
- NLĐ có trách nhiệm trả tiền dịch vụ cho doanh nghiệp dịch vụ XKLĐ
Đúng: Sai: Không biết:
- Sau khi trở về, NLĐ không phải thông báo với chính quyền địa phương nếu không có nhu cầu hỗ trợ tìm việc làm.
Đúng: Sai: Không biết:
Hiểu biết về chi phí tuyển dụng
- Anh chị biết về chi phí tuyển dụng bằng cách nào?
Tự tìm hiểu: Do người nhà giới thiệu: Do bạn bè giới thiệu:
Từ người môi giới: Do công ty tuyển dụng cung cấp:
- Anh chị có nhận định thế nào về ý kiến
- “Chi phí tuyển dụng LĐNN là minh bạch”
Hoàn toàn không đồng ý Không đồng ý một phần Không có ý kiến
Đồng ý một phần Hoàn toàn đồng ý:
- “Chi phí tuyển dụng LĐNN là hợp lý (tính đúng, tính đủ)” ?
Hoàn toàn không đồng ý Không đồng ý một phần Không có ý kiến
Đồng ý một phần Hoàn toàn đồng ý:
- Để tham gia LĐNN, hoàn cảnh của Anh/chị có phải vay mượn? Không: Có:
- Các nguồn nào anh/chị có thể vay mượn cho mục tiêu xuất khẩu lao động?
Người thân /bạn bè: Tín dụng tư nhân lãi cao: HTX tín dụng ở xã:
Ngân hàng chính sách xã hội: Ngân hàng thương mại : Cty cung cấp dịch vụ LĐNN:
5.6. Anh/chị có được biết về Chương trình nào của nhà nước hỗ trợ LĐNN?
Có: Không:
5.7. Nếu có, anh chị đã hỏi để được hỗ trợ chưa? Có: Chưa:
- Hiểu biết về luật pháp lao động, trợ giúp pháp lý, khiếu nại tố cáo và tố tụng dân sự
- Anh/chị đã đọc (dù là sơ qua) các văn bản pháp luật và tài liệu liên quan dưới đây?
Bộ luật dân sự: Luật lao động 2012:
Pháp luật về xuất khẩu lao động: Luật lao động (sửa đổi 2019):
Luật khiếu nại: Luật phòng chống mua bán người:
Luật tố cáo: Luật bình đẳng giới:
Luật hôn nhân và gia đình: Luật phòng chống bạo lực gia đình:
Luật trợ giúp pháp lý: Chưa đọc các luật nói trên:
- Anh/chị đã dự tập huấn hoặc một buổi truyền thông pháp luật (nội dung bất kỳ)?
Chưa dự: Một vài lần: Nhiều lần: Rất nhiều lần:
- Anh/chị có ý kiến thế nào về những nhận định sau: “Tôi có thể dễ dàng …
6.3.1. “…tìm đọc các văn bản pháp luật ví dụ về lao động, về LĐNN, về tố dụng dân sự”
Hoàn toàn không đồng ý Không đồng ý một phần Không có ý kiến
Đồng ý một phần Hoàn toàn đồng ý:
6.3.2. “… tìm gặp và đề nghị cán bộ lao động thương binh xã hội xã giúp đỡ về LĐNN”
Hoàn toàn không đồng ý Không đồng ý một phần Không có ý kiến
Đồng ý một phần Hoàn toàn đồng ý:
tìm gặp và đề nghị cán bộ tư pháp xã giúp đỡ về pháp luật”
Hoàn toàn không đồng ý Không đồng ý một phần Không có ý kiến
Đồng ý một phần Hoàn toàn đồng ý:
- “… tìm tới văn phòng luật sư để hỏi, ví dụ về pháp luật”
Hoàn toàn không đồng ý Không đồng ý một phần Không có ý kiến
Đồng ý một phần Hoàn toàn đồng ý:
- “… tìm tới Trung tâm trợ giúp pháp luật để được tư vấn về pháp luật”
Hoàn toàn không đồng ý: Không đồng ý một phần: Không có ý kiến:
Đồng ý một phần: Hoàn toàn đồng ý:
- “… tìm tới tổ chức hay cơ quan môi giới LĐNN”
Hoàn toàn không đồng ý: Không đồng ý một phần: Không có ý kiến:
Đồng ý một phần: Hoàn toàn đồng ý:
- Để tham gia LĐNN, anh/chị đã phaỉ giải quyết những vấn đề gì của cá nhân/gia đình?
Sức khỏe: Ngoại ngữ: Tay nghề:
Tài chính: Quan hệ gia đình: Khác: , cụ thể: ………………………..
- Để đi LĐNN, anh/chị phải cân nhắc những gì? [Chọn 3 yếu tố quan trọng nhất]
Chi phí chuẩn bị đi LĐNN: Thu nhập ở nước ngoài:
Hoàn cảnh gia đình ở nhà: Quan hệ với người thân/bạn bè ở nước ngoài:
Uy tín của công ty môi giới: Ý kiến của những người LĐNN đã trở về:
Yếu tố khác: , xin nêu rõ: ……………………………………………………………………..
- Để tham gia LĐNN, anh/chị đã tham vấn (hỏi ý kiến để ra quyết định) những ai?
Người thân bạn bè chưa đi LĐNN: Người thân/bạn đã đi LĐNN:
Trưởng thôn: Chi hội trưởng phụ nữ:
Chi hội trưởng nông dân: Cán bộ tư pháp xã:
Cán bộ lao động thương binh xã hội xã: Đại lý/đại diện cty môi giới ở thôn/xã:
Người khác: , cụ thể là ai? ……………………………………………………………………
6.7. Với anh/chị cách quyết định đi LĐNN được đưa ra như thế nào?
Phải được cha mẹ đồng ý: Phải được vợ/chồng cùng đồng ý:
Cần phải hỏi ý kiến chồng/vợ: Hoàn toàn tự mình ra quyết định được:
- Anh/chị đã học nghề và khám sức khỏe chưa? Rồi Chưa: , nếu Chưa chuyển sang câu 8
7.1.Anh/chị có ý kiến thế nào về các nhận định sau
“Việc khám sức khỏe để tuyển LĐNN có tính thực chất”:
Hoàn toàn không đồng ý: Không đồng ý một phần: Không có ý kiến:
Đồng ý một phần: Hoàn toàn đồng ý: Không biết:
7.2. “Chi phí khám sức khỏe để tuyển LĐNN là hợp ý (đúng và đủ)”:
Hoàn toàn không đồng ý Không đồng ý một phần Không có ý kiến
Đồng ý một phần Hoàn toàn đồng ý:
- “Việc dậy nghề để tuyển LĐNN có tính thực chất (phù hợp, đủ và cần thiết)”
Hoàn toàn không đồng ý Không đồng ý một phần Không có ý kiến
Đồng ý một phần Hoàn toàn đồng ý: Không biết:
- “Chi phí dạy nghề để tuyển LĐNN là hợp ý (được tính phù hợp, đúng và đủ)”
Hoàn toàn không đồng ý Không đồng ý một phần Không có ý kiến
Đồng ý một phần Hoàn toàn đồng ý: Không biết:
- “Việc học ngoại ngữ để tuyển LĐNN có tính thực chất (phù hợp, đủ và cần thiết)”
Hoàn toàn không đồng ý Không đồng ý một phần Không có ý kiến
Đồng ý một phần Hoàn toàn đồng ý: Không biết:
7.6.
“Chi phí học ngoại ngữ để tuyển LĐNN là hợp ý (được tính phù hợp, đúng và đủ)”
Hoàn toàn không đồng ý Không đồng ý một phần Không có ý kiến
Đồng ý một phần Hoàn toàn đồng ý: Không biết:
- “Tôi hoàn toàn hài lòng với toàn bộ quá trình tuyển và đào tạo để XKNN”
Hoàn toàn không đồng ý Không đồng ý một phần Không có ý kiến
Đồng ý một phần Hoàn toàn đồng ý: Không biết:
- Quá trình lao động ở nước ngoài
- Anh/chị đã từng LĐ ở nước ngoài? Sai: Đúng: . Nếu sai, chuyển sang câu 10.
- Quốc gia anh chị đã làm việc là: ……………………
8.2.1. Thời gian làm việc là …… năm.
- So với thời gian trong hợp đồng LĐNN, anh chị/người thân đã về :
Trước hạn Đúng hạn : Gia hạn :
Nếu về « trước hạn » xin vui lòng cho biết vì sao ? …………………………………………
- Anh chị có ý kiến gì về những nhận định sau ở nơi làm việc khi LĐNN:
- “TAY NGHỀ đã được đào tạo đủ cho yêu cầu nơi làm việc”?
Hoàn toàn không đồng ý Không đồng ý một phần Không có ý kiến
Đồng ý một phần Hoàn toàn đồng ý: Không biết:
- “Kỹ năng ngoại ngữ đã đủ cho yêu cầu nơi làm việc”?
Hoàn toàn không đồng ý Không đồng ý một phần Không có ý kiến
Đồng ý một phần Hoàn toàn đồng ý: Không biết:
- “Nơi làm việc, giờ làm và điều kiện làm việc phù hợp với hợp đồng LĐNN”?
Hoàn toàn không đồng ý Không đồng ý một phần Không có ý kiến
Đồng ý một phần Hoàn toàn đồng ý: Không biết:
8.4.4. “Tiền công, tiền thưởng, phụ cấp làm việc phù hợp với hợp đồng LĐNN”?
Hoàn toàn không đồng ý Không đồng ý một phần Không có ý kiến
Đồng ý một phần Hoàn toàn đồng ý: Không biết:
- “Tiền công, tiền thưởng, phụ cấp làm việc của người LĐNN bình đẳng với lao động bản xứ”?
Hoàn toàn không đồng ý Không đồng ý một phần Không có ý kiến
Đồng ý một phần Hoàn toàn đồng ý: Không biết:
8.4.6. “Người LĐNN có môi trường lao động an toàn, không bị quấy rối, cả về tinh thần về thể xác”?
Hoàn toàn không đồng ý Không đồng ý một phần Không có ý kiến
Đồng ý một phần Hoàn toàn đồng ý: Không biết:
8.4.7 “Người LĐNN được chăm sóc y tế khi ốm đau hay tai nạn bình đẳng với lao động bản xứ”?
Hoàn toàn không đồng ý Không đồng ý một phần Không có ý kiến
Đồng ý một phần Hoàn toàn đồng ý: Không biết:
8.4.8. “Trong thời gian nghỉ ngơi, người LĐNN được tự do sử dụng thời gian để đi lại, dùng internet, gặp bạn bè”?
Hoàn toàn không đồng ý Không đồng ý một phần Không có ý kiến
Đồng ý một phần Hoàn toàn đồng ý: Không biết:
8.4.9 “Người LĐNN tiếp cận dễ dàng công ty cung cấp dịch vụ lao động nước ngoài khi cần khiếu nại, tố cáo hoặc cần giúp đỡ”?
Hoàn toàn không đồng ý Không đồng ý một phần Không có ý kiến
Đồng ý một phần Hoàn toàn đồng ý: Không biết:
8.4.10. “Hợp đồng LĐNN luôn được công ty môi giới và chủ tuân thủ.”
Hoàn toàn không đồng ý Không đồng ý một phần Không có ý kiến
Đồng ý một phần Hoàn toàn đồng ý: Không biết:
8.4.11. “Khi có tranh chấp về hợp đồng LĐNN, luôn dễ dàng liên hệ với cty môi giới để giải quyết.”
Hoàn toàn không đồng ý Không đồng ý một phần Không có ý kiến
Đồng ý một phần Hoàn toàn đồng ý: Không biết:
8.4.12. “Khi LĐNN, chưa bao giờ tôi bị bạo lực/hình phạt về thể xác ở nơi làm việc.”
Hoàn toàn không đồng ý Không đồng ý một phần Không có ý kiến
Đồng ý một phần Hoàn toàn đồng ý: Không biết:
8.4.13. “Khi LĐNN, chưa bao giờ tôi bị bạo lực về tinh thần (lời nói) ở nơi làm việc.”
Hoàn toàn không đồng ý Không đồng ý một phần Không có ý kiến
Đồng ý một phần Hoàn toàn đồng ý: Không biết:
8.4.14. “Khi LĐNN, chưa bao giờ tôi bị bạo lực về tình dục (lời nói, cử chỉ, thể xác) ở nơi làm việc.” Hoàn toàn không đồng ý Không đồng ý một phần Không có ý kiến
Đồng ý một phần Hoàn toàn đồng ý: Không biết:
8.4.15. “Cho tới giờ, tôi hoàn toàn hài lòng với toàn bộ quá trình làm việc khi XKLD ở nước ngoài.”
Hoàn toàn không đồng ý Không đồng ý một phần Không có ý kiến
Đồng ý một phần Hoàn toàn đồng ý: Không biết:
- Quá trình sau kết thúc hợp đồng LĐNN
9.1. Anh chị/người thân đã kết thúc hợp đồng LĐNN đúng thời hạn: Đúng Sai:
9.1.1. Anh/chị đã nhận tiền đặt cọc chưa ? Đã nhận đủ: Nhận một phần: Chưa:
9.1.2. Nếu chưa nhận đủ, vui lòng cho biết tại sao? ………………………………….
………………………………………………………………………………………….
9.2. Anh/chị có ý kiến thế nào về các nhận định sau đây:
9.2.1. “Anh chị/người thân đã trở về an toàn và thuận lợi khi khi kết thúc hợp đồng.”
Hoàn toàn không đồng ý Không đồng ý một phần Không có ý kiến
Đồng ý một phần Hoàn toàn đồng ý:
9.2.2. “Anh/chị/người thân đạt được mục tiêu về thu nhập khi tham gia LĐNN”.
Hoàn toàn không đồng ý Không đồng ý một phần Không có ý kiến
Đồng ý một phần Hoàn toàn đồng ý: Không biết:
9.2.3. “Thu nhập từ LĐNN của anh/chị/người thân tốt hơn hẳn so với lao động trong nước, xứng đáng với công sức và thời gian xa nhà”.
Hoàn toàn không đồng ý Không đồng ý một phần Không có ý kiến
Đồng ý một phần Hoàn toàn đồng ý: Không biết:
9.2.4. “Thu nhập từ LĐNN của anh/chị/người thân đã giúp gia đình đầu tư kinh doanh, tạo công ăn việc làm mới sau khi trở về”.
Hoàn toàn không đồng ý Không đồng ý một phần Không có ý kiến
Đồng ý một phần Hoàn toàn đồng ý: Không biết:
9.2.5. “Kỹ năng nghề nghiệp và ngoại ngữ nhận được khi LĐNN đã giúp anh/chị tìm việc làm dễ dàng và làm việc tốt hơn ở vị trí hiện tại.”
Hoàn toàn không đồng ý Không đồng ý một phần Không có ý kiến
Đồng ý một phần Hoàn toàn đồng ý:
9.2.6. “Quan hệ trong gia đình của anh/chị/người thân đi LĐNN vẫn như cũ/ tốt hơn khi trở về”.
Hoàn toàn không đồng ý Không đồng ý một phần Không có ý kiến
Đồng ý một phần Hoàn toàn đồng ý: Không biết:
9.2.7. “Anh/chị đã trả xong đúng hạn món vay đi LĐNN”.
Hoàn toàn không đồng ý Không đồng ý một phần Không có ý kiến
Đồng ý một phần Hoàn toàn đồng ý: Không biết:
9.2.8. “Tới đây, bằng mọi cách anh/chị lại thu xếp để đi LĐNN.”
Hoàn toàn không đồng ý Không đồng ý một phần Không có ý kiến
Đồng ý một phần Hoàn toàn đồng ý:
9.2.9. “Tài sản của người đi LĐNN, hoàn toàn thuộc về người đó định đoạt.”
Hoàn toàn không đồng ý Không đồng ý một phần Không có ý kiến
Đồng ý một phần Hoàn toàn đồng ý: Không biết:
9.3. Anh/chị có ý kiến gì về hai nhận định sau: « Tham gia LĐNN đã giúp tôi và gia đình »..:
9.3.1. “Cải thiện mạnh mức sống như điều kiện nhà ở, xe cộ đi lại, tiện nghi gia đình”
Hoàn toàn không đồng ý Không đồng ý một phần Không có ý kiến
Đồng ý một phần Hoàn toàn đồng ý:
9.3.2. “Vượt qua dịch COVID-19 mà không bị ảnh hưởng lớn”
Hoàn toàn không đồng ý Không đồng ý một phần Không có ý kiến
Đồng ý một phần Hoàn toàn đồng ý:
9.4. “Sau chuyến LĐNN so với mọi mong đợi ban đầu, anh/chị đạt được ở mức độ nào?”
Thấp xa mong đợi: Thấp phần nào: Cơ bản là đạt đúng mức:
Vượt phần nào: Vượt xa mong đợi: Không có ý kiến
9.5. Anh/chị có khi nào muốn bỏ hợp đồng để làm việc bên ngoài? Có Không
Nếu có, vui lòng cho biết tại sao :…………………………………………………….
………………………………………………………………………………………..
- Đặc điểm nhân khẩu hộ gia đình
10.1 Nhóm mức sống:
Hộ nghèo: Hộ cận nghèo: Hộ trung bình: Hộ khá:
10.2. Sinh kế chủ yếu:
Thuần nông/ngư: Phi nông nghiệp: Đi làm công: Công chức viên chức:
10.3. Loại hình kinh tế mà gia đình có vốn sở hữu hay cổ phần
Hộ gia đình nông /ngư nghiệp: Hộ kinh doanh tự do:
Cty trách nhiệm hữu hạn: Công ty cổ phần:
10.4. Nhân khẩu trong hộ
Số người trong hộ: Số nữ: ………….. Số lao động: ………….. Số lao động nữ: ……....
Số người cao tuổi: trên 65: ………………. Số trẻ em (<18-): ……………………………..
Số người đang đi học: ……………..…trong đó học nghề ……..… Trung cấp trở lên: ….…
Số lao động đang ở nước ngoài…… Trong đó nữ: …Số lao động đã về: … Trong đó nữ: …
Xin vui lòng cho biết họ tên và số điện thoại để liên hệ khi cần: ……………………………………………………..
Trân trọng cảm ơn anh/chị đã giúp tìm hiểu về vấn đề LĐNN của cá nhân và gia đình!
4.3. Phiếu phỏng vấn linh hoạt với người lao động
PHIẾU PHỎNG VẤN NGƯỜI LAO ĐỘNG
Dự án "Thúc đẩy phụ nữ có việc làm xứng đáng, an toàn và hợp pháp khi tham gia thị trường lao động ở nước ngoài thông qua cải thiện tiếp cận công lý về lao động" (gọi tắt là QBWDF9) do Liên minh châu Âu tài trợ, được triển khai tại địa bàn 4 xã Nhân Trạch, Đức Trạch, Hải Phú và Thanh Trạch huyện Bố Trạch. Cuộc khảo sát nhằm thu thập thông tin ban đầu về thực trạng làm cơ sở theo dõi đánh giá hoạt động dự án.
Cuộc phỏng vấn này à hoàn toàn tự nguyện, anh/chị có thể yêu cầu dừng bất cứ lúc nào mà không bị ảnh hưởng gì. Việc lựa chọn đối tượng khảo sát là ngẫu nhiên. Tất cả các thông tin do anh/chị cung cấp sẽ được giữ kín, bảo mật, ẩn danh, chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu nêu trên và không được sử dụng vào mục đích nào khác.
Anh/chị có đồng ý tham gia cuộc khảo sát này không: Có
Không
1. Phiếu phỏng vấn linh hoạt cá nhân người lao động (câu chuyện)
1.1. Người mong muốn đi LĐNN
- Xin Anh/chị giới thiệu chung về bản thân
- Xin anh chị giới thiệu chung về gia đình?
- Điều gì thúc đẩy anh chị tham gia LĐNN? Anh/chị và gia đình có lợi thế gì để tham gia XKLD?
- Anh chị mong đợi gì ở việc tham gia LĐNN?
- Những gì phải đánh đổi khi anh/chị tham gia LĐNN? Tại sao anh chị lại đánh đổi?
- Anh/chị có những cản trở (rào cản) gì khi tham gia LĐNN? Anh chị đã vượt qua hay định vượt qua thế nào?
- Những điều (rủi ro) gì mà anh chị lo ngại khi tham gia LĐNN? Anh chị phòng ngừa như thế nào?
- Thế nào là một công ty (nước LĐNN) tốt? Anh chị tìm hiểu và lựa chọn như thế nào?
- Thế nào là nghề tốt với anh chị khi LĐNN? Anh chị chọn và học nghề đó như thế nào?
- Khi một (hoặc hai lao động) đi LĐNN, anh chị có kế hoạch thu xếp thế nào cho gia đình?
- Gia đình anh/chị quyết định vợ hay chồng đi LĐNN? Anh/chị đã cân nhắc điều ấy thế nào?
- Anh chị chọn công ty môi giới như thế nào? Họ có gì làm anh chị hài lòng/chưa hài long?
- Xin anh chị cho biết những con đường LĐNN nào không chính thức không? Chi phí và lợi ích được cân nhắc thế nào khi xem xét khả năng này?
1.2. Người đi XKLD trở về
[Cũng hỏi các câu giống như với người có ý định]
- Anh/chị hài lòng với kết quả của đợt đi LĐNN của mình ở mức nào? Tại sao lại như vậy?
- Xét về kinh tế (thu nhập), anh chị hài lòng ở mức độ nào? Có gì khác với dự kiến? Tại sao ?
- Quan hệ gia đình sau khi LĐNN trở về anh chị hài lòng ở mức nào? Có gì khác với dự kiến? Tại sao?
- Anh chị đánh giá về việc chuẩn bị LĐNN trước khi đi để làm việc thế nào? Có những gì cần phải cải thiện?
- Có những vấn đề gì về quan hệ lao động với người xử dụng lao động và công ty môi giới theo anh cần phải được cải thiện? Các quy định về pháp luật cần phải được cải thiện thế nào?
- Từ góc nhìn của mình, anh/chị thấy các công ty môi giới LĐNN có điểm mạnh yếu gì? Anh/chị muốn khuyên những người đi sau những gì?
- Điều gì khiến người LĐNN bỏ ra “làm ngoài”? Lợi ích và cái giá phải trả khi “làm ngoài” như vậy?
- Anh/chị có thu xếp LĐNN lần nữa không? Tại sao có hoặc không?
1.3. Người đang LĐ ở NN
- Xin Anh/chị giới thiệu chung về bản thân
- Xin anh chị giới thiệu chung về gia đình?
- Điều gì thúc đẩy anh chị tham gia LĐNN? Anh/chị và gia đình có lợi thế gì để tham gia XKLD?
- Anh chị mong đợi gì ở việc tham gia LĐNN?
- Những gì phải đánh đổi khi anh/chị tham gia LĐNN? Tại sao anh chị lại đánh đổi?
- Anh/chị có những cản trở (rào cản) gì khi tham gia LĐNN? Anh chị đã vượt qua hay định vượt qua thế nào?
- Những điều (rủi ro) gì mà anh chị lo ngại khi tham gia LĐNN? Anh chị phòng ngừa như thế nào?
- Thế nào là một công ty (nước LĐNN) tốt? Anh chị tìm hiểu và lựa chọn như thế nào?
- Thế nào là nghề tốt với anh chị khi LĐNN? Anh chị chọn và học nghề đó như thế nào?
- Khi một (hoặc hai lao động) đi LĐNN, anh chị có kế hoạch thu xếp thế nào cho gia đình?
- Gia đình anh/chị quyết định vợ hay chồng đi LĐNN? Anh/chị đã cân nhắc điều ấy thế nào?
- Anh chị chọn công ty môi giới như thế nào? Họ có gì làm anh chị hài lòng/chưa hài long?
- Xin anh chị cho biết những con đường LĐNN nào không chính thức không? Chi phí và lợi ích được cân nhắc thế nào khi xem xét khả năng này?
- Anh/chị hài lòng với kết quả của đợt đi LĐNN của mình ở mức nào? Tại sao lại như vậy?
- Xét về kinh tế (thu nhập), anh chị hài lòng ở mức độ nào? Có gì khác với dự kiến? Tại sao ?
- Quan hệ gia đình sau khi LĐNN trở về anh chị hài lòng ở mức nào? Có gì khác với dự kiến? Tại sao?
- Anh chị đánh giá về việc chuẩn bị LĐNN trước khi đi để làm việc thế nào? Có những gì cần phải cải thiện?
- Có những vấn đề gì về quan hệ lao động với người xử dụng lao động và công ty môi giới theo anh cần phải được cải thiện? Các quy định về pháp luật cần phải được cải thiện thế nào?
- Từ góc nhìn của mình, anh/chị thấy các công ty môi giới LĐNN có điểm mạnh yếu gì? Anh/chị muốn khuyên những người đi sau những gì?
- Điều gì khiến người LĐNN bỏ ra “làm ngoài”? Lợi ích và cái giá phải trả khi “làm ngoài” như vậy?
- Anh/chị có thu xếp LĐNN lần nữa không? Tại sao có hoặc không?
- câu hỏi định tính với những người lao động di cư thuộc nhóm bất thường
1.4. Người đi LĐNN bất thường
• Anh/chị ở lại lao động ở dạng nào? Sau hợp đồng, sau đi học hay du lịch hay ở trại tị nạn?
- Anh chị tới nơi làm việc từ Việt Nam hay một (hai) nước trung gian? Là nước nào?
- Xin vui lòng cho biết những khó khăn, thách thức của cuộc sống trước khi có việc làm?
- Bằng cách nào mà anh chị có được công việc hiện tại? Những khoản chi nào đáng kể để có việc làm?
- So với công việc trước đó thì thu nhập hay quyền lợi của anh chị có gì khác?
- So với những người lao động đi theo hợp đồng với các công ty môi giới thì có gì giống nhau, khác nhau?
- Chủ thuê lao động có ích lợi gì khi thuê và xử dụng lao động không có công ty môi giới? Họ có rủi ro gì?
- Trước Covid:
- Anh/chị có khả năng dùng thu nhập giúp cải thiên gia đình ở mức nào?
- Anh/chị đã thanh toán các khoản vay nợ để ra đi ở mức nào?
- Nước sở tại họ có chính sách hỗ trợ hay “truy đuổi” người lao động “chui” như thế nào?
- Sau Covid/hiện tại:
- Anh/chị bị ảnh thưởng thế nào của COVID19?
- Bằng cách nào Anh/chị có thể chăm sóc/theo dõi học tập của con cái khi làm việc xa nhà?
- Nói chung anh chị hài lòng với việc công ăn việc làm của anh/chị hiện tại như thế nào? Tới đây có thể anh/chị có phương hướng gì mới?
- Anh/chị thấy con đường nào đi lao động ở nước ngoài là tốt nhất? Chi phí hiệu quả nhất? và An toàn nhất?
- Anh/chị có lời khuyên gì đang thu xếp đi lao động nước ngoài?
- Nếu muốn hồi hương, Anh/chị có ý kiến gì với nhà nước để có thể giúp những người lao động “ngoài lề” hay “bất thường”?
2. Câu hỏi gợi ý thảo luận nhóm người lao động
2.1. Nhóm mong muốn đi LĐNN
- Để tham gia LĐNN người trong làng cần có những điều kiện gì?
- Ý nghĩa của LĐNN với kinh tế gia đình?
- Dân làng thích đi làm những nghề gì nhất, vi sao?
- Dân làng thích đi những nước nào nhất vì sao?
- Những nước nào thích đi mà không đi được? Vì sao?
- Những hộ thế nào thì không thể nào tham gia LĐNN?
- So với các làng khác, điều gì thúc đẩy LĐNN?
- So với các làng khác, điều gì cản trở LĐNN?
- Thế nào là một công ty môi giới LĐNN tốt?
- Tại sao có lao động “Chui”? Xu hướng tăng hay giảm? Tại sao?
2.2. Nhóm đi LĐNN trở về
- Như thế nào là đi LĐNN thành công? Những gì làm cho việc này thành công? Hoàn cảnh nào làm LĐNN không thành công?
- Công việc nào khi LĐNN là tốt? Cần làm gì để có công việc tốt?
- So với lao động ngoài tỉnh, LĐNN có những ưu thế gì? Có những điểm gì thua kém?
- Những người lao động “ngoài”[18] ảnh hưởng đến những người làm đúng hợp đồng như thế nào?
- Có thể làm những gì để giảm hay loại bỏ tình trạng lao động ngoài?
- Người LĐNN trở về có những khó khăn/thuận lợi gì khi tìm kiếm việc làm hay tổ chức cuộc sống mới?
- Công ty môi giới và cơ sở xử dụng lao động cần làm gì để bảo vệ quyền lợi của người LĐNN? Cơ quan đại diện của Việt Nam (Đại sứ quán) cần làm gì?
- Quan hệ giữa người LĐNN và cty môi giới có điều gì là hài lòng? Chưa hài lòng?
- Những vấn đề gì về quan hệ gia đình thường phát sinh trong và sau khi LĐNN trở về? Cách giải quyết thông thường là thế nào?
- Những quyền lợi có ý nghĩa của chương trình LĐNN? Nên điều chỉnh chính sách này như thế nào?
- Tại sao có lao động “Chui”? Xu hướng tăng hay giảm? Tại sao?
4.4. Phiếu tìm hiểu các tổ chức địa phương
Ngày thu thập tin: ……… tháng 11 năm 2020 Người thu thập tin: ……………….…
Dự án "Thúc đẩy phụ nữ có việc làm xứng đáng, an toàn và hợp pháp khi tham gia thị trường lao động ở nước ngoài thông qua cải thiện tiếp cận công lý về lao động" (gọi tắt là QBWDF9) do Liên minh châu Âu tài trợ, được triển khai tại địa bàn 4 xã Nhân Trạch, Đức Trạch, Hải Phú và Thanh Trạch huyện Bố Trạch. Cuộc khảo sát nhằm thu thập thông tin ban đầu về thực trạng để phục vụ tốt nhất nhu cầu của người lao động ở nước ngoài và làm cơ sở theo dõi đánh giá hoạt động dự án.
Cuộc phỏng vấn này là hoàn toàn tự nguyện, anh/chị có thể yêu cầu dừng bất cứ lúc nào mà không bị ảnh hưởng gì. Việc lựa chọn đối tượng khảo sát là ngẫu nhiên. Tất cả các thông tin cá nhân của anh/chị bảo mật, ẩn danh, chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu nêu trên.
Anh/chị có đồng ý tham gia cuộc khảo sát này không[19]? Có
Không
PHIẾU PHỎNG VẤN CÁC TỔ CHỨC ĐỊA PHƯƠNG
Lãnh đạo UBND/Cán bộ LĐTBXH/Cán bộ Tư pháp/HPN xã/Trưởng thôn
1. Giới thiệu chung về chương trình Lao động nước ngoài (LĐNN)
- Xin giới thiệu hoạt động LĐNN ở xã bắt đầu từ bao giờ và phát triển (lan tỏa) đến nay thế nào qua thời gian?
- Xin giới thiệu những thành công của chương trình LĐNN của địa phương trong ba năm vừa qua?
- Có thể làm những gì để tiếp tục có những thành công của chương trình?
- COVID-19 đã ảnh hưởng thế nào tới LĐNN và cần làm gì để thúc đấy LĐNN sau COVID?
- Chính quyền địa phương có những chính sách (vốn, dạy nghề) gì để hỗ trợ thúc đẩy LĐNN?
- Những thôn nào được coi là thành công nhất về LĐNN? Đặc điểm nào của thôn đã giúp họ thành công? Chính quyền và/hoặc các công ty môi giới đã có những hoạt động/chương trình gì để đưa đến những thành công đó?
- Những thôn nào được coi là kém thành công nhất về LĐNN? Đặc điểm nào của thôn đã làm họ như vậy? Lao động nữ có những thua thiệt gì đặc biệt trong các thôn chưa thành công? Vì sao?
2. Tác động của LĐNN
- Tác động (cả tích cực và tiêu cực) xét về kinh tế của LĐNN tới hộ gia đình? Tới cộng đồng thôn và xã?
- Tác động (cả tích cực và tiêu cực) xét về xã hội của LĐNN tới hộ gia đình? Tới cộng đồng thôn và xã?
- Tại sao xã/thôn mình nổi bật về LĐNN so với các xã khác ?
- Xã mình đã giải quyết vấn đề người lao động “làm việc bên ngoài” như thế nào?
- Chính sách “phạt” của nước nhận lao động ảnh hưởng thế nào tới LĐNN ở thôn/xã mình? Có gì đặc biệt hơn với lao động nữ?
3. Công ty cung cấp dịch vụ lao động nước ngoài, trung tâm dịch vụ việc làm
- Những cty nào hoạt động tích cực ở xã? Họ tuyển dụng lao động thế nào?
- Anh/chị hợp tác với họ ở những nội dung gì? Các hợp tác thế nào?
- Anh/chị nhìn nhận các công ty cung cấp dịch vụ lao động nước ngoài, trung tâm dịch vụ việc làm hoạt động ở xã mình có những điểm mạnh gì? Điểm yếu gì?
4. Những tình huống lao động đặc biệt
- Xin cho biết xu hướng lao động không chính thức của lao động (nam và nữ) tại địa phương (thôn/xã) ở nước ngoài? Các nước đến, cách đi, việc làm và các lợi ích và chi phí so với cách đi chính thức? Có gì khác biệt giữa lao động nam và nữ ?
- Các chương trình thúc đẩy lao động chính thức, hạn chế tiến tới xóa bỏ lao động không chính thức đã có những thành công gì? Những hạn chế gì?
- Các cơ quan chính quyền, các tổ chức tuyển dụng và các chương trình quốc tế đã có những biện pháp gì để bảo đảm hạn chế lao động không chính thức? Kết quả của những (ba năm) năm gần đây?
- Xin cho biết giải pháp “trừng phạt” của các nước nhận, ví dụ như Hàn Quốc không nhận lao động từ các địa phương có nhiều lao động “làm ngoài”có tác động thế nào tới người lao động (nam và nữ) ở địa phương?
- Anh/chị thấy những chương trình truyền thông về lao động ở nước ngoài của chính phủ và các tổ chức xã hội (ví dụ, CSAGA) có những thành công gì, và có thể cải thiện thế nào?
- Anh/chị có suy nghĩ (đánh giá) thế nào về vụ 39 người Việt Nam bị tử vong trong xe tải ở Anh Quốc cách đây tròn một năm?
Phụ lục 5. Các bảng biểu từ bộ số liệu khảo sát
5.1. Đặc điểm của mẫu điều tra
Bảng 5.1. Phân bổ mẫu điều tra theo các xã dự án và giới tính
|
| Tên xã |
Giới tính người trả lời |
| Nam |
Nữ |
Tổng |
| N |
N % Hàng |
N |
N % Hàng |
N |
N % Hàng |
| |
Nhân Trạch |
23 |
47% |
26 |
53% |
49 |
100% |
| Hải Phú |
27 |
36% |
48 |
64% |
75 |
100% |
| Đức Trạch |
24 |
40% |
36 |
60% |
60 |
100% |
| Thanh Trạch |
44 |
63% |
26 |
37% |
70 |
100% |
| Tổng |
118 |
46% |
136 |
54% |
254 |
100% |
Khảo sát đầu kỳ, 11'2020
Bảng 5.2. Phân bổ mẫu điều tra theo tình trạng hôn nhân
| |
| Tình trạng hôn nhân |
|
|
|
|
Tổng |
N % Hàng |
| |
Chưa kết hôn |
|
|
|
|
88 |
35% |
| Trong hôn nhân |
|
|
|
|
157 |
62% |
| Ly thân/ly hôn |
|
|
|
|
7 |
3% |
| Góa |
|
|
|
|
1 |
0% |
| Tổng |
|
|
|
|
254 |
100% |
Khảo sát đầu kỳ, 11'2020
Bảng 5.3. Phân bổ mẫu điều tra theo tình trạng LĐNN và giới tính
| Tình trạng lao động nước ngoài |
Giới tính người trả lời |
| Nam |
Nữ |
Tổng |
| N |
N % Hàng |
N |
N % Hàng |
N |
N % Hàng |
| |
Đang muốn LĐNN |
69 |
46% |
80 |
54% |
149 |
100% |
| Người đang LĐNN |
19 |
48% |
21 |
53% |
40 |
100% |
| Người đã LĐNN |
30 |
46% |
35 |
54% |
65 |
100% |
| Tổng |
118 |
46% |
136 |
54% |
254 |
100% |
Khảo sát đầu kỳ, 11'2020
Bảng 5.4. Phân bổ mẫu điều tra theo các xã dự án và nhóm tuổi
| Tình trạng lao động (nước ngoài) |
Nhóm tuổi |
| Dưới 24 |
Từ 24-30 |
Từ 30-45 |
Trên 45 |
Tổng |
| N |
N % Hàng |
N |
N % Hàng |
N |
N % Hàng |
N |
N % Hàng |
N |
N % Hàng |
| |
Đang muốn LĐNN |
31 |
21% |
48 |
32% |
67 |
45% |
3 |
2% |
149 |
100% |
| Người đang LĐNN |
9 |
23% |
16 |
40% |
14 |
35% |
1 |
3% |
40 |
100% |
| Người đã LĐNN |
4 |
6% |
16 |
25% |
33 |
51% |
12 |
18% |
65 |
100% |
| Tổng |
44 |
17% |
80 |
31% |
114 |
45% |
16 |
6% |
254 |
100% |
Khảo sát đầu kỳ, 11'2020
Bảng 5.5. Phân bổ mẫu điều tra theo các xã dự án và giới tính
| Tình trạng lao động (nước ngoài) |
Sinh kế chủ yếu hộ gia đình |
| Thuần nông/ngư |
Phi nông nghiệp |
Đi làm công |
Công chức viên chức |
| N |
N % Hàng |
N |
N % Hàng |
N |
N % Hàng |
N |
N % Hàng |
| |
Đang muốn LĐNN |
68 |
46% |
21 |
14% |
58 |
39% |
2 |
1% |
| Người đang LĐNN |
28 |
70% |
4 |
10% |
8 |
20% |
0 |
0% |
| Người đã LĐNN |
38 |
58% |
10 |
15% |
17 |
26% |
0 |
0% |
| Tổng |
134 |
53% |
35 |
14% |
83 |
33% |
2 |
1% |
Khảo sát đầu kỳ, 11'2020
Bảng 5.6. Mức sống của người tham gia điều tra ở các xã
| Đặc điểm mức sống hộ gia đình |
Tên xã |
| Nhân Trạch |
Hải Phú |
Đức Trạch |
Thanh Trạch |
| N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
| |
Hộ nghèo |
0 |
0% |
1 |
1% |
1 |
2% |
1 |
1% |
| Hộ cận nghèo |
2 |
4% |
1 |
1% |
1 |
2% |
3 |
4% |
| Hộ trung bình |
45 |
92% |
71 |
95% |
54 |
90% |
65 |
93% |
| Hộ khá |
2 |
4% |
2 |
3% |
4 |
7% |
1 |
1% |
JIFF/QBWDF, Điều tra Đầu kỳ
Bảng 5.7. Phân bổ mẫu điều tra theo các xã dự án và kinh nghiệm LĐNN
| Tên xã |
Lao động nước ngoài |
| Chưa LĐNN |
Đã LĐNN |
Tổng |
| N |
N % Hàng |
N |
N % Hàng |
N |
N % Hàng |
| |
Nhân Trạch |
28 |
57% |
21 |
43% |
49 |
100% |
| Hải Phú |
51 |
68% |
24 |
32% |
75 |
100% |
| Đức Trạch |
30 |
50% |
30 |
50% |
60 |
100% |
| Thanh Trạch |
39 |
56% |
31 |
44% |
70 |
100% |
| Tổng |
148 |
58% |
106 |
42% |
254 |
100% |
Khảo sát đầu kỳ, 11'2020
Bảng 5.8. Phân bổ mẫu điều tra theo học vấn và nhóm tuổi
| Nhóm tuổi |
Học vấn |
| Chưa hoàn thành PTCS |
Hoàn thành PTCS |
Hoàn thành PTTH |
Tổng |
| N |
N % Hàng |
N |
N % Hàng |
N |
N % Hàng |
N |
N % Hàng |
| |
Dưới 24 |
1 |
2% |
9 |
22% |
31 |
76% |
41 |
100% |
| Từ 24-30 |
5 |
7% |
14 |
20% |
50 |
72% |
69 |
100% |
| Từ 30-45 |
35 |
33% |
35 |
33% |
36 |
34% |
106 |
100% |
| Trên 45 |
10 |
63% |
4 |
25% |
2 |
13% |
16 |
100% |
| Tổng |
51 |
22% |
62 |
27% |
119 |
51% |
232 |
100% |
Khảo sát đầu kỳ, 11'2020
Bảng 5.9. Phân bổ mẫu điều tra theo học vấn và giới tính
| |
| Học vấn |
Giới tính người trả lời |
| Nam |
Nữ |
Tổng |
| N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
| |
Chưa hoàn thành PTCS |
23 |
21% |
28 |
23% |
51 |
22% |
| Hoàn thành PTCS |
30 |
27% |
32 |
27% |
62 |
27% |
| Hoàn thành PTTH |
59 |
53% |
60 |
50% |
119 |
51% |
| Tổng |
112 |
100% |
120 |
100% |
232 |
100% |
Khảo sát đầu kỳ, 11'2020
Bảng 5.10. Tham gia các đoàn thể chính trị-xã hội ở cơ sở
| |
|
Tham gia tổ chức cơ sởa |
|
| Nhóm tuổi |
HND |
HPN |
Hội cựu chiến binh |
Đoàn thanh niên |
CLB HPN/HND |
Tổng |
|
| |
Dưới 24 |
1 |
3 |
0 |
23 |
0 |
27 |
| |
Từ 24-30 |
2 |
20 |
0 |
35 |
0 |
51 |
| |
Từ 30-45 |
22 |
41 |
1 |
34 |
2 |
78 |
| |
Trên 45 |
11 |
8 |
3 |
0 |
0 |
14 |
| Tổng |
36 |
72 |
4 |
92 |
2 |
170 |
| |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Khảo sát đầu kỳ, 11'2020
Bảng 5.11. Mức độ phổ biến của các mạng xã hội trong các nhóm tuổi
| Nhóm tuổi |
Xử dụng mạng xã hộia |
Tổng |
| Facebook |
Zalo |
Tiktok |
Youtube |
| |
Dưới 24 |
N |
44 |
28 |
15 |
23 |
44 |
| %trong Nhóm tuổi |
100.0% |
63.6% |
34.1% |
52.3% |
|
| % của Tổng |
17.7% |
11.3% |
6.0% |
9.3% |
17.7% |
| Từ 24-30 |
N |
80 |
60 |
21 |
33 |
80 |
| %trong Nhóm tuổi |
100.0% |
75.0% |
26.3% |
41.3% |
|
| % của Tổng |
32.3% |
24.2% |
8.5% |
13.3% |
32.3% |
| Từ 30-45 |
N |
108 |
74 |
19 |
29 |
109 |
| %trong Nhóm tuổi |
99.1% |
67.9% |
17.4% |
26.6% |
|
| % của Tổng |
43.5% |
29.8% |
7.7% |
11.7% |
44.0% |
| Trên 45 |
N |
14 |
8 |
0 |
1 |
15 |
| %trong Nhóm tuổi |
93.3% |
53.3% |
0.0% |
6.7% |
|
| % của Tổng |
5.6% |
3.2% |
0.0% |
0.4% |
6.0% |
| Tổng |
N |
246 |
170 |
55 |
86 |
248 |
| % của Tổng |
99.2% |
68.5% |
22.2% |
34.7% |
100.0% |
| Tỷ lệ và tổng được tính theo số người trả lời. |
- Giá trị của biến được đếm là 1.
|
5.2 Tiếp cận thị trường lao động nước ngoài
Bảng 5.12. Phân bổ nhóm lao động muốn đi LĐNN phân theo xã và giới tính
| Tên xã |
Giới tính người trả lời |
| Nam |
Nữ |
Tổng |
| N |
N % Hàng |
N |
N % Hàng |
N |
N % Hàng |
| |
Nhân Trạch |
16 |
50% |
16 |
50% |
32 |
100% |
| Hải Phú |
21 |
42% |
29 |
58% |
50 |
100% |
| Đức Trạch |
8 |
29% |
20 |
71% |
28 |
100% |
| Thanh Trạch |
24 |
62% |
15 |
38% |
39 |
100% |
| Tổng |
69 |
46% |
80 |
54% |
149 |
100% |
Khảo sát đầu kỳ, 11'2020
Bảng 5.13. Cách tìm hiểu thị trường lao động nước ngoài
| |
Nam |
|
Nữ |
|
Tổng |
|
| Cách tìm hiểu |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
| Tự tìm hiểu |
58 |
84% |
55 |
70% |
11 |
76% |
| Do bạn bè giới thiệu |
25 |
36% |
27 |
34% |
52 |
35% |
| Do người nhà giới thiệu |
14 |
0% |
24 |
30% |
38 |
26% |
| Do Công ty tuyển dụng cung cấp |
15 |
22% |
15 |
19% |
30 |
20% |
| Từ người môi giới |
10 |
14% |
3 |
4 |
13 |
9% |
| Từ nguồn khác |
1 |
1% |
0 |
0% |
1 |
1% |
| Khảo sát đầu kỳ, 11'2020 |
123 |
|
124 |
|
247 |
|
|
Bảng 5.14. Việc học nghề trong nam và nữ lao động mong muốn LĐNN
| Đã có học nghề |
Giới tính người trả lời |
| Nam |
Nữ |
Tổng |
| N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
| |
Không |
43 |
62% |
45 |
57% |
88 |
59% |
| Có |
26 |
38% |
34 |
43% |
60 |
41% |
Khảo sát đầu kỳ, 11'2020
Bảng 5.15. Phân bố các nghề được các ứng viên đi học
| Nghề học của nam |
N |
% |
|
Nghề học của nữ |
N |
% |
| Cơ khí, điện máy |
13 |
33% |
|
Chăm sóc cá nhân, làm đẹp |
32 |
63% |
| Sơn, mộc, xây dựng, lái xe |
7 |
18% |
|
May |
7 |
14% |
| Tàu biển, nghề cá |
6 |
15% |
|
Chế biến thực phẩm, nhà hàng |
4 |
8% |
| Hàn |
5 |
13% |
|
Ngoại ngữ |
2 |
4% |
| Khác: bếp, dịch vụ |
6 |
15% |
|
Khác |
6 |
12% |
| Ngoại ngữ |
3 |
8% |
|
Tổng |
51 |
100% |
| Tổng |
40 |
100% |
|
N= Số người học |
|
|
Bảng 5.16.Tự đánh giá về mức độ hiểu biết về phong tục tập quán
| Hiểu biết về TTLĐ phong tục, pháp luật |
Thời gian lao động ở nước ngoài |
| Chưa đi LĐNN |
Từ 1-2 năm |
Từ 3-5 năm |
Từ 5-8 năm |
Từ 9 năm + |
| N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
| |
Không đáng kế |
0 |
0% |
26 |
49% |
15 |
54% |
1 |
25% |
12 |
57% |
| Đáng kể |
0 |
0% |
15 |
28% |
9 |
32% |
3 |
75% |
5 |
24% |
| Kỹ càng |
0 |
0% |
5 |
9% |
1 |
4% |
0 |
0% |
2 |
10% |
| Không ý kiến |
0 |
0% |
7 |
13% |
3 |
11% |
0 |
0% |
2 |
10% |
JIFF/QBWDF, Điều tra Đầu kỳ, 11'2020
Bảng 5.17. Tự đánh giá về mức độ hiểu biết về tiêu chuẩn tuyển dụng
| Thời gian lao động ở nước ngoài |
Hiểu biết về tiêu chuẩn tuyển dụng |
| Không biết gì |
Có biết |
| N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
| |
Chưa đi LĐNN |
0 |
0% |
0 |
0% |
| Từ 1-2 năm |
9 |
56% |
44 |
49% |
| Từ 3-5 năm |
4 |
25% |
24 |
27% |
| Từ 5-8 năm |
0 |
0% |
4 |
4% |
| Từ 9 năm + |
3 |
19% |
17 |
20% |
| |
Tổng |
16 |
|
89 |
|
JIFF/QBWDF, Điều tra Đầu kỳ, 11'2020
|
Bảng 5.18. Xác nhận chưa đọc các luật lao động, dân sự, bình đẳng giới
| |
Chưa đọc các luật trên |
| Sai |
Đúng |
| N |
N % Hàng |
N |
N % Hàng |
| Nhóm tuổi |
Dưới 24 |
13 |
42% |
18 |
58% |
| Từ 24-30 |
27 |
56% |
21 |
44% |
| Từ 30-45 |
27 |
40% |
40 |
60% |
| Trên 45 |
1 |
33% |
2 |
67% |
| Giới tính người trả lời |
Nam |
34 |
49% |
35 |
51% |
| Nữ |
34 |
43% |
46 |
58% |
Khảo sát đầu kỳ, 11'2020
Bảng 5.19. Các nguồn vay của những người muốn LĐN
| Các nguồn có thể vay LĐNN |
Nam |
|
Nữ |
|
| |
N |
N % Hàng |
N |
N % Hàng |
| Ngân hàng thương mại |
32 |
58% |
23 |
42% |
| NH CSXH |
29 |
49% |
30 |
51% |
| Bạn bè |
25 |
41% |
36 |
59% |
| HTX tín dụng tại xã |
15 |
52% |
14 |
48% |
| Công ty cung cấp LĐNN |
7 |
70% |
3 |
30% |
| TDTN lãi cao |
4 |
67% |
2 |
33% |
| Khảo sát đầu kỳ, 11'2020, N=149 |
Bảng 5.20. Các yếu tố rào cản tham gia LĐNN theo giới tính
| Rào cản để tham gia LĐNN |
Nam |
|
Nữ |
|
Tổng |
|
| N=146 |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
| Tiền vốn chi tham gia TTLĐ |
37 |
55% |
42 |
53% |
79 |
54% |
| Khả năng học tiếng nước ngoài tham gia TTLĐ |
33 |
49% |
40 |
51% |
73 |
50% |
| Thiếu tay nghề khi tham gia TTLĐ |
24 |
36% |
30 |
38% |
54 |
37% |
| Thiếu thông tin thị trường lao động khi tham gia TTLĐ |
18 |
27% |
20 |
25% |
38 |
26% |
| Học vấn thấp khi tham gia TTLĐ |
13 |
19% |
16 |
20% |
29 |
20% |
| Trách nhiệm chăm sóc người thân khi tham gia TTLĐ |
6 |
9% |
4 |
5% |
10 |
7% |
| |
|
|
|
|
|
|
Bảng 5.21. Các yếu tố rào cản tham gia LĐNN theo nhóm tuổi
| |
Dưới 24 |
Từ 24-30 |
Từ 30-45 |
Trên 45 |
| |
N |
N % Hàng |
N |
N % Hàng |
N |
N % Hàng |
N |
N % Hàng |
| Khả năng học tiếng nước ngoài tham gia TTLĐ |
15 |
21% |
22 |
30% |
35 |
48% |
1 |
1% |
| Tiền vốn chi tham gia TTLĐ |
15 |
19% |
29 |
37% |
32 |
41% |
3 |
4% |
| Thiếu tay nghề khi tham gia TTLĐ |
9 |
17% |
19 |
35% |
25 |
46% |
1 |
2% |
| Thiếu thông tin thị trường lao động khi tham gia TTLĐ |
5 |
13% |
17 |
45% |
14 |
37% |
2 |
5% |
| Học vấn thấp khi tham gia TTLĐ |
4 |
14% |
7 |
24% |
18 |
62% |
0 |
0% |
| Trách nhiệm chăm sóc người thân khi tham gia TTLĐ |
1 |
10% |
4 |
40% |
5 |
50% |
0 |
0% |
Khảo sát đầu kỳ, 11'2020
|
|
|
|
|
|
|
|
Bảng 3.1.8. Tham khảo ý kiến khi muốn LĐNN
| Tham khảo ý kiến khi có ý muốn LĐNN |
Nam |
|
Nữ |
|
Tổng |
|
| |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
| Người thân,bạn bè đã đi LĐNN |
52 |
75% |
70 |
88% |
122 |
82% |
| Người thân,bạn bè chưa đi LĐNN |
21 |
30% |
24 |
30% |
45 |
30% |
| Đại điện cty môi giới tại xã |
14 |
20% |
16 |
20% |
30 |
20% |
| Cán bộ LĐTBXH xã |
12 |
17% |
10 |
13% |
22 |
15% |
| Cán bộ tư pháp xã |
4 |
6% |
12 |
15% |
16 |
11% |
| Chi hội trưởng PN |
2 |
3% |
6 |
8% |
8 |
5% |
| Chi hội trưởng Nông dân |
3 |
4% |
4 |
5% |
7 |
5% |
| Trưởng thôn |
4 |
6% |
2 |
3% |
6 |
4% |
| Người Khác |
1 |
1% |
1 |
1% |
2 |
1% |
| Khảo sát đầu kỳ, 11'2020 |
|
|
|
|
|
|
| |
Bảng 3.2.1a Nhóm tuổi và giới tính những người đang LĐNN |
|
| |
Nhóm tuổi |
Giới tính người trả lời |
|
| |
Nam |
Nữ |
Tổng |
|
| |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
|
| |
|
Dưới 24 |
2 |
11% |
7 |
33% |
9 |
23% |
|
| |
Từ 24-30 |
11 |
58% |
5 |
24% |
16 |
40% |
|
| |
Từ 30-45 |
6 |
32% |
8 |
38% |
14 |
35% |
|
| |
Trên 45 |
0 |
0% |
1 |
5% |
1 |
3% |
|
| |
Tổng |
19 |
100% |
21 |
100% |
40 |
100% |
|
| |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Khảo sát đầu kỳ, 11'2020
Trong những người đang LĐNN (Bảng 3.2.1.b), có 40% đang ở hai năm đầu, 23% ở những 3-5 năm và 38% đã làm việc ở nước ngoài trên 5 năm.
| Bảng 3.2.1b. Thời gian ở nước ngoài của những người đang LĐNN |
| Thời gian LĐNN, năm |
Giới tính người trả lời |
| Nam |
Nữ |
Tổng |
| N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
| |
Từ 1-2 |
11 |
58% |
5 |
24% |
16 |
40% |
| Từ 3-5 |
2 |
11% |
7 |
33% |
9 |
23% |
| Trên 5 |
6 |
32% |
9 |
43% |
15 |
38% |
| Tổng |
19 |
100% |
21 |
100% |
40 |
100% |
Khảo sát đầu kỳ, 11'2020
Bảng 3.3.2. a. Nhận định mức độ thành công về kết quả chuyến đi lao động ở NN |
| Sau chuyển LĐNN so với mong đợi ban đầu đạt ở mức độ |
Giới tính người trả lời |
| Nam |
Nữ |
Tổng |
| N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
| |
Thấp xa mong đợi |
10 |
33% |
6 |
18% |
16 |
25% |
| Thấp phần nào |
2 |
7% |
1 |
3% |
3 |
5% |
| Cơ bản đạt đúng mức |
9 |
30% |
12 |
36% |
21 |
33% |
| Vượt phần nào |
5 |
17% |
4 |
12% |
9 |
14% |
| Vượt xa mong đợi |
3 |
10% |
6 |
18% |
9 |
14% |
| Không có ý kiến |
1 |
3% |
4 |
12% |
5 |
8% |
| Tổng |
30 |
100% |
33 |
100% |
63 |
100% |
| JIFF/QBWDF, Điều tra Đầu kỳ, 11'2020 |
5.3. Kết quả và tác động tới mức sống gia đình và kinh tế cộng đồng
Bảng 5.23. Nhận định về mức độ thành công của LĐNN ở các xã
|
| Sau chuyển LĐNN so với mong đợi ban đầu đạt ở mức |
Tên xã |
| Nhân Trạch |
Hải Phú |
Đức Trạch |
Thanh Trạch |
|
| N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
| |
Thấp xa mong đợi |
1 |
8% |
4 |
21% |
0 |
0% |
11 |
55% |
| Thấp phần nào |
1 |
8% |
1 |
5% |
0 |
0% |
1 |
5% |
| Cơ bản đạt đúng mức |
5 |
38% |
7 |
37% |
5 |
45% |
4 |
20% |
| Vượt phần nào |
5 |
38% |
1 |
5% |
1 |
9% |
2 |
10% |
| Vượt xa mong đợi |
1 |
8% |
6 |
32% |
2 |
18% |
0 |
0% |
| Không có ý kiến |
0 |
0% |
0 |
0% |
3 |
27% |
2 |
10% |
| Tổng |
13 |
100% |
19 |
100% |
11 |
100% |
20 |
100% |
| JIFF/QBWDF, Điều tra Đầu kỳ, 11'2020 |
| |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Bảng 5.24. Nhận định về mức độ thành công của LĐNN theo các nhóm tuổi
| |
| Sau chuyển LĐNN so với mong đợi ban đầu đạt ở mức độ |
Nhóm tuổi |
| Dưới 24 |
Từ 24-30 |
Từ 30-45 |
Trên 45 |
| N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
| |
Thấp xa mong đợi |
1 |
25% |
6 |
38% |
5 |
16% |
4 |
33% |
| Thấp phần nào |
0 |
0% |
0 |
0% |
2 |
6% |
1 |
8% |
| Cơ bản đạt đúng mức |
2 |
50% |
7 |
44% |
8 |
26% |
4 |
33% |
| Vượt phần nào |
0 |
0% |
2 |
13% |
6 |
19% |
1 |
8% |
| Vượt xa mong đợi |
0 |
0% |
0 |
0% |
7 |
23% |
2 |
17% |
| Không có ý kiến |
1 |
25% |
1 |
6% |
3 |
10% |
0 |
0% |
| Tổng |
4 |
100% |
16 |
100% |
31 |
100% |
12 |
100% |
| JIFF/QBWDF, Điều tra Đầu kỳ, 11'2020 |
Bảng 5.25. Đánh giá mức độ đạt mục tiêu thu nhập của người LĐNN trở về
- Nhận định đạt mục tiêu thu nhập khi kết thúc HĐ
|
Giới tính người trả lời |
| Nam |
Nữ |
Tổng |
| N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
|
| |
Hoàn toàn không đồng ý |
8 |
28% |
6 |
18% |
14 |
23% |
|
| Không đồng ý một phần |
0 |
0% |
4 |
12% |
4 |
6% |
|
| Không có ý kiến |
5 |
17% |
1 |
3% |
6 |
10% |
|
| Đồng ý một phần |
4 |
14% |
4 |
12% |
8 |
13% |
|
| Hoàn toàn đồng ý |
12 |
41% |
17 |
52% |
29 |
47% |
|
| Không biết |
0 |
0% |
1 |
3% |
1 |
2% |
|
| B. Nhận định thu nhập lớn hơn hẳn so với LĐ trong nước |
Giới tính người trả lời |
| Nam |
Nữ |
Tổng |
| N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
|
| |
|
Hoàn toàn không đồng ý |
7 |
23% |
5 |
15% |
12 |
19% |
| |
Không đồng ý một phần |
0 |
0% |
1 |
3% |
1 |
2% |
| |
Không có ý kiến |
4 |
13% |
3 |
9% |
7 |
11% |
| |
Đồng ý một phần |
2 |
7% |
4 |
12% |
6 |
10% |
| |
Hoàn toàn đồng ý |
16 |
53% |
19 |
58% |
35 |
56% |
| |
Không biết |
1 |
3% |
1 |
3% |
2 |
3% |
| Bảng 5.26. Dư nợ của các nhóm lao động |
|
| |
Tình trạng lao động (nước ngoài) |
|
| |
Đang muốn LĐNN |
Người đang LĐNN |
Người đã LĐNN |
|
| Có dư nợ tại |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
|
| Ngân hàng TM |
16 |
13% |
19 |
70% |
21 |
36% |
|
| Ngân hàng CSXH |
24 |
19% |
1 |
4% |
8 |
14% |
|
| HTX TD xã |
10 |
8% |
1 |
4% |
7 |
12% |
|
| Quỹ HTPNPT |
13 |
10% |
1 |
4% |
5 |
8% |
|
| Tư nhân lãi cao |
1 |
1% |
0 |
0% |
3 |
5% |
|
| Tổ chức/cá nhân khác |
2 |
2% |
0 |
0% |
0 |
0% |
|
| JIFF/QBWDF, Điều tra đầu kỳ |
|
|
|
|
|
| |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Bảng 5.27. Tác động tới trả các món nợ để đi LĐNN
| |
| Nhận định đã xong đúng hạn món vay đi LĐNN |
Giới tính người trả lời |
| Nam |
Nữ |
Tổng |
| N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
| |
Hoàn toàn không đồng ý |
5 |
17% |
9 |
27% |
14 |
22% |
| Không đồng ý một phần |
1 |
3% |
0 |
0% |
1 |
2% |
| Không có ý kiến |
2 |
7% |
0 |
0% |
2 |
3% |
| Đồng ý một phần |
3 |
10% |
2 |
6% |
5 |
8% |
| Hoàn toàn đồng ý |
18 |
60% |
21 |
64% |
39 |
62% |
| Không biết |
1 |
3% |
1 |
3% |
2 |
3% |
| Tổng |
30 |
100% |
33 |
100% |
63 |
100% |
QBWDF9, Khảo sát đầu kỳ, 11'2020
Bảng 5.28. Quốc gia nơi làm việc của những người đang LĐNN
| Nước đang làm |
Nam |
|
Nữ |
|
Tổng |
|
| việc |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
| Hàn Quốc |
9 |
47% |
11 |
52% |
20 |
50% |
| Nhật Bản |
2 |
11% |
3 |
14% |
5 |
13% |
| Hai nước trở lên |
4 |
21% |
1 |
5% |
5 |
13% |
| Đài Loan |
2 |
11% |
2 |
10% |
4 |
10% |
| Đức |
0 |
0% |
2 |
10% |
2 |
5% |
| Canada |
1 |
5% |
1 |
5% |
2 |
5% |
| Úc |
1 |
5% |
1 |
5% |
2 |
5% |
| Khảo sát đầu kỳ, 11'2020 |
|
|
|
|
Bảng 5.29. Mức hài lòng với toàn bộ quá trình tuyển dụng và đào tạo
| |
Nam |
|
Nữ |
|
Tổng |
|
| Nhận định của LĐNN |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
| Hoàn toàn không đồng ý |
1 |
6% |
1 |
5% |
2 |
5% |
| Không đồng ý một phần |
1 |
6% |
2 |
10% |
3 |
8% |
| Không có ý kiến |
1 |
6% |
2 |
10% |
3 |
8% |
| Đồng ý một phần |
8 |
47% |
9 |
43% |
17 |
45% |
| Hoàn toàn đồng ý |
6 |
35% |
6 |
29% |
12 |
32% |
| Không biết |
0 |
0% |
1 |
5% |
1 |
3% |
| |
17 |
100% |
21 |
100% |
38 |
100% |
| Khảo sát đầu kỳ, 11'2020 |
|
|
|
|
|
Bảng 5.30. Rào cản khi tham gia LĐNN
| |
Nam |
|
Nữ |
|
Tổng |
|
| N=40 |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
| Khả năng học tiếng nước ngoài tham gia TTLĐ |
16 |
84% |
17 |
81% |
33 |
83% |
| Tiền vốn chi để tham gia TTLĐ |
10 |
53% |
6 |
29% |
16 |
40% |
| Trách nhiệm chăm sóc người thân khi tham gia TTLĐ |
3 |
16% |
4 |
19% |
7 |
18% |
| Thiếu tay nghề khi tham gia TTLĐ |
2 |
11% |
4 |
19% |
6 |
15% |
| Thiếu thông tin thị trường lao động khi tham gia TTLĐ |
3 |
16% |
3 |
14% |
6 |
15% |
| Học vấn thấp khi tham gia TTLĐ |
3 |
16% |
2 |
10% |
5 |
13% |
| Khảo sát đầu kỳ, 11'2020 |
|
|
|
|
|
Bảng 5.31. Tình trạng vay nợ của người đang LĐNN, N= số người
| |
|
Thời gian LĐNN, năm |
| |
|
Từ 1-2 |
Từ 3-5 |
Trên 5 |
Tổng |
| Mức dư nợ của các TCTD chính thức |
Dưới 100 triệu |
3 |
0 |
1 |
4 |
| 100-250 triệu |
4 |
3 |
2 |
9 |
| 250-500 triệu |
4 |
1 |
0 |
5 |
| 500 - 1 tỷ |
0 |
1 |
1 |
2 |
| Trên 1 tỷ |
1 |
0 |
0 |
1 |
| Tổng |
12 |
5 |
4 |
21 |
| Mức dư nợ tại TCTD phi chính thức |
Dưới 100 triệu |
1 |
2 |
1 |
4 |
| 100-250 triệu |
0 |
0 |
1 |
1 |
| 250-500 triệu |
0 |
0 |
1 |
1 |
| 500 - 1 tỷ |
0 |
0 |
0 |
0 |
| Trên 1 tỷ |
0 |
0 |
0 |
0 |
| Tổng |
1 |
2 |
3 |
6 |
Khảo sát đầu kỳ, 11'2020
Bảng 5.32. Tham gia truyền thông và tập huấn về pháp luật
| |
|
| |
|
| |
Đã dự tập huấn hoặc buổi truyền thông |
Giới tính người trả lời |
| |
Nam |
Nữ |
Tổng |
| |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
| |
|
Chưa dự |
12 |
63% |
16 |
76% |
28 |
70% |
| |
Một vài lần |
7 |
37% |
4 |
19% |
11 |
28% |
| |
Nhiều lần |
0 |
0% |
1 |
5% |
1 |
3% |
| |
Rất nhiều lần |
0 |
0% |
0 |
0% |
0 |
0% |
| |
Tổng |
19 |
100% |
21 |
100% |
40 |
100% |
| |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Bảng 5.33. Mức độ hài lòng với toàn bộ quá trình LĐNN
| |
| Nhận định Hoàn toàn hài lòng với toàn bộ quá trình làm việc khi LĐNN |
Giới tính người trả lời |
| Nam |
Nữ |
Tổng |
| N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
| |
Hoàn toàn không đồng ý |
0 |
0% |
1 |
5% |
1 |
3% |
| Không đồng ý một phần |
1 |
5% |
2 |
10% |
3 |
8% |
| Không có ý kiến |
1 |
5% |
1 |
5% |
2 |
5% |
| Đồng ý một phần |
10 |
53% |
6 |
29% |
16 |
40% |
| Hoàn toàn đồng ý |
7 |
37% |
11 |
52% |
18 |
45% |
| Không biết |
0 |
0% |
0 |
0% |
0 |
0% |
5. 4. Đánh giá về quá trình lao động ở nước ngoài
Bảng 5.34. Đánh giá về mức độ tuân thủ hợp đồng LDNN
| |
| Nhận định HĐLĐ luôn được công ty môi giới và chủ tuân thủ |
Giới tính người trả lời |
| Nam |
Nữ |
Tổng |
| N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
| |
Hoàn toàn không đồng ý |
1 |
5% |
1 |
5% |
2 |
5% |
| Không đồng ý một phần |
1 |
5% |
1 |
5% |
2 |
5% |
| Không có ý kiến |
1 |
5% |
2 |
10% |
3 |
8% |
| Đồng ý một phần |
7 |
37% |
3 |
14% |
10 |
25% |
| Hoàn toàn đồng ý |
9 |
47% |
13 |
62% |
22 |
55% |
| Không biết |
0 |
0% |
1 |
5% |
1 |
3% |
Bảng 5.35. Nhận định về bối cảnh cơ sở làm việc ở nước ngoài
| |
| |
|
| Nam |
Nữ |
Tổng |
| N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
| Nhận định nơi LV, giờ LV phù hợp với HĐLĐ |
Hoàn toàn không đồng ý |
0 |
0% |
1 |
5% |
1 |
3% |
| Không đồng ý một phần |
0 |
0% |
2 |
10% |
2 |
5% |
| Không có ý kiến |
2 |
11% |
1 |
5% |
3 |
8% |
| Đồng ý một phần |
6 |
32% |
6 |
29% |
12 |
30% |
| Hoàn toàn đồng ý |
11 |
58% |
11 |
52% |
22 |
55% |
| Không biết |
0 |
0% |
0 |
0% |
0 |
0% |
| Nhận định tiền công, tiền lương, phụ cấp phù hợp với HĐLĐ |
Hoàn toàn không đồng ý |
0 |
0% |
1 |
5% |
1 |
3% |
| Không đồng ý một phần |
1 |
5% |
1 |
5% |
2 |
5% |
| Không có ý kiến |
1 |
5% |
2 |
10% |
3 |
8% |
| Đồng ý một phần |
4 |
21% |
7 |
33% |
11 |
28% |
| Hoàn toàn đồng ý |
13 |
68% |
10 |
48% |
23 |
58% |
| Không biết |
0 |
0% |
0 |
0% |
0 |
0% |
| Nhận định tiền công, thưởng, phụ cấp LV của NLĐNN bình đẳng với LĐ bản xứ |
Hoàn toàn không đồng ý |
2 |
11% |
3 |
14% |
5 |
13% |
| Không đồng ý một phần |
1 |
5% |
0 |
0% |
1 |
3% |
| Không có ý kiến |
0 |
0% |
0 |
0% |
0 |
0% |
| Đồng ý một phần |
6 |
32% |
6 |
29% |
12 |
30% |
| Hoàn toàn đồng ý |
10 |
53% |
12 |
57% |
22 |
55% |
| Không biết |
0 |
0% |
0 |
0% |
0 |
0% |
Bảng 5.36. Nhận định về các dạng bạo lực thể xác và tinh thần nơi làm việc
| |
Giới tính người trả lời |
| Nam |
Nữ |
Tổng |
| N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
| NLĐNN chưa bị bạo lực thể xác nơi làm việc |
Hoàn toàn không đồng ý |
0 |
0% |
0 |
0% |
0 |
0% |
| Không đồng ý một phần |
0 |
0% |
1 |
5% |
1 |
3% |
| Không có ý kiến |
1 |
5% |
0 |
0% |
1 |
3% |
| Đồng ý một phần |
1 |
5% |
1 |
5% |
2 |
5% |
| Hoàn toàn đồng ý |
17 |
89% |
19 |
90% |
36 |
90% |
| Không biết |
0 |
0% |
0 |
0% |
0 |
0% |
| NLĐNN chưa bị bạo lực tin thần nơi làm việc |
Hoàn toàn không đồng ý |
2 |
11% |
1 |
5% |
3 |
8% |
| Không đồng ý một phần |
3 |
16% |
3 |
14% |
6 |
15% |
| Không có ý kiến |
0 |
0% |
0 |
0% |
0 |
0% |
| Đồng ý một phần |
6 |
32% |
4 |
19% |
10 |
25% |
| Hoàn toàn đồng ý |
8 |
42% |
13 |
62% |
21 |
53% |
| Không biết |
0 |
0% |
0 |
0% |
0 |
0% |
| Bảng 5.36. Nhận định các dạng bạo lực tình dục nơi làm việc |
| Người LĐNN chưa bị bạo lực tình dục nơi làm việc |
Giới tính người trả lời |
| Nam |
Nữ |
Tổng |
| N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
| |
Hoàn toàn không đồng ý |
0 |
0% |
1 |
5% |
1 |
3% |
|
| Không đồng ý một phần |
2 |
11% |
0 |
0% |
2 |
5% |
|
| Không có ý kiến |
1 |
5% |
0 |
0% |
1 |
3% |
|
| Đồng ý một phần |
3 |
16% |
1 |
5% |
4 |
10% |
|
| Hoàn toàn đồng ý |
13 |
68% |
19 |
90% |
32 |
80% |
|
| Không biết |
0 |
0% |
0 |
0% |
0 |
0% |
|
| |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Bảng 5.37. Thống kê về nhân khẩu và LĐNN ở các thôn xã Nhân Trạch
| Thôn |
Số hộ |
Số khẩu |
Lao động |
LĐNN |
LĐNN nữ |
| Bắc Hồng |
172 |
675 |
692 |
120 |
20 |
| Nhân Tiến |
250 |
1250 |
627 |
201 |
32 |
| Nhân Hải |
241 |
1013 |
630 |
220 |
50 |
| Nhân Quang |
327 |
1520 |
740 |
225 |
70 |
| Nam Hồng |
237 |
1012 |
650 |
182 |
80 |
| Nhân Khải |
230 |
1136 |
750 |
276 |
50 |
| Nhân Đức |
299 |
1293 |
700 |
301 |
84 |
| Nhân Năm |
282 |
1425 |
730 |
330 |
85 |
| Xã Nhân Trạch |
2038 |
9324 |
5519 |
1855 |
471 |
| Trung bình một hộ |
|
4.6 |
2.7 |
0.91 |
0.23 |
Bảng 5.38. Cơ cấu nhân khẩu và lao động xã ĐứcTrạch[20]
| Thôn |
Số hộ |
Số khẩu |
Lao động |
LĐNN |
| Đông Đức |
297 |
1406 |
860 |
70 |
| Thượng Đức |
380 |
1800 |
900 |
90 |
| Trung Đức |
240 |
1000 |
600 |
140 |
| Nam Đức |
545 |
2283 |
1100 |
135 |
| |
1462 |
6489 |
3460 |
435 |
| Trung bình một hộ |
|
3.2 |
1.7 |
0.21 |
Bảng 5.39. Nơi làm việc của người LĐNN đã trở về
| |
| Nước đã làm việc |
Giới tính người trả lời |
| Nam |
Nữ |
Tổng |
| N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
| |
Hàn Quốc |
13 |
43% |
4 |
13% |
17 |
27% |
| Đài Loan |
4 |
13% |
16 |
50% |
20 |
32% |
| Nhật Bản |
4 |
13% |
1 |
3% |
5 |
8% |
| Nga |
2 |
7% |
4 |
13% |
6 |
10% |
| Anh |
1 |
3% |
1 |
3% |
2 |
3% |
| Lào |
1 |
3% |
1 |
3% |
2 |
3% |
| Dubai |
1 |
3% |
0 |
0% |
1 |
2% |
| Hai nước trở lên |
4 |
13% |
3 |
9% |
7 |
11% |
| Trung quốc |
0 |
0% |
2 |
6% |
2 |
3% |
| Tổng |
30 |
100% |
32 |
100% |
62 |
100% |
QBWDF9, Khảo sát đầu kỳ, 11'2020
Bảng 5.40. Tác động tới phát triển các doanh nghiệp ở địa phương
| |
| Sinh kế chủ yếu hộ gia đình |
LĐNN trong gia đình |
| Không quen ai đã/đang đi LĐNN |
Có người trong gia đình đang hoặc đã đi LĐNN |
Tổng |
| N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
| |
Thuần nông/ngư |
23 |
51% |
41 |
51% |
64 |
51% |
| Phi nông nghiệp |
3 |
7% |
13 |
16% |
16 |
13% |
| Đi làm công |
19 |
42% |
25 |
31% |
44 |
35% |
| Công chức viên chức |
0 |
0% |
1 |
1% |
1 |
1% |
| Tổng |
45 |
100% |
80 |
100% |
125 |
100% |
Bảng 5.41. Loại hình doanh nghiệp ở cộng đồng
|
| Loại hình kinh tế hộ gia đình có vốn chủ sở hữu hoặc cổ phần |
LĐNN trong gia đình |
| Không quen ai đã/đang đi LĐNN |
Có người trong gia đình đang hoặc đã đi LĐNN |
Tổng |
| N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
| |
Hộ gia đình nông/ngư nghiệp |
26 |
58% |
59 |
75% |
85 |
69% |
| Hộ kinh doanh tự do |
19 |
42% |
18 |
23% |
37 |
30% |
| Cty trách nhiệm hữu hạn |
0 |
0% |
2 |
3% |
2 |
2% |
| Công ty cổ phần |
0 |
0% |
0 |
0% |
0 |
0% |
Bảng 5. 42. Người LĐNN trở về nhận định về cải thiện cuộc sống vật chất
| Nhận định LĐNN cải thiện mạnh mức sống như đk nhà ở, xe cộ, tiện nghi gia đình |
Giới tính người trả lời |
| Nam |
Nữ |
Tổng |
| N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
|
| |
Hoàn toàn không đồng ý |
3 |
10% |
5 |
15% |
8 |
13% |
|
| Không đồng ý một phần |
2 |
7% |
2 |
6% |
4 |
6% |
|
| Không có ý kiến |
5 |
17% |
2 |
6% |
7 |
11% |
|
| Đồng ý một phần |
4 |
13% |
6 |
18% |
10 |
16% |
|
| Hoàn toàn đồng ý |
16 |
53% |
18 |
55% |
34 |
54% |
|
| Tổng |
30 |
100% |
33 |
100% |
63 |
100% |
|
| |
| |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Bảng 5. 43. Nhận định của người LĐNN đã trở về về quan hệ gia đình
| |
| Nhận định quan hệ trong GĐ đi như cũ/tốt hơn khi trở về |
Giới tính người trả lời |
| Nam |
Nữ |
Tổng |
|
| N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
|
| |
Hoàn toàn không đồng ý |
1 |
3% |
4 |
12% |
5 |
8% |
|
| Không đồng ý một phần |
1 |
3% |
0 |
0% |
1 |
2% |
|
| Không có ý kiến |
3 |
10% |
2 |
6% |
5 |
8% |
|
| Đồng ý một phần |
3 |
10% |
1 |
3% |
4 |
6% |
|
| Hoàn toàn đồng ý |
21 |
72% |
25 |
76% |
46 |
74% |
|
| Không biết |
0 |
0% |
1 |
3% |
1 |
2% |
|
|
5.5. Lao động bất thường ở nước ngoài
Bảng 5.44. Ý định bỏ hợp đồng để làm ngoài với các nhóm LĐNN
| |
|
| Tình trạng lao động (nước ngoài) |
Có khi nào muốn bỏ hợp đồng để làm bên ngoài |
|
| Không |
Có |
|
| N |
N % Hàng |
N |
N % Hàng |
|
| |
Người đang LĐNN |
32 |
80% |
8 |
20% |
|
| Người đã LĐNN |
54 |
86% |
9 |
14% |
|
| Tổng |
86 |
83% |
17 |
17% |
|
| QBWDF9, Khảo sát đầu kỳ, 11'2020 |
|
| Bảng 5.45. Ý định bỏ hợp đồng để làm ngoài với các nhóm xếp theo thời gian LĐNN |
| Thời gian LĐNN |
Có khi nào muốn bỏ hợp đồng để làm bên ngoài |
| Không |
Có |
|
| N |
|
N |
|
N |
|
| |
|
|
|
|
|
|
|
| Từ 1-2 năm |
45 |
|
8 |
|
53 |
|
| Từ 3-5 năm |
24 |
|
4 |
|
28 |
|
| Trên 5 năm |
20 |
|
5 |
|
25 |
|
| Tổng |
90 |
|
17 |
|
107 |
|
| JIFF/QBWDF, Điều tra Đầu kỳ, 11'2020 |
| Bảng 5.46. Ý định bỏ hợp đồng để làm ngoài với các nhóm xếp theo giới tính |
|
| Giới tính người trả lời |
Có khi nào muốn bỏ hợp đồng để làm bên ngoài |
|
| Không |
Có |
Tổng |
|
| N |
|
N |
|
N |
|
|
| |
Nam |
47 |
|
6 |
|
53 |
|
|
| Nữ |
43 |
|
11 |
|
54 |
|
|
| Tổng |
90 |
|
17 |
|
107 |
|
|
| |
|
| Bảng 5.47. Ý định bỏ hợp đồng để làm ngoài xếp theo nhóm tuổi |
|
|
| Nhóm tuổi |
Có khi nào muốn bỏ hợp đồng để làm bên ngoài |
|
| Không |
Có |
Tổng |
|
| N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
|
| |
Dưới 24 |
12 |
13% |
1 |
6% |
13 |
12% |
|
| Từ 24-30 |
28 |
31% |
6 |
35% |
34 |
32% |
|
| Từ 30-45 |
39 |
43% |
8 |
47% |
47 |
44% |
|
| Trên 45 |
11 |
12% |
2 |
12% |
13 |
12% |
|
|
|
| |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Bảng 5.48. Ý định bỏ hợp đồng để làm ngoài tính theo mức độ thành công khi LĐNN
| Nhận định Hoàn toàn hài lòng với toàn bộ quá trình làm việc khi XKLĐNN |
Có khi nào muốn bỏ hợp đồng để làm bên ngoài |
| Không |
Có |
Tổng |
| N |
N % Hàng |
N |
N % Hàng |
N |
N % Hàng |
| |
Hoàn toàn không đồng ý |
6 |
75% |
2 |
25% |
8 |
100% |
| Không đồng ý một phần |
5 |
83% |
1 |
17% |
6 |
100% |
| Không có ý kiến |
7 |
78% |
2 |
22% |
9 |
100% |
| Đồng ý một phần |
18 |
75% |
6 |
25% |
24 |
100% |
| Hoàn toàn đồng ý |
54 |
90% |
6 |
10% |
60 |
100% |
| Không biết |
0 |
0% |
0 |
0% |
0 |
0% |
| Tổng |
90 |
84% |
17 |
16% |
107 |
100% |
| |
| |
|
|
|
|
|
|
|
|
Bảng 5.49. Các trường hợp về nước trước thời hạn và lý do
| Lý do về trước hạn |
Số người |
Ghi chú |
| Nguyên nhân bất thường |
9 |
Trục xuất, đi theo đường du lịch, trốn ra ngoài
Hàn quốc, Nga, Đức, Anh, Singapore
Chỉ có 1 nữ |
| Gia đình có việc |
1 |
|
| Không có việc làm/Phá sản |
6 |
Nga, Hàn, Đài loan |
Bảng 5.50. Thời gian làm việc ở nước ngoài của người LĐNN đã trở về
| Thời gian LĐNN |
|
| Nhân Trạch |
Hải Phú |
Đức Trạch |
Thanh Trạch |
Tổng |
| N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
N |
N % Cột |
| |
Từ 1-2 năm |
8 |
62% |
10 |
53% |
7 |
70% |
8 |
40% |
33 |
53% |
| Từ 3-5 năm |
1 |
8% |
7 |
37% |
3 |
30% |
8 |
40% |
19 |
31% |
| Trên 5 năm |
4 |
31% |
2 |
11% |
0 |
0% |
4 |
20% |
10 |
16% |
| Tổng |
13 |
100% |
19 |
100% |
10 |
100% |
20 |
100% |
62 |
100% |
5.6. Các doanh nghiệp làm dịch vụ môi giới LĐNN tham gia khảo sát
Bảng 5.51. Các doanh nghiệp môi giới, giới thiệu, tuyển dụng LĐNN
| Tên đơn vị tham gia khảo sát |
Thành lập |
Năm làm DV LĐNN |
- Công Ty Vĩnh Nam (Lao Động Nghề Biển)
|
2005 |
2005 |
- Công Ty TNHH Cung Ứng Lao Động Bảo
|
2007 |
2014 |
- Trung Tâm Dịch Vụ Việc Làm Thanh Niên
|
2001 |
2015 |
- Công Ty TNHH Phát Triển Nhân Lực Anh Quân
|
2016 |
2016 |
- Cty SHB (Tuyển Sinh Du Học Mỗi Năm 30 Người Hàn Nhật)
|
2017 |
2017 |
- Công Ty Cổ Phần Sách Và Thiết Bị Trường Học
|
1997 |
2017 |
- Trung Tâm Dịch Vụ Việc Làm Sở LĐTXH
|
1993 |
2017 |
- Công Ty TNHH Phát Triển Nhân Lực Hoàng Ngân
|
2018 |
2018 |
5.7. Trắc nghiệm với người lao động về hiểu biết pháp luật
Các bảng số ở đây cho biết số người trả lời là “Đúng” hay là “Phải làm là đúng” với các câu hỏi trắc nghiệm có phân theo các đặc điểm giới tính, nhóm tuổi và học vấn. Tổng số người tham gia trả lời được ghi ở ô cuối cùng bên tay phải của mỗi bảng. Các bảng này có thể được dùng để tham chiếu khi theo dõi kết quả truyền thông hoặc tập huấn về pháp luật vào cuối dự án.
Bảng 5.52. Kết quả phân theo giới tính
| |
| Nhận định về các quy định pháp luật LĐa |
Giới tính người trả lời |
Tổng |
| Nam |
Nữ |
| |
NLĐ cần được ký hợp đồng với DN dịch vụ XKLĐ |
N |
100 |
122 |
222 |
| %trong Giới_tính |
89.3% |
91.7% |
|
| % của Tổng |
40.8% |
49.8% |
90.6% |
| NLĐ được tham gia khóa bổ túc nghề, ngoại ngữ tại cơ sở đào tạo cấp phép |
N |
101 |
116 |
217 |
| %trong Giới_tính |
90.2% |
87.2% |
|
| % của Tổng |
41.2% |
47.3% |
88.6% |
| NLĐ được vay vốn của TCTD để đi làm việc nước ngoài |
N |
99 |
118 |
217 |
| %trong Giới_tính |
88.4% |
88.7% |
|
| % của Tổng |
40.4% |
48.2% |
88.6% |
| NLĐ được bồi thường thiệt hại khi doanh nghiệp dịch vụ vi phạm |
N |
100 |
117 |
217 |
| %trong Giới_tính |
89.3% |
88.0% |
|
| % của Tổng |
40.8% |
47.8% |
88.6% |
| NLĐ có trách nhiệm ký quỹ hoặc giới thiệu người bảo lảnh theo thỏa thuận với DN |
N |
80 |
101 |
181 |
| %trong Giới_tính |
71.4% |
75.9% |
|
| % của Tổng |
32.7% |
41.2% |
73.9% |
| NLĐ có trách nhiệm trả tiền dịch vụ cho DN DV XKLĐ |
N |
83 |
95 |
178 |
| %trong Giới_tính |
74.1% |
71.4% |
|
| % của Tổng |
33.9% |
38.8% |
72.7% |
| NLĐ không phải thông báo với chính quyền địa phương nếu không có nhu cầu hỗ trợ việc làm |
N |
65 |
79 |
144 |
| %trong Giới_tính |
58.0% |
59.4% |
|
| % của Tổng |
26.5% |
32.2% |
58.8% |
| Tổng |
N |
112 |
133 |
245 |
| % của Tổng |
45.7% |
54.3% |
100.0% |
| Tỷ lệ phần trăm và tổng được tính dựa trên số người trả lời. |
| a. Giá trị được tính là 1 (có nghĩa là “có” hoặc “đồng ý”). |
Bảng 5.53. Kết quả phân theo nhóm tuổi
| Nhận định về các quy định pháp luật LĐa |
Nhóm tuổi |
Tổng |
| Dưới 24 |
Từ 24-30 |
Từ 30-45 |
Trên 45 |
| |
NLĐ cần được ký hợp đồng với DN dịch vụ XKLĐ |
N |
39 |
72 |
98 |
13 |
222 |
| %trong NhomTuoi |
92.9% |
92.3% |
87.5% |
100.0% |
|
| % của Tổng |
15.9% |
29.4% |
40.0% |
5.3% |
90.6% |
| NLĐ được tham gia khóa bổ túc nghề, ngoại ngữ tại cơ sở đào tạo cấp phép |
N |
39 |
69 |
98 |
11 |
217 |
| %trong NhomTuoi |
92.9% |
88.5% |
87.5% |
84.6% |
|
| % của Tổng |
15.9% |
28.2% |
40.0% |
4.5% |
88.6% |
| NLĐ được vay vốn của TCTD để đi làm việc nước ngoài |
N |
37 |
64 |
103 |
13 |
217 |
| %trong NhomTuoi |
88.1% |
82.1% |
92.0% |
100.0% |
|
| % của Tổng |
15.1% |
26.1% |
42.0% |
5.3% |
88.6% |
| NLĐ được bồi thường thiệt hại khi doanh nghiệp dịch vụ vi phạm |
N |
38 |
69 |
98 |
12 |
217 |
| %trong NhomTuoi |
90.5% |
88.5% |
87.5% |
92.3% |
|
| % của Tổng |
15.5% |
28.2% |
40.0% |
4.9% |
88.6% |
| NLĐ có trách nhiệm ký quỹ hoặc giới thiệu người bảo lảnh theo thỏa thuận với DN |
N |
30 |
57 |
83 |
11 |
181 |
| %trong NhomTuoi |
71.4% |
73.1% |
74.1% |
84.6% |
|
| % của Tổng |
12.2% |
23.3% |
33.9% |
4.5% |
73.9% |
| NLĐ có trách nhiệm trả tiền dịch vụ cho DN DV XKLĐ |
N |
26 |
54 |
88 |
10 |
178 |
| %trong NhomTuoi |
61.9% |
69.2% |
78.6% |
76.9% |
|
| % của Tổng |
10.6% |
22.0% |
35.9% |
4.1% |
72.7% |
| NLĐ không phải thông báo với chính quyền địa phương nếu không có nhu cầu hỗ trợ việc làm |
N |
26 |
38 |
70 |
10 |
144 |
| %trong NhomTuoi |
61.9% |
48.7% |
62.5% |
76.9% |
|
| % của Tổng |
10.6% |
15.5% |
28.6% |
4.1% |
58.8% |
| Tổng |
N |
42 |
78 |
112 |
13 |
245 |
| % của Tổng |
17.1% |
31.8% |
45.7% |
5.3% |
100.0% |
| Tỷ lệ phần trăm và tổng được tính dựa trên số người trả lời. |
|
| a. Giá trị được tính là 1 (có nghĩa là “có” hoặc “đồng ý”).. |
| |
| |
|
|
|
|
|
|
|
|
| Nhận định về các quy định pháp luật LĐa |
Học vấn |
Tổng |
| Chưa hoàn thành Tiểu học |
Hoàn thành tiểu học |
Chưa hoàn thành PTCS |
Hoàn thành PTCS |
| |
NLĐ cần được ký hợp đồng với DN dịch vụ XKLĐ |
N |
5 |
5 |
37 |
52 |
99 |
| %trong HocVan |
100.0% |
100.0% |
92.5% |
91.2% |
|
| % của Tổng |
4.7% |
4.7% |
34.6% |
48.6% |
92.5% |
| NLĐ được tham gia khóa bổ túc nghề, ngoại ngữ tại cơ sở đào tạo cấp phép |
N |
5 |
4 |
37 |
48 |
94 |
| % trong HocVan |
100.0% |
80.0% |
92.5% |
84.2% |
|
| % của Tổng |
4.7% |
3.7% |
34.6% |
44.9% |
87.9% |
| NLĐ được vay vốn của TCTD để đi làm việc nước ngoài |
N |
5 |
5 |
39 |
47 |
96 |
| % trong HocVan |
100.0% |
100.0% |
97.5% |
82.5% |
|
| % của Tổng |
4.7% |
4.7% |
36.4% |
43.9% |
89.7% |
| NLĐ được bồi thường thiệt hại khi doanh nghiệp dịch vụ vi phạm |
N |
4 |
5 |
34 |
46 |
89 |
| % trong HocVan |
80.0% |
100.0% |
85.0% |
80.7% |
|
| % của Tổng |
3.7% |
4.7% |
31.8% |
43.0% |
83.2% |
| NLĐ có trách nhiệm ký quỹ hoặc giới thiệu người bảo lảnh theo thỏa thuận với DN |
N |
3 |
4 |
29 |
42 |
78 |
| % trong HocVan |
60.0% |
80.0% |
72.5% |
73.7% |
|
| % của Tổng |
2.8% |
3.7% |
27.1% |
39.3% |
72.9% |
| NLĐ có trách nhiệm trả tiền dịch vụ cho DN DV XKLĐ |
N |
5 |
5 |
31 |
38 |
79 |
| %trong HocVan |
100.0% |
100.0% |
77.5% |
66.7% |
|
| % của Tổng |
4.7% |
4.7% |
29.0% |
35.5% |
73.8% |
| NLĐ không phải thông báo với chính quyền địa phương nếu không có nhu cầu hỗ trợ việc làm |
N |
3 |
4 |
27 |
35 |
69 |
| % trong HocVan |
60.0% |
80.0% |
67.5% |
61.4% |
|
| % của Tổng |
2.8% |
3.7% |
25.2% |
32.7% |
64.5% |
| Tổng |
N |
5 |
5 |
40 |
57 |
107 |
| % của Tổng |
4.7% |
4.7% |
37.4% |
53.3% |
100.0% |
| Tỷ lệ phần trăm và tổng được tính dựa trên số người trả lời. |
| a. Giá trị được tính là 1 (có nghĩa là “có” hoặc “đồng ý”). |
[1] Cụ thể là Thanh Trạch, Hải Phú, Đức Trạch, và Nhân Trạch
[3] Theo nguồn http://baochinhphu.vn/Utilities/PrintView.aspx?distributionid=393590
[4] Theo nguồn https://sldtbxh.quangbinh.gov.vn/3cms/tong-ket-10-nam-(2007-2016)-thi-hanh-luat-nguoi-lao-dong-viet-nam-di-lam-viec-o-nuoc-ngoai-the.htm
[5] https://www.surveysystem.com/sscalc.htm
[6] https://wecreatecontent.asia/content-marketing-blog-asia/2020/3/2/which-are-the-popular-social-media-sites-in-vietnam
[7] “Một nhiệm kỳ” là từ của địa phương chỉ một khoảng thời gian của một hợp đồng lao động ở nước ngoài.
[8] https://luatvietnam.vn/lao-dong/cong-van-2025-ldtbxh-qlldnn-2020-tam-dung-tuyen-chon-lao-dong-theo-chuong-trinh-eps-184312-d6.html
[9] Going for Gold: Central Vietnam. VCCI, 2017.
[10] Đứng thứ hai là thị xã Ba Đồn của Quảng bình có 69 lao động không về hay là 10% con số của cả nước tính cho Hàn Quốc.
[13][13] Tác giả là nghiên cứu viên chính có vai trò liên hệ để trao đổi về báo cáo thực trạng.
[14] Chú ý
khi gặp dấu là câu hỏi có nhiều lựa chọn. gặp dấu £ là câu hỏi chỉ có một lựa chọn
[15] Khi câu trả lời là “Không” thì ngưng phỏng vấn.
[16] Chọn trong độ tuổi từ 18-45.
[17] Gồm cả trường hợp khi dùng tiền góp “hụi”.
[18] Còn được gọi là lao động “chui”.
[19] Khi câu trả lời là “Không” thì ngưng phỏng vấn.
[20] Bảng này còn thiếu số liệu của hai thôn là Đức Trung và Bầu Bang.