KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ, TƯ VẤN VIÊN PHÁP LUẬT KHI TƯ VẤN CHO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN LÀ NẠN NHÂN CỦA BẠO LỰC
Sign In

KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ, TƯ VẤN VIÊN PHÁP LUẬT KHI TƯ VẤN CHO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN LÀ NẠN NHÂN CỦA BẠO LỰC

Trong các vụ việc có người bị hại là người chưa thành niên, người bị hại được xem như một nguồn thông tin, và các nguồn thông tin này phải tiếp cận được ở dạng thức chính xác nhất. Ngoài ra, người bị hại còn phải trình bày thông tin trước tòa án hoặc những người có trách nhiệm khác. Do đó, các thông tin này phải thuyết phục được những người có thẩm quyền giải quyết vụ việc, tức là các thông tin này là đáng tin cậy và người bị hại đang nói sự thật. Tuy nhiên, khi tiếp cận người chưa thành niên, ta thường gặp môt số khó khăn cần khắc phục: Trí nhớ của trẻ chính xác đến mức nào? Trẻ em có khả năng liên hệ chính xác một sự việc không? Trẻ em có tưởng tượng không? Có thể đưa ra gợi ý cho trẻ không? Môi trường tại tòa án có ảnh hưởng như thế nào đến khả năng truyền đạt thông tin của trẻ?

KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ, TƯ VẤN VIÊN PHÁP LUẬT KHI TƯ VẤN CHO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN LÀ NẠN NHÂN CỦA BẠO LỰC

 
Trong các vụ việc có người bị hại là người chưa thành niên, người bị hại được xem như một nguồn thông tin, và các nguồn thông tin này phải tiếp cận được ở dạng thức chính xác nhất. Ngoài ra, người bị hại còn phải trình bày thông tin trước tòa án hoặc những người có trách nhiệm khác. Do đó, các thông tin này phải thuyết phục được những người có thẩm quyền giải quyết vụ việc, tức là các thông tin này là đáng tin cậy và người bị hại đang nói sự thật. Tuy nhiên, khi tiếp cận người chưa thành niên, ta thường gặp môt số khó khăn cần khắc phục: Trí nhớ của trẻ chính xác đến mức nào? Trẻ em có khả năng liên hệ chính xác một sự việc không? Trẻ em có tưởng tượng không? Có thể đưa ra gợi ý cho trẻ không? Môi trường tại tòa án có ảnh hưởng như thế nào đến khả năng truyền đạt thông tin của trẻ?
Đánh giá các thông tin từ trẻ em cung cấp là một quá trình phức tạp, đòi hỏi sự hiểu biết về một số lĩnh vực khác nhau. Trên thực tế, các chuyên gia đã có kết luận là chất lượng thông tin của trẻ phụ thuộc vào một số yếu tố: Năng lực của trẻ; Bối cảnh trao đổi thông tin; Một số vấn đề về các thủ tục ( như thủ tục tố tụng tại tòa án); Kỹ năng của người có trách nhiệm giao tiếp với trẻ; Kỹ năng giao tiếp với trẻ là nội dung có ý nghĩa rất quan trọng trong việc khai thác thông tin và tư vấn cho trẻ.
Bài viết này tập trung vào việc trao đổi các kỹ năng của luật sư khi tiếp xúc và tư vấn cho trẻ chưa thành niên là người bị hại trong các vụ xâm hại trẻ em.
Trước khi tìm hiểu về kỹ năng của luật sư trong các trường hợp này, chúng ta đi tìm hiểu nguyên nhân gốc rễ của vấn đề xâm hại trẻ em. Nguyên nhân xâm hại trẻ em rất phức tạp, vì không có nguyên nhân riêng lẻ dẫn đến xâm hại trẻ em. Thay vào đó, có nhiều yếu tố liên kết với nhau thúc đẩy việc xâm hại trẻ em như chuẩn mực xã hội[1], vị thế thứ yếu của trẻ em[2], áp lực xã hội[3].
Tại Việt Nam, trong nhiều gia đình, bạo lực được sử dụng như một phương tiện để thiết lập thứ bậc của nam giới và củng cố nam tính. Sự đam bảo tài chính, trình độ học vấn của cha mẹ và các vấn đề như lạm dụng rượu hoặc ma túy đều có tác động đến hành vi bạo lực. Kỷ luật bằng bạo lực vẫn (có nơi) được coi là chuẩn mực được cộng đồng chấp nhận. Từ đó, trẻ em sẽ không lên tiếng hoặc tìm kiếm trợ giúp khi bị bạo lực trong gia đình. Theo dữ liệu điều tra quốc gia về bạo lực gia đình tại Việt Nam: 3% phụ nữ từng bị xâm hại tình dục trước 15 tuổi, và năm 2019 là 4,4%.
Khi thực hiện tư vấn pháp luật cho người chưa thành niên là nạn nahan của bạo lực, luật sư cần có các kỹ năng sau đây:
I. KỸ NĂNG GIAO TIẾP VỚI TRẺ EM LÀ NẠN NHÂN CỦA XÂM HẠI
1. Sự phát triển ngôn ngữ chắc chắn sẽ có tác động nhất định đến khả năng thuật lại sự việc của trẻ em. Trẻ hoàn toàn có thể ghi nhớ trong đầu, nhưng không phải lúc nào các em cũng đủ vốn từ để chia sẻ các trải nghiệm đó. Mức độ phát triển ngôn ngữ có thể tác động mạnh mẽ đến việc khôi  phục thông tin đã lưu trong trí nhớ. Sự hạn chế về ngôn ngữ sẽ ảnh hưởng đến việc thuật lại sự việc ở những khía cạnh sau: Loại thông tin mà trẻ cung cấp; Khả năng kết nối các mảng ghép thông tin với nhau; Mức độ chi tiết của các sự việc mà trẻ có thể cung cấp; Việc không thể cung cấp thông tin cụ thể. Trong đó ta cần lưu ý rằng: Trẻ rất nhỏ thường hiểu những gì được nói với mình, nhưng không có đủ kỹ năng ngôn ngữ để có thể trả lời một cách chi tiết. Ở trẻ nhỏ, khả năng hiểu tốt hơn khả năng nói. Nguyên nhân là vì vốn từ của trẻ nhỏ rất ít, các em thường dùng cử chỉ để hỗ trợ giao tiếp. Trẻ nhỏ cung cấp thông tin ít hơn trẻ lớn, và thông tin cũng sẽ ít cụ thể hơn. Trẻ càng nhỏ tuổi, người giao tiếp sẽ càng phải tham gia vào nhiều cuộc thẩm vấn vì trẻ em sẽ không tự động cung cấp thông tin. Giao tiếp với trẻ em là một việc rất phức tạp vì viêc này liên quan đến kỹ năng hiểu rõ sự phát triển về ngôn ngữ của trẻ. Trên thực tế, vấn đề hay gặp trong viêc giao tiếp giữa người lớn với trẻ là thông tin bị truyền đạt sai. Có một số vấn đề về ngôn ngữ gây khó khăn cho trẻ, dưới đây là một số vấn đề về ngôn ngữ gây trở ngại cho trẻ em: Từ vựng không phù hợp với sự phát triển của trẻ; Cấu trúc cú pháp phức tạp; Hiểu sai lời nói của trẻ; Đưa thông tin mới vào cuộc hội thoại; Năng lực giao tiếp. Như vậy, để giao tiếp thuận lợi, cần hiểu ngôn ngữ của trẻ, có nghĩa là cần hiểu cách trẻ tiếp thu từ vựng, và hiểu những từ nào sẽ gây khó khăn cho trẻ
Ngoài ra, cần hiểu những “lỗi giao tiếp” của trẻ trong quá trình giao tiếp với người lớn sau đây:
(i) Khi trẻ gặp phải những từ mà mình không hiểu, các em có thể đưa ra một trong 03 câu trả lời sau: “ có”, “ cháu không biết”, hoặc các em sẽ im lặng
(ii) Trẻ có cách hiểu riêng. Trẻ có xu hướng diễn giải từ ngữ theo cách riêng của mình.  Ý nghĩa của từ ngữ có thể không giống cách hiểu của người lớn
(iii) Các từ nghe tương tự nhau. Khi không hiểu một từ, trẻ có xu hướng diễn giải từ đó theo nghĩa một từ có phát âm tương tự. Vig vậy, cần quan sát kỹ trẻ có hiểu từ đang dùng không
(iv) Các từ về sự tương quan (là loại từ ý nghĩa của nó phụ thuộc vào một thứ khác): Là một loại từ gây khó khăn cho trẻ. Nguyên nhân đến từ việc sử dụng từ về sự tương quan để mô tả kích thước, hình  dạng của người và vật. Những từ này mang ý nghĩa khác nhau đối với trẻ.
(v) Sử dụng từ ngữ nhưng không hoàn toàn hiểu ý nghĩa của các từ đó. Điều này đặc biệt đúng khi nói về ngày tháng.
(vi) Mở rộng ý nghĩa của từ: trẻ không có nhiều vốn từ, thường phá vỡ quy tắc ngôn ngữ của người lớn hoặc thêm vào các hành động/ sự vật mà các em không có từ để diễn tả.
(vii) Hạn chế ý nghĩa của từ. Trẻ thường chỉ gán một phần ý nghĩa mà theo từ vựng của người lớn có từ tương tự
(viii) Những từ đơn giản vẫn có thể gây hiểu lầm. Trẻ em có thể đưa ra ý nghĩa khác nhau cho những từ thông thường
(ix) Một số vấn đề khác như: Sử dụng ngôn ngữ theo nghĩa đen; Từ ngữ về thời gian; Thời điểm trước và sau; Các từ tương phản; Quen biết; Các thuật ngữ pháp lý

2. Các bộ phận cơ thể và thuật ngữ về tình dục hiển nhiên là những lĩnh vực mà trẻ em thiếu từ vựng.

Nghiên cứu đã chỉ ra rằng số lượng từ chỉ bộ phận cơ thể được hiểu và gọi tên tăng lên tỷ lệ thuận cùng độ tuổi. Một số từ được hiểu không đầy đủ cho đến khi trẻ qua 06 tuổi. Một trong những khó khăn lớn nhất khi thu thập thông tin về xâm hại tình dục từ trẻ em là những em chưa thực hiện hoạt động tình dục sẽ không hiểu tình dục là gì. Trẻ em thường sử dụng một từ chung để mô tả bộ phận cơ thể. Người nghe sẽ không hiểu các em đang nói tới bộ phận nào. Do đó, điều quan trọng là tìm hểu chính xác trẻ đang nói tới bộ phận nào. Có 03 cách để làm rõ: Búp bê mô hình giải phẫu chi tiết; hình vẽ giải phẫu chi tiết; Mô tả chức năng của các bộ phận ( lưu ý là biện pháp này không áp dụng cho trẻ dưới 8 tuổi).
Một số thuật ngữ tình dục gây khó khăn cho trẻ: Mô tả hành vi động chạm; Từ “ đưa vào”; Thủ dâm; Xuất tinh; Cương cứng; Bao cao su.
3. Thái độ, quan điểm và phản ứng đối với vấn đề xâm hại trẻ em là kết quả của bối cảnh xã hội mà một cá nhân được nuôi dạy. Do đó, điều quan trọng là xem xét các thái độ và quan điểm liên quan đến xâm hại trẻ em để đánh giá các đánh giá, nhìn nhận đó có chính xác hay không. Điều này liên quan đến cách xã hội phản ứng với những nạn nhân là trẻ em. Thường phổ biến một số lầm tưởng sau: Trẻ em bị xâm hại sẽ la hét hoặc cố gắng chạy đi; Trẻ em thường nói dối, phóng đại hoặc tưởng tượng về việc bị xâm hại; Nạn nhân sẽ nói với ai đó ngay sau khi các em bị xâm hại; Sau khi bị xâm hại, trẻ em sẽ không thích và né tránh thủ phạm; Nạn nhân của tội phạm tình dục sẽ có vết thương; Hình thức xâm hại phổ biến nhất mà trẻ em phải chịu là xâm hại tình dục; Phần lớn tội phạm tình dục xảy ra giữa những người không quen biết nhau.

4. Xây dựng mối quan hệ thân thiện

Trong tương tác giữa trẻ em và người lớn, trẻ em cần cảm thấy an toàn, yên tâm; người tương tác với trẻ em cần tạo dựng đủ sự thân thiện để trẻ em cảm thấy tin tưởng người đang giao tiếp với mình. Người tương tác nên thể hiện những giá trị cốt lõi sau:
- Đồng cảm- khả năng chia sẻ và thấu hiểu cảm xúc mà trẻ đã trải qua.
- Tôn trọng- thể hiện sự chấp nhận, ân cần và quan tâm tới trẻ (cần cân nhắc tới văn hóa và sự khác biệt).
- Chân thành- thể hiện sự trung thực, không giả tạo và không phòng vệ, vì trẻ em rất nhạy cảm, trẻ sẽ nhanh chóng nhận ra sự không chân thật.

5. Một số kỹ thuật hỗ trợ quá trình giao tiếp với trẻ

(i) Cách sử dụng cấu trúc ngữ pháp:
- Phải giảm bớt độ phức tạp của cấu trúc ngữ pháp khi trò chuyện với trẻ.
- Nên đặt các câu hỏi đơn giản nhất có thể, theo hướng đặt ra yêu cầu về nhận thức ít nhất cho trẻ.
- Lưu ý một số cấu trúc ngữ pháp gây khó hiểu đối với trẻ em. Nên hạn chế sử dụng một số cấu trúc như liệt kê ở dưới:
+ Gói gọn nhiều thông tin: là kỹ thuật dùng để đưa nhiều thông tin vào một câu hỏi. Điều này đươc thực hiện thông qua việc sử dụng cấu trúc phức tạp, từ đó có thể gây ra sự khó hiểu, nhất là đối với trẻ em.
+ Sử dụng câu phủ định: Ngôn ngữ pháp lý sử dụng rất nhiều cấu trúc phủ định, và thường được dùng trong những trường hợp đặc biệt, nhằm mục đích chia nhỏ nội dung câu hỏi. Tuy nhiên, việc sử dụng cấu trúc phủ định dễ gây khó hiểu và nhầm lẫn trong giao tiếp. Vì vậy, nên tránh cấu trúc phủ định bất cứ khi nào có thể và luôn đặt câu hỏi dưới dạng khẳng định.
+ Câu hỏi đuôi: là câu hỏi biến một câu tường thuật thành câu hỏi bằng cách yêu cầu xác nhận thông tin, ví dụ “ cháu đang vui phải không?”. Mặc dù trên thực tế, ngay cả các trẻ nhỏ cũng sử dụng loại câu hỏi này, nhưng theo các nghiên cứu thì nhiều trẻ em ở độ tuổi 12-14 tuổi vẫn gặp khó khăn để hiểu loại câu hỏi này.
+ Nhiều câu hỏi: Cấu trúc nhiều câu hỏi là việc đặt một số câu hỏi cùng một lúc, ví dụ “ cháu không nhớ à? Có ai đã tỉnh dậy và thấy điều này không?”. Không nên sử dụng loại cấu trúc câu hỏi này, mà nên yêu cầu trẻ cung cấp thông tin từng nội dung bằng việc chia nhỏ các nội dung thành nhiều câu hỏi riêng biệt.
+ Sử dụng đại từ:  Đại từ sẽ không có ý nghĩa gì nếu không được đặt trong một ngữ cảnh cụ thể của sự việc. Ví dụ như câu hỏi “ Cô ấy có đến cửa hàng không?” sẽ vô nghĩa, trừ khi người nghe hiểu “ cô ấy” là ai. Khả năng liên kết đại từ với từ trước hoặc sau đó chỉ có thể thực hiện ở trẻ khoảng 10 tuổi. Điều này cho thấy luật sư nên nhắc lại thông tin thay vì sử dụng đại từ, ví dụ như “ Khi mẹ cháu về nhà, mẹ cháu có nấu cơm không?” thay vì “ Khi bà ấy về nhà, mẹ cháu có nấu cơm không?”.
(ii) Kỹ năng lắng nghe: Việc lắng nghe tốt khiến trẻ thấy mình được tôn trọng. Không nên có thái độ phân biệt trên dưới. Lắng nghe đòi hỏi phải có sự chú ý chân thành và đồng cảm.
Nên hạn chế một số rào cản ngăn chúng ta lắng nghe tích cực: Trả vờ chú ý; Nghe không đầy đủ; Nghe với định kiến; Chỉ nghe những gì mình muốn nghe; Ngại lắng nghe; Loại bỏ quá sớm những chủ đề có vè như không thú vị; Phê phán sự truyền đạt; Dễ bị phân tán.
Để là người lắng nghe tốt khi giao tiếp với trẻ, luật sư nên: Tập trung. Luôn tỉnh táo; Lắng nghe một cách đồng cảm nhưng phải giữ sự trung lập; Lắng nghe lấy ý chính/ý tưởng lớn; Chú ý những biểu hiên không bằng lời nói của người giao tiếp.
Bốn bước của nghe tích cực: Nghe -à Tóm tắt --à Kiểm tra lại -à Sắp xếp lại

II. TƯ VẤN CHO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRƯỚC PHIÊN TÒÀ

Tư vấn cho trẻ em trước phiên tòa là một phần của quá trình chuẩn bị tham gia phiên tòa của luật sư. Đây là một phương pháp tiếp cận về kỹ năng mềm được sử dụng để hỗ trợ trẻ em khi các em tham gia phiên tòa, giúp các em có khả năng đưa lời khai hiệu quả tại tòa án, cụ thể: Giúp trẻ em hiểu quy trình pháp lý của một phiên tòa; Giúp trẻ hiểu vai trò của mình trong quá trình trẻ tham gia tố tụng tại phiên tòa; Giảm bớt sự lo lắng của các em khi tham gia phiên tòa
Việc tham gia tố tụng tại phiên tòa đòi hỏi người tham gia cần: Có khả năng nhớ lại thông tin đầy đủ, chính xác và có khả năng giao tiếp hiệu quả; Có khả năng thể hiện hiểu sự khác biệt giữa sự thật và gian dối; Có khả năng hiểu các câu hỏi của luật sư/ người tiến hành tố tụng, tham gia tố tụng khác; biểu hiện rõ ràng khi không hiểu; Có khả năng phản ứng với các câu hỏi mang tính dẫn dắt. Trong khi đó, trẻ không có kỹ năng và kiến thức để đáp ứng được những yêu cầu cần có khi tham gia phiên tòa. Trẻ cũng không hiểu hoặc hiểu sai về hệ thống pháp luật và những người tham gia trong hệ thống đó. Những hạn chế này làm nảy sinh nỗi sợ hãi, từ đó có thể làm cản trở việc các em đưa ra lời khai trong quá trình xét xử tại tòa.
Đó là lý do cần có sự chuẩn bị cho các em để sự tham gia của các em vào quá trình tố tụng tại tòa hiệu quả hơn. Việc chuẩn bị tham gia phiên tòa sẽ giúp: giải quyết các lầm tưởng của các em về phiên tòa; giảm nỗi sợ hãi và lo lắng liên quan đến việc đưa ra lời khai trước tòa; thúc đẩy việc tìm ra sự thật; hỗ trợ vẻ bề ngoài của trẻ để gây thiện cảm; cải thiện khả năng ghi nhớ; cải thiện khả năng hiểu câu hỏi/ khả năng bộc lộ khi không hiểu câu hỏi; trang bị khả năng phản đối/tự vệ đối với các câu hỏi dẫn dắt; cung cấp thông tin để trẻ hiểu các thủ tục xét xử.
Việc chuẩn bị cho việc tham gia phiên tòa sẽ bao gồm các công việc như: Giải thích để trẻ hiểu được quy trình tố tụng tại tòa, vai trò của trẻ ở phiên tòa cũng như của các bên tham gia khác; Đưa trẻ tới tham quan tòa án từ trước hoặc dùng ảnh chụp, sơ đồ tòa án nếu việc tham quan tòa án khó thực hiện; Cung cấp cho trẻ các kỹ thuật giảm căng thẳng và kiểm soát lo âu; Trao đổi với cha mẹ/ người chăm sóc trẻ; Trao đổi với những người có vai trò liên quan đến phiên tòa về bất kỳ mong muốn nào của trẻ; Trao đổi, giải thích cho trẻ và cha mẹ/ người chăm sóc trẻ về các bước của quá trình tố tụng; đảm bảo những vấn đề về hậu cần phục vụ trẻ tham gia phiên tòa được chuẩn bị tốt; Nên đi cùng trẻ vào ngày trẻ đến phiên tòa; Chuẩn bị những thông tin mà trẻ cần cung cấp trong phiên tòa.
Việc chuẩn bị cho trẻ tham gia phiên tòa giúp đảm bảo số lượng và chất lượng thông tin mà trẻ cung cấp trong quá trình xét xử cũng như tối ưu được lời khai của các em. Điều này cũng góp phần làm giảm bớt sự mơ hồ của các sự việc sắp xảy ra và giảm bớt nỗi lo lắng của các em.

Một số nội dung cụ thể cần giải thích, hướng dẫn cho trẻ

(i) Giải thích về vai trò của trẻ trong phiên tòa:
Điều này giúp trẻ hiểu được sự quan trọng của mình trong phiên tòa. Do đó, trẻ cần lắng nghe cẩn thận các câu hỏi, trả lời các câu hỏi một cách rõ ràng nhất có thể và nói ra sự thật
(ii) Tại sao người ta phải ra tòa?
Thông tin này sẽ giải thích một số khía cạnh cơ bản về luật pháp cho trẻ. Quan trọng là không nên nghiêm trọng hóa và không nên đưa quá nhiều thông tin nhằm tránh việc trẻ bị hoang mang.
Nên hệ thống lại những điều trẻ nên biết: chủ tọa là người trung lập, quyền của bị can là gì, bị hại có quyền gì…, hiểu về vấn đề thẩm vấn chéo..
(iii) Phòng xét xử sẽ như thế nào.
(iv) Có những ai sẽ tham gia phiên tòa, vị trí ngồi của những người này, vai trò của họ là gì
(v) Phiên tòa sẽ được diễn ra như thế nào
(vi) Thế nào là vô tôi và có tội:
(vii) Các thông tin khác như điều gì sẽ xảy ra nếu bị cáo bị kết tội, có thể có những mức án như thế nào, có thể có những điều gì xảy ra trong phòng xử án…
(viii)  Kỹ năng cho việc thẩm vấn chéo
(ix)  Các thuật ngữ pháp lý
(i)  Các kỹ thuật giảm căng thẳng .
Sau tất cả các vấn đề nêu trên, cần hỏi trẻ về các áp lực mà bản thân trẻ phải đối diện (như nỗi lo âu..), và trấn an trẻ rằng nỗi sợ của trẻ khi tới tòa án có thể kiểm soát được bằng cách bình tĩnh thực hiện theo những hướng dẫn của luật sư.
 
 
- [1] Tỷ lệ bạo lực trong cộng đồng còn cao, bao gồm cả việc coi bạo lực như là một phương pháp để giải quyết vấn đề ( phim... ảnh…).
- Các quy tắc nuôi dạy trẻ bao gồm cả việc xử phạt về thể xác à bình thường hóa việc sử dụng bạo lực
- Quá trình xã hội hóa về giới: củng cố quy chuẩn rằng xâm hại trẻ em là có thể chấp nhận được.
- Biện pháp xử phạt về thể xác đối với trẻ em được công nhận và áp dụng trường học gia đình.
Tất cả các vấn đề trên đã củng cố cho quan niệm: xâm hại trẻ em là có thể chấp nhận được.
[2] Trẻ em thường bị đặt vào vị trí thứ yếu. Sự chậm trể trong việc đảm bảo các quyền hiến định của trẻ ( quyền lắng nghe.v.v.) là một dấu hiệu cho thấy điều này. Ngoài ra, quan niệm trẻ em là thuộc về ( quyền sở hữu) của cha mẹ cũng là một nguyên nhân khiến trẻ em bị bán hoặc bị ép buộc kết hôn theo ý muốn của cha mẹ.
[3] Các áp lực xã hội như căng thẳng, nghèo đói, thất nghiệp  đóng một vai trò quan trọng trong vấn đề xâm hại trẻ em. Nghèo đói và thất nghiệp làm gia tăng căng thẳng, do đó, làm tăng nguy cơ trẻ em bị xâm hại