KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ, TƯ VẤN VIÊN PHÁP LUẬT TRONG QUÁ TRÌNH THAM GIA TỐ TỤNG BẢO VỆ CHO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN LÀ NẠN NHÂN CỦA VI PHẠM PHÁP LUẬT
Sign In

KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ, TƯ VẤN VIÊN PHÁP LUẬT TRONG QUÁ TRÌNH THAM GIA TỐ TỤNG BẢO VỆ CHO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN LÀ NẠN NHÂN CỦA VI PHẠM PHÁP LUẬT

Thời gian gần đây, trong công tác hỗ trợ pháp lý cho NCTN, một cách thức hỗ trợ được nhắc tới nhiều nhất chính là việc “hỗ trợ pháp lý thân thiện với trẻ em”. Hướng dẫn số 58 tại bản Các quy tắc và hướng dẫn của Liên hợp quốc về tiếp cận hỗ trợ pháp lý trong hệ thống tư pháp hình sự đã định nghĩa “Hỗ trợ pháp lý thân thiện với trẻ em là việc cung cấp trợ giúp pháp lý cho trẻ em trong quá trình tố tụng hình sự, dân sự, hành chính mà mọi người có thể tiếp cận được, phù hợp với độ tuổi, đa ngành và có hiệu quả và đáp ứng một loạt các nhu cầu pháp lý và xã hội đối mặt với trẻ em và thanh thiếu niên. Hỗ trợ pháp lý thân thiện với trẻ em được thực hiện bởi các luật sư và những người không phải luật sư nhưng được đào tạo về pháp luật liên quan đến trẻ em và sự phát triển của trẻ em và vị thành niên và người có khả năng giao tiếp hiệu quả với trẻ em và người chăm sóc của trẻ”.

KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ, TƯ VẤN VIÊN PHÁP LUẬT TRONG QUÁ TRÌNH THAM GIA TỐ TỤNG BẢO VỆ CHO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN LÀ NẠN NHÂN CỦA VI PHẠM PHÁP LUẬT
Thời gian gần đây, trong công tác hỗ trợ pháp lý cho NCTN, một cách thức hỗ trợ  được nhắc tới nhiều nhất chính là việc “hỗ trợ pháp lý thân thiện với trẻ em”. Hướng dẫn số 58 tại bản Các quy tắc và hướng dẫn của Liên hợp quốc về tiếp cận hỗ trợ pháp lý trong hệ thống tư pháp hình sự đã định nghĩa “Hỗ trợ  pháp lý thân thiện với trẻ em là việc cung cấp trợ giúp pháp lý cho trẻ em trong quá trình tố tụng hình sự, dân sự, hành chính mà mọi người có thể tiếp cận được, phù hợp với độ tuổi, đa ngành và có hiệu quả và đáp ứng một loạt các nhu cầu pháp lý và xã hội đối mặt với trẻ em và thanh thiếu niên. Hỗ trợ pháp lý thân thiện với trẻ em được thực hiện bởi các luật sư và những người không phải luật sư nhưng được đào tạo về pháp luật liên quan đến trẻ em và sự phát triển của trẻ em và vị thành niên và người có khả năng giao tiếp hiệu quả với trẻ em và người chăm sóc của trẻ”.
Với định nghĩa trên, có thể thấy luật sư làm công tác hỗ trợ pháp lý cho NCTNLNN cần đáp ứng được một số yêu cầu sau: Có trình độ và kiến thức sâu rộng về các lĩnh vực pháp luật, đặc biệt là pháp luật liên quan đến trẻ em để có thể áp dụng trong quá trình giải quyết vụ việc cụ thể; Nắm vững các quyền của trẻ em và các nguyên tắc thường được áp dụng khi xử lý các vụ việc liên quan đến trẻ em; Có kiến thức về tâm, sinh lý của lứa tuổi này. Những kiến thức này góp phần giúp người thực hiện công tác hỗ trợ pháp lý cho NCTNLNN hiểu và lý giải được nguyên nhân dẫn đến việc trẻ dễ dàng trở thành nạn nhân của nhiều hành vi trái pháp luật, đồng thời có được kiến thức này sẽ giúp việc gặp gỡ, trao đổi thông tin thuận lợi hơn, trẻ em sẽ có thể cởi mở chia sẻ với người đồng cảm với mình; Có sự cảm thông, thấu hiểu để nắm được tâm tư, tình cảm, nguyện vọng,… của các em. để đứng về phía các em, bảo vệ quyền lợi cho các em; Có mối quan hệ làm việc tốt với các cơ quan có liên quan để thuận lợi trong quá trình thu thập thông tin, xác minh, tìm hiểu tình tiết liên quan đến vụ việc; Có kinh nghiệm và kỹ năng làm việc với trẻ em.
Sau đây là một số nội dung và kỹ năng đặc thù khi hỗ trợ pháp lý cho NCTN là nạn nhân của sự vi phạm pháp luật:
1. Luật sư cần nắm vững và truyền đạt cho NCTNLNN, người đại diện, người thân của các em về những quyền cơ bản của NCTN trong hoạt động tố tụng
Để có thể tư vấn, bảo vệ quyền lợi cho NCTN là nạn nhân của sự vi phạm pháp luật một cách tốt nhất trong phạm vi có thể, trước hết, luật sư bảo vệ quyền lợi cho các em cần thấu hiểu các quyền của NCTN đã được khẳng định từ hệ thống pháp luật liên quan đến NCTN, cụ thể:
(i) Quyền được tôn trọng nhân phẩm và được đối xử với lòng trắc ẩn
Nạn nhân là NCTN phải được đối xử một cách chu đáo và nhạy cảm thông qua quy trình tư pháp, trong đó phải xét tới hoàn cảnh cá nhân và nhu cầu trực tiếp, độ tuổi, giới tính, tình trạng khuyết tật và mức độ trưởng thành của mỗi NCTN. Các em phải được hoàn toàn tôn trọng về mặt thể chất, tinh thần và đạo đức của các em.
Mỗi trẻ em phải được đối xử với tư cách là một cá nhân có những nhu cầu, mong muốn và cảm nhận riêng.
Cần hạn chế tối thiểu việc can thiệp vào đời sống riêng tư của trẻ em đồng thời đảm bảo các kết quả của quy trình tư pháp phải công bằng và bình đẳng. Để tránh gây thêm nỗi đau cho trẻ, khi lấy lời khai của trẻ, luật sư cần xử sự một cách tế nhị, thân thiện và tôn trọng trẻ
(ii) Quyền được bảo vệ khỏi hành vi phân biệt đối xử
Nạn nhân là NCTN cần phải được tiếp cận quy trình tư pháp trong đó các em được bảo vệ khỏi hành vi phân biệt đối xử về sắc tộc, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, hoặc nguồn gốc xã hội, tài sản, tình trạng khuyết tật và thành phần xuất thân hoặc địa vị khác của trẻ em, cha mẹ hoặc người giám hộ hợp pháp của trẻ em đó. Quy trình tố tụng phải đảm bảo sự nhạy cảm về độ tuổi, mong muốn, hiểu biết, giới tính, định hướng tình dục, dân tộc, văn hóa, tôn giáo, ngôn ngữ và nền tảng xã hội, đẳng cấp, điều kiện kinh tế - xã hội và tình trạng di cư hoặc tị nạn cũng như những nhu cầu đặc biệt của trẻ trong đó bao gồm sức khỏe, khả năng và năng lực.
Trong một số trường hợp, cần áp dụng các dịch vụ và biện pháp bảo vệ đặc biệt trên cơ sở giới tính và bản chất khác nhau của các tội danh cụ thể đối với trẻ em như tội tấn công tình dục trẻ em.
 (iii) Quyền được thông tin
Nạn nhân là NCTN, bố mẹ hoặc người giám hộ cùng đại diện theo pháp luật của các em phải được thông báo ngay lập tức và đầy đủ về:
(a) Các thông tin tư vấn và đại diện pháp lý hoặc những thông tin tư vấn khác.
(b) Thủ tục liên quan đến quy trình tố tụng hình sự, dân sự.
(c) Các cơ chế hỗ trợ dành cho NCTN khi tham gia vào hoạt động tố tụng trước tòa;
(d) Địa điểm và thời gian cụ thể của các phiên xử cũng như những sự
(e) Những biện pháp bảo vệ hữu hiệu.
(f) Tiến độ và việc giải quyết một vụ án cụ thể cùng kết quả vụ án;
(g) Cơ hội để yêu cầu thủ phạm bồi thường thông qua quy trình tư pháp, thông qua hoạt động tố tụng dân sự  hoặc thông qua các quy trình khác.
(iv) Quyền được trợ giúp một cách hiệu quả
Nạn nhân và nhân chứng là trẻ em, cùng với các thành viên gia đình nếu phù hợp, có quyền được tiếp cận các hình thức trợ giúp như dịch vụ tài chính, pháp lý, tư vấn, y tế, xã hội và giáo dục và các dịch vụ phục hồi tâm lý cũng như những dịch vụ khác cần thiết để trẻ tái hòa nhập vào cộng đồng.
(v) Quyền riêng tư
Quyền này của NCTNLNN với nghĩa vụ của luật sư trong việc bảo mật thông tin tuy  có một điểm chung là đối tượng được hướng đến là những thông tin liên quan đến nhân thân của NCTNLNN và những thông tin liên quan đến nội dung sự việc, nhưng  nghĩa vu bảo mật thông tin thì nhấn mạnh đến nghĩa vụ của luật sư trong việc bảo mật thông tin của NCTNLNN, còn quyền riêng tư để cập đến ở phần này là nhắc đến một trong những quyền được tôn trọng của NCTNLNN và nội hàm của quyền này. Việc hiểu đầy đủ các quyền của NCTNLNN, trong đó có quyền riêng tư sẽ giúp cho luật sư hiểu đầy đủ hơn trách nhiệm của mình trong quá trình hỗ trợ pháp lý cho NCTNLNN.
Nội dung chính của quyền riêng tư bao gồm:
- Việc bảo vệ sự riêng tư của nạn nhân là NCTNLNN phải là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của các cơ quan liên quan và luật sư.
- Thông tin liên quan đến sự tham gia của NCTNLNN vào quy trình tư pháp phải được bảo vệ. Việc này có thể được thực hiện thông qua việc đảm bảo tính bảo mật và hạn chế tiết lộ thông tin có thể dẫn đến lộ danh tính của trẻ là nạn nhân hoặc nhân chứng trong quy trình tư pháp.
- Cần thực hiện các biện pháp để bảo vệ NCTN không phải hiện diện một cách không cần thiết trước công chúng, ví dụ bằng cách yêu cầu người dân và các hãng truyền thông ra ngoài khi NCTN khai báo trước tòa.
(vi). Quyền được an toàn
- Khi nạn nhân là NCTN có nguy cơ bị mất an toàn, cần áp dụng các biện pháp phù hợp để thông báo cho các cơ quan chức năng về những nguy cơ mất an toàn đó và bảo vệ NCTN khỏi nguy cơ đó trước, trong và sau khi kết thúc vụ án
- Khi nạn nhân là NCTN là đối tượng bị đe dọa, dọa nạt hoặc hãm hại, cần thiết lập những điều kiện cần thiết để đảm bảo sự an toàn của họ.
- Nếu có thể và cần thiết, cử lực lượng công an hoặc cơ quan liên quan khác bảo vệ nạn nhân là NCTN và bảo đảm thông tin về nơi ở của NCTN không bị tiết lộ.
(vii) Quyền được bảo vệ tránh bị tổn thương khi tham gia vào quy trình tố tụng của một vụ án
Luật sư cần phải nhạy cảm khi làm công tác hỗ trợ nạn nhân là NCTN, để có thể:
- Hỗ trợ cho nạn nhân là NCTN, bao gồm việc đồng hành cùng các em trong suốt quá trình tham gia vào quá trình tố tụng.
- Cung cấp thông tin cụ thể và chính xác nhất có thể về quá trình tố tụng, bao gồm thông tin về việc quy trình tố tụng sẽ diễn ra như thế nào.
- Nỗ lực và cố gắng để phiên tòa được tổ chức sớm nhất có thể trừ khi việc hoãn xét xử là vì lợi ích cao nhất của NCTN là nạn nhân; đề nghị với Tòa án bố trí lịch xét xử vào thời điểm phù hợp với độ tuổi và mức độ trưởng thành của NCTN; đề xuất với Tòa án về việc chỉ để NCTN xuất hiện trước tòa khi cần thiết cũng như đề nghị Tòa án áp dụng các biện pháp phù hợp khác khi NCTN phải xuất hiện để cung cấp lời khai ( như hạn chế số lần lấy lời khai).
(viii) Quyền được hưởng biện pháp khắc phục hậu quả
- Nạn nhân là NCTN phải được hưởng các biện pháp khắc phục hậu quả để đảm bảo họ được đền bù đầy đủ, tái hòa nhập và phục hồi. Thủ tục yêu cầu và thực thi biện pháp khắc phục phải dễ tiếp cận và đảm bảo tính nhạy cảm với trẻ em.
- Biện pháp khắc phục có thể bao gồm thủ phạm phải bồi thường theo yêu cầu của tòa hình sự, trợ giúp từ các chương trình của Nhà nước và bồi thường theo các quy trình tố tụng dân sự.
Mặc dù các quyền trên của NCTNLNN về cơ bản đã được cụ thể hóa vào các quy định cụ thể của pháp luật chuyên ngành liên quan, nhưng nếu luật sư hỗ trợ  hiểu rõ các quyền này, việc hỗ trợ cho NCTN sẽ  không chỉ đơn thuần là sự áp dụng pháp luật một cách thuần túy mà còn là sự thấu hiểu và chia sẻ cùng các em và điều này sẽ giúp cho việc hỗ  trợ pháp lý trở nên hiệu quả và ý nghĩa hơn.
Những điểm cần ghi nhớ
  1. quyền cơ bản của NCTN trong hoạt động tố tụng:
(i) Quyền được tôn trọng nhân phẩm và được đối xử với lòng trắc ẩn
(ii) Quyền được bảo vệ khỏi hành vi phân biệt đối xử
(iii) Quyền được thông tin
(iv) Quyền được trợ giúp một cách hiệu quả
(v) Quyền riêng tư
(vi) Quyền được an toàn
(vii) Quyền được bảo vệ tránh bị tổn thương khi tham gia vào quy trình tố tụng của một vụ án
(viii) Quyền được hưởng biện pháp khắc phục hậu quả
 
2. Hiểu tâm lý NCTN là nạn nhân của sự vi phạm pháp luật
Chúng ta biết rằng hành vi, cách ứng xử của con người nói chung và người chưa thành niên nói riêng luôn chịu sự chi phối của đời sống tâm lí và  đặc điểm của mỗi cá nhân trong hoàn cảnh xã hội của mỗi người.
 Vậy đối với những NCTNLNN thì tâm lý của họ thường như thế nào? và luật sư cần quan tâm đến những vấn đề gì trong tâm lý của họ?
Theo nhiều nghiên cứu thì tâm lý của NCTNLNN thường rất phức tạp. Họ có rất nhiều những phản ứng trái với các phản ứng thông thường khi họ là đối tượng của bạo lực, đặc biệt là lạm dụng tình dục. Cụ thể:
Giữ bí mật:
Thông thường, người bị hại sẽ rất mong muốn tìm kiếm sự giúp đỡ từ người khác. Nhưng đối với phần lớn NCTNLNN, họ sẽ cư xử ngược lại. Phần lớn NCTNLNN sẽ không nói với ai về các vấn đề họ gặp phải
Người chưa thành niên là người bị hại của bạo lực, tấn công tình dục hoặc lạm dụng có xu hướng giữ kín việc bị lạm dụng bởi rất nhiều lý dó, đó có thể là sợ hãi thủ phạm, sợ không được tin tưởng, bị đe dọa hoặc hối lộ từ kẻ phạm tội, sợ hãi bị trừng phạt hoặc sợ rằng nếu tố cáo sẽ khiến bản thân và người xung quanh gặp rắc rối; sợ hãi bị từ chối hoặc giận dữ từ cha mẹ, đặc biệt nếu thủ phạm là người trong gia đình.
Bất lực
So với người thành niên, NCTN thường ở vị thế bất lực, yếu thế vì các em có cơ thể nhỏ bé hơn, ở địa vị phụ thuộc, cũng như chưa đủ trưởng thành về cảm xúc. Vì ngay từ khi còn nhỏ, NCTN thường đã được dạy phải nghe lời người lớn, đặc biệt các thành viên trong gia đình hoặc ai đó có quyền lực, hơn tuổi... do đó, NCTNLNN thường không chống cự, la khóc, kêu cứu hay cố bỏ trốn. Thay vì như vậy, cách ứng xử phổ biến của NCTNLNN là cố che giấu hoặc giả vờ ngủ. Người chưa thành niên nếu liên tục bị xâm hại sẽ cảm thấy không có khả năng thoát khỏi hiện trạng này.
Chấp nhận
NCTNLNN khi phải trải qua việc lạm dụng bị lặp đi lặp lại có xu hướng cảm thấy bị mắc kẹt trong tình trạng này, họ cảm thấy bất lực và họ học cách chấp nhận tình huống để tồn tại. Có rất nhiều cách khác nhau để họ thích ứng và chấp nhận việc bị xâm hại, từ việc “đóng cửa” cảm xúc và thể hiện không như không có vấn đề gì, chạy trốn, tự làm hại bản thân, lạm dụng chất kích thích, hoặc có hành động gây gổ đối với người xung quanh. Ngoài ra, họ còn có thể có những ứng xử trái với lẽ thông thường theo hình dung của đa số mọi người, ví dụ như vẫn duy trì liên lạc với thủ phạm, không phản đối việc phải ở cùng thủ phạm, hay có những cảm xúc trái ngược về thủ phạm. Theo lẽ thông thường, chúng ta thường nghĩ rằng người bị hại sẽ cố gắng để tránh tiếp xúc với người xâm hại mình thì  điều này thường lại không xảy ra với NCTN, đặc biệt là nếu NCTNLNN đó bị phụ thuộc vào thủ phạm, sợ hãi kẻ đó, có một sự gắn kết về tình cảm với thủ phạm, hoặc bị thủ phạm dụ dỗ khiến cho họ tin rằng hành vi xâm hại là điều bình thường, là một cách thể hiện “tình yêu” hoặc bởi vì họ là “đặc biệt”.Một số NCTNLNN bắt đầu đổ lỗi cho bản thân về những việc đã xảy ra, thể hiện ra bên ngoài bằng những hành vi nhất định. Ví dụ, các em gái thường sẽ phản ứng bằng cách lảng tránh, tự làm hại bản thân, tự tử, chạy trốn, hay lạm dụng ma túy/chất kích thích. Các em trai sẽ bộc lộ cảm xúc bất lực và tức giận của minh thông qua bạo lực, gây gổ, phạm pháp và lạm dụng ma túy/ chất kích thích.
Trì hoãn tố giác hoặc chỉ tố giác một phần
Một số NCTNLNN sẽ không bao giờ tiết lộ về hành vi xâm hại, đặc biệt là xâm hại tình dục. Hầu hết các em ở những vụ án này được phát hiện là thông qua người thân của người bị hại hơn là trực tiếp do các em nói ra. Đối với những em chủ động tố giác thì thông thường chỉ làm như vậy sau một thời gian trì hoãn rất dài (trung bình là 2 năm).Người lớn thường cho rằng một NCTN bình thường, trung thực sẽ ngay lập tức tố giác hành vi xâm hại và tìm kiếm sự giúp đỡ, tuy nhiên thực tế thường không phải như vậy. NCYNLNN thường sẽ không nói tất cả một lúc mà trong lần khai báo đầu tiên, các sự việc có thể sẽ rời rạc, phân tán và nghe không thuyết phục.
Các em gái gặp nhiều khó khăn hơn khi trình báo việc bạo hành và tìm kiếm sự giúp đỡ. Thói quen im lặng về các vấn đề bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái và xâm hại tình dục lại là một rào cản nữa cản trở trẻ em gái tố giác hành vi xâm hại đối với mình. Bên cạnh đó còn có áp lực từ gia đình và xã hội khiến cho người bị hại tiếp tục im lặng; tư tưởng ưu tiên sự gắn kết trong gia đình hay cộng đồng hơn là quyền lợi của trẻ em gái cũng là một nguyên nhân nữa của tình trạng này. Trường hợp các em gái muốn tìm kiếm sự giúp đỡ, nhưng nếu bị cơ quan điều tra đối xử một cách vô cảm thì có thể các em sẽ quyết định không theo đuổi công lý nữa.
 Phủ nhận hoặc thay đổi lời khai
Đây là hội chứng CSAAS – hội chứng trẻ bị lạm dụng tình dục dần quen và chấp nhận hành vi này khi bị lạm dụng quá nhiều lần. Hội chứng này có thể lý giải hành vi của trẻ.
Việc NCTNLNN thay đổi lời khai, phủ nhận việc phạm tội đã xảy ra với mình hoặc từ chối tham gia vào quá trình tố tụng hình sự sau khi đã tố giác, diễn ra khá phổ biến. Thông thường, điều này không phải là do tố giác ban đầu không đúng mà nguyên nhân thường đến từ những lý do sau: có thể vì họ bị thủ phạm đe dọa hoặc dụ dỗ, áp lực từ gia đình hoặc cộng đồng, cảm giác có lỗi; đặc biệt nếu thủ phạm là một thành viên trong gia đình, cha mẹ thường không tin tưởng vào lời nói của NCTNLNN; hoặc cha mẹ và các thành viên trong gia đình đổ lỗi cho NCTNLNN đã gây ra rắc rối cho gia đình.
Nhiều đối tượng phạm tội đã rất có ý thức để xóa dấu vết, hoặc đe dọa, khống chế khiến nạn nhân và gia đình của họ lo sợ bị trả thù. Đồng thời, một yếu tố quan trọng trong các vụ xâm hại tình dục trẻ em là dụ dỗ. Kẻ xâm hại có thể điều khiển đứa trẻ, không được kể cho ai và thường rất khó để tòa án hiểu tường tận.
Thông tin, chứng cứ hạn chế
Việc phát hiện và chứng minh hành vi phạm tội phụ thuộc rất nhiều vào lời khai của nạn nhân. Tuy nhiên, vì nạn nhân là NCTN, nhất là những trường hợp nạn nhân là trẻ em nên họ chưa đủ nhận thức, từ đó dẫn đến việc đưa ra lời khai không thống nhất và khó xác thực, trong khi những vụ án loại này thường để lại rất ít dấu vết nên không thể thu thập chứng cứ vật chất. Nhiều vụ khi phát hiện có dấu hiệu  vi phạm pháp luật thì thời gian xảy ra đã lâu, do đó việc lưu vết cũng như việc thu thập chứng cứ rất khó khăn (vùng kín bị sẹo hóa, không thu được tinh dịch...); nếu không có Camera ghi lại rõ ràng hình ảnh, không có người làm chứng.. thì gặp rất nhiều trở ngại trong việc chứng minh hành vi phạm tội.
Từ những đặc điểm tâm lý như vậy của NCTNLNN, luật sư cần làm gì để có được sự hợp tác tốt nhất từ phía NCTNLNN?
Trước hết, khi làm việc với NCTNLNN, điều quan trọng đối với luật sư là luật sư cần hiểu được những phản ứng như nêu ở trên là những phản ứng thường xảy ra ở NCTNLNN,Việc họ có các hành vi như giữ bí mật, trì hoãn việc khai báo, thay đổi lời khai, duy trì mối liên hệ với thù phạm không hẳn đã là biểu hiện của sự lừa dối.. Hiểu được những phản ứng thông thường của NCTNLNN sẽ giúp cho luật sư có đánh giá chính xác hơn về độ tin cậy của các bằng chứng và hiểu mình sẽ cần làm gì để thiết lập được mối quan hệ tốt đẹp với NCTNLNN.
Ngoài ra, với tâm lý như vậy ở NCTNLNN, luật sư cũng nên thể hiện sự thân thiện, tôn trọng đối với các em. Điều này sẽ giúp cho luật sư thuận lợi hơn trong việc tiếp cận được các thông tin từ NCTNLNN, từ đó có cơ hội đánh giá đúng bản chất của vụ việc và có phương án bảo vệ NCTNLNN phù hợp. Luật sư không nên căn vặn lý do vì điều này dễ khiến các em có mặc cảm các em cũng có lỗi trong việc các em trở thành nạn nhân, từ đó có thể dẫn đến việc các em trở nên khó cởi mở, e ngại và thiếu tin tưởng vào sự trợ giúp của luật sư.
Những điều cần ghi nhớ:
(i) Phản ứng của NCTNLNN có nhiều điều không giống nạn nhân là người trưởng thành. NCTNLNN thường giấu diếm, cam chịu; nếu họ tố cáo thì có thể chỉ tố cáo một phần sự thật và hay thay đổi lời khai.
(ii) Luật sư không nên nhầm lẫn coi đó là sự không trung thực của NCTNLNN. Ngược lại, luật sư cần thân thiện và thể hiện sự quan tâm, tôn trọng NCTNLNN để xây dựng mối quan hệ thân thiện với NCTNLNN, giúp NCTNLNN yên tâm, cởi mở chia sẻ vấn đề của họ với luật sư.
 
 
3. Kỹ năng bảo vệ bí mật cá nhân của NCTN là nạn nhân của sự vi phạm pháp luật:
Thực chất, dù bảo vệ quyền lợi cho NCTNLNN dưới bất kỳ hình thức nào: trợ giúp pháp lý hay là khách hàng thông qua việc ký hợp đồng thuê luật sư thì NCTN LNN đều được xác định là khách hàng ( hay còn gọi thân chủ ) của luật sư. Có nghĩa là trong mọi trường hợp, luật sư đều phải tuân thủ nghĩa vụ bảo vệ bí mật của khách hàng theo quy định của pháp luật.[1]
(i) Trách nhiệm giữ bí mật thông tin khách hàng của luật sư
Thông tin của khách hàng là những tin tức, thông điệp khách hàng truyền đạt (nói, viết, trao đổi, tiết lộ) cho luật sư trong quá trình tiếp xúc, trao đổi giữa luật sư và khách hàng hoặc do luật sư biết được, thu thập được trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ việc của khách hàng. Thông tin về khách hàng (trong mối quan hệ giữa luật sư và khách hàng) là những gì khách hàng đã biết hoặc do luật sư thu thập được bằng các biện pháp hợp pháp trong quá trình giải quyết vụ việc. Đó có thể là thông tin cá nhân của NCTNLNN, các thông tin liên quan đến hoàn cảnh gia đình của NCTNLNN, hoản cảnh dẫn đến việc NCTNLNN trở thành nạn nhân và đặc biệt là các thông tin liên quan đến quá trình họ bị người vi phạm pháp luật đối xử...v.v.Việc giữ bí mật thông tin khách hàng là một trong những nét đặc thù của nghề luật sư. Đó không chỉ là một đòi hỏi của thực tiễn, mang tính tự nhiên, tất yếu trong mối quan hệ nghề nghiệp giữa luật sư với khách hàng mà còn là một quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư.
(ii) Nội dung chính của nguyên tắc giữ bí mật thông tin về khách hàng của luật sư
Nguyên tắc giữ bí mật thông tin về khách hàng của luật sư bao gồm các nội dung chính như sau:
Thứ nhất: luật sư không được tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề [4]
Thứ hai: Đối với các chủ thể khác ngoài luật sư và khách hàng, luật sư phải hạn chế các khả năng những thông tin về khách hàng bị tiết lộ, bị xâm phạm. Đối với các luật sư cùng hành nghề trong một tổ chức hành nghề luật sư (Văn phòng luật sư hoặc Công ty luật), không chỉ bản thân luật sư tiếp nhận, thụ lý giải quyết vụ việc của khách hàng phải giữ bí mật thông tin về khách hàng mà các luật sư khác trong cùng tổ chức hành nghề luật sư cũng phải giữ bí mật thông tin về khách hàng của tổ chức mình.
Luật sư có trách nhiệm giữ bí mật thông tin về khách hàng trong lúc đang thụ lý giải quyết vụ việc cho đến sau khi vụ việc đã kết thúc
Việc giữ bí mật cho khách hàng là NCTNLNN còn đặc biệt quan trọng bởi chính sự đặc biệt của chủ thể mà luật sư đang hỗ trợ. Vì NCTNLNN vẫn chưa trưởng thành đầy đủ về tâm sinh lý, còn non nớt về nhận thức nên họ là những người đặc biệt dễ bị tổn thương. Những thông tin nhạy cảm liên quan đến NCTNLNN nếu không được tôn trọng và giữ bí mật có thể làm  ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống cũng như sự phát triển bình thường của họ, thậm chí có thể dẫn đến những hậu quả rất đáng tiếc.
Hiện nay, vẫn còn một số quan điểm khác nhau về việc bảo mật thông tin, Do đó, khi hỗ trợ pháp lý cho NCTNLNN, luật sư nên quan tâm đến những nội dung sau:
(i) Luật sư nên hạn chế có những ứng xử dễ dẫn đến tình trạng trạnh cãi về tính hợp pháp của hành vi ( của luật sư) trong việc cung cấp thông tin, xuất phát từ ý nghĩa của việc bảo mật thông tin cho NCTNLNN như đã nêu ở phần trên,
(ii) Luật sư nên trao đổi và thống nhất với NCTNLNN, đặc biệt là người đại diện hợp pháp của họ về nguyên tắc làm việc giữa các bên (luật sư, NCTNLNN, gia đình của NCTNLNN) trong trong việc cung cấp và bảo mật thông tin. Ví dụ như các bên sẽ chuyển giao thông tin cho nhau như thế nào, các hình thức chuyển giao thông tin, những ai là người có trách nhiệm về các thông tin cung cấp cho luật sư.v.v...
(iii) Đặc biệt nhấn mạnh nghĩa vụ bảo mật thông tin của luật sư để NCTNLNN và gia đình của họ an tâm, sẵn sàng chia sẻ thông tin cho luật sư.
(iv) Tư vấn cho NCTNLNN và gia đình của họ cách giao tiếp và chia sẻ thông tin với cơ quan truyền thông ( nếu có).
(v) Giải thích những trường hợp luật sư sẽ phải có trách nhiệm cung cấp thông tin cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Những điều cần ghi nhớ:
(i) Luật sư có nghĩa vụ giữ bí mật về các thông tin của khách hàng mà luật sư biết được trong quá trình bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho khách hàng.
(ii) Thống nhất với khách hàng về các phương pháp truyền đạt, trao đổi thông tin cũng như đầu mối của khách hàng trong việc trao đổi thông tin với luật sư.
(iii) Thống nhất với khách hàng về các trường hợp luật sư buộc phải cung cấp thông tin cho khách hàng theo quy định của pháp luật.
(iv) Hỗ trợ, hướng dẫn cho NCTNKNN, người đại diện của họ cách giao tiếp và chia sẻ thông tin với truyền thông
 
 
4. Kỹ năng làm việc với đại diện hợp pháp của NCTN là nạn nhân của sự vi phạm pháp luật.
Trong quá trình giao tiếp, trao đổi với đại diện hợp pháp của bị hại là NCTN, luật sư cần lưu ý một số vấn đề sau:
(i) Trao đổi với gia đình bị hại ngoài việc chăm sóc, điều trị cần thường xuyên động viên người bị hại (nhất là trước và sau khi được lấy lời khai, đối chất, đi giám định…).
(ii) Lưu ý gia đình phải theo dõi diễn biến tâm lý, động viên người bị hại, thậm chí chủ động giúp người bị hại tiếp cận các dịch vụ trị liệu tâm lý. Gia đình cần hiểu được đặc điểm tâm lý đặc thù của bị hại như: có thể manh động tiếp cận người phạm tội hoặc gia đình họ để trả thù; cô lập bản thân, xa lánh người xung quanh và rơi vào trạng thái trầm cảm…
(iii) Luật sư chưa nên trả lời ngay các câu hỏi của đại diện gia đình bị hại về tội danh, trách nhiệm hình sự, về các biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với người phạm tội là người chưa thành niên do chưa đủ thông tin, trước sự sốt sắng của gia đình bị hại, nên động viên họ yên tâm và kiên trì trong quá trình theo đuổi công lý, tham gia tố tụng. Trước hết, luật sư nên chỉ dẫn cho họ về trình tự của việc giải quyết một vụ án hình sự, các quyền của bị hại và người đại diện của bị hại, những việc mà người đại diện có thể làm và nên làm cho con em họ.
(iv) Khi trao đổi với đại diện gia đình bị hại, luật sư nên khuyên họ lưu giữ các chứng từ, hoá đơn, biên lai, biên nhận về việc điều trị, mai táng làm cơ sở cho việc yêu cầu bồi thường thiệt hại. Nếu có thể chấp nhận được thì nên ứng xử có lý, có tình, có văn hoá với người phạm tội, mở ra cơ hội hoà giải, cho người phạm tội cơ hội được bồi thường thiệt hại, sửa chữa lỗi lầm mà họ đã gây ra.
(v) Nếu người bị hại là nạn nhân của tội phạm bạo lực, tình dục, luật sư lưu ý gia đình có thể liên hệ với nhà trường, tổ dân phố để vận động những người xung quanh không bàn tán, bình luận về việc người bị hại bị xâm hại, tránh gây nên những tổn thương khác về tinh thần cho người bị hại, đề nghị nhà trường tạo điều kiện cho bị hại được học lại, học bù sau thời gian nghỉ điều trị, phục hồi tâm lý. Nếu bị hại và gia đình họ thường xuyên nhận được thư, tin nhắn, điện thoại đe dọa, khống chế, cần hướng dẫn gia đình ghi âm, sao lưu để kịp thời đề xuất cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp bảo vệ thích hợp.
Trong các vụ án xâm phạm tính mạng, được thực hiện với lỗi cố ý như vụ án giết người, …khi nạn nhân đã chết, bị hại đến mời Luật sư thường là những người thân thích, người đại diện của nạn nhân. Vào thời điểm vụ án vừa mới xảy ra, nỗi đau mất người thân còn chưa kịp nguôi ngoai, họ mang trong mình nỗi bức xúc cao độ, thậm chí sự căm thù đối với người phạm tội, kẻ đã cướp đi tính mạng người thân của họ. Xuất phát từ trạng thái tâm lý như vậy nên những người đại diện cho bị hại trong các vụ án giết người thường mong muốn pháp luật phải xử lý nghiêm minh đối với người phạm tội. Thậm chí có người vì quá bức xúc còn yêu cầu Luật sư phải yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền phải tuyên án “tử hình” kẻ phạm tội để “đền mạng” cho người thân của họ. Do vậy,  luật sư cần biết lắng nghe, chia sẻ với những nỗi đau, thiệt hại mà bị hại đã phải gánh chịu, từ đó, có những lời tư vấn, khuyên nhủ, động viên có tình, có lý, đúng quy định pháp luật.
Ngoài ra, luật sư cũng cần chuẩn bị tâm lý để xử sự hợp lý khi gặp trường hợp đại diện gia đình nạn nhân lúc đầu thường rất gấp gáp và tha thiết yêu cầu Luật sư bằng mọi cách bảo vệ quyền lợi cho con em họ, mong muốn người vi phạm pháp luật phải bị trừng trị nghiêm khắc, nhưng sau đó lại thay đổi, thậm chí làm đơn bãi nại cho người vi phạm hoặc từ chối luật sư vì những tác động của phía người vi phạm...v.v
Những điều cần ghi nhớ:
(i) Hướng dẫn, trao đổi với đại diện của NCTNLNN việc quan tâm đến NCTNLNN, đặc biêt là quan tâm đến tâm lý của NCTNLNN để chăm sóc, động viên, hỗ trợ NCTNLNN kịp thời.
(ii)Hướng dẫn người đại diện của NCTNLNN lưu giữ các căn cứ, tài liệu phục vụ cho vụ án.Không hứa hẹn kết quả theo mong đợi của người đại diện cho NCTNLNN.
(iii) Có phương án cho trường hợp người đại diện cho NCTNLNN thay đổi yêu cầu của họ.
 
 
5. Kỹ năng đặt câu hỏi với NCTN là nạn nhân của sự vi phạm pháp luật
Để có thể thực hiện tốt việc hỗ trợ tư pháp cho NCTN là nạn nhân của sự vi phạm pháp luật, việc đặt câu hỏi để lấy lời khai của nạn nhân là vô cùng quan trọng, bởi  những thông tin do nạn nhân cung cấp là một trong các căn cứ để có thêm điều kiện cần thiết nhằm bảo vệ các em, để có thể tìm được gia đình các em, để bắt giữ và khởi tố đối tượng phạm tội và để giám sát toàn bộ quá trình Giải cứu – Phục hồi – Hồi hương – Hòa nhập của trẻ sau khi bị rơi vào hoàn cảnh bị bóc lột hoặc xâm hại, lợi dụng hoặc bị buôn bán.
Tuy nhiên, việc lấy lời khai của NCTNLNN cũng vô cùng thách thức và đòi hỏi sự cẩn trọng.
Trong thực tế, có nhiều yếu tố khiến công tác lấy lời khai của NCTNLNN gặp nhiều khó khăn. Thông thường, thông tin phải được thu nhập thật nhanh  sau khi có hành vi vi phạm pháp luật, nhưng đây lại chính là thời điểm mà NCTN khó có thể cung cấp thông tin. Khả năng cung cấp thông tin đầy đủ và xác thực của NCTN bị chi phối bởi tình trạng thể chất và tinh thần và những vấn đề khiến họ mất lòng tin, sợ hãi hoặc im lặng. Do đó, trong một số trường hợp thông tin thu thập được không đầy đủ hoặc có sai sót và trong một số trường hợp khác, việc sử dụng kỹ thuật lấy lời khai không phù hợp có thể tạo ra tác động tiêu cức tới trạng thái và các quyền của NCTNLNN.
Trong việc lấy lời khai nạn nhân của NCTN, luật sư nên quan tâm đến một số các các nguyên tắc có tính định hướng khi đưa ra các câu hỏi đối với NCTN trong quá trình điều tra, xét xử.
Trước hết, dù đặt câu hỏi dưới hình thức nào và ở giai đoạn nào thì nên xác định là mọi vấn đề đều nhằm hướng đến việc bảo vệ lợi ích cao nhất của NCTNLNN do đó,  các câu hỏi nên tuân theo một số định hướng sau:
(i) Lấy lời khai không phải là hỏi cung. Mục đích của việc lấy lời khai là hỗ trợ trẻ tiết lộ thông tin và góp phần vào hoạt động điều tra và khởi tố đối tượng phạm tội.
(ii) Không bao giờ được gây sức ép để trẻ cung cấp thông tin.
(iii) Luôn điều chỉnh ngôn ngữ lấy lời khai cho phù hợp với độ tuổi của trẻ. Nói chuyện với trẻ em trong môi trường có tính pháp lý là một kĩ năng rất khó để thành thục và để hiểu cách trẻ em giao tiếp, điều quan trọng là phải hiểu sự phát triển nhận thức của chúng. Mặc dù những điều được liệt kê ra ở đây cũng quan trọng, nhưng nghiên cứu đã chỉ ra rằng, người làm trong ngành tư pháp sẽ không thể cải thiện được kĩ năng giao tiếp với trẻ nếu vấn đề không được giải quyết môt cách tổng quát, ví dụ như tại sao trẻ lại không hiểu được một số loại câu hỏi nhất định. Trong quá trình lấy lời khai, phải xem xét hợp lý đến giới tính của trẻ.
(iv) Phải sử dụng phiên dịch trong mọi trường hợp trẻ em là người nước ngoài, người dân tộcvà có thể là nạn nhân của nạn buôn bán người qua biên giới.
(v) Người lấy lời khai phải trung thực với trẻ và không bao giờ được đưa ra lời hứa giả dối với trẻ.
Trên có sở đó, việc đặt câu hỏi có thể thực hiện như sau: Nói chung, trong quá trinh lấy lời khai ở các giai đoạn điều tra, xét xử. Trong đó, các câu hỏi dạng câu hỏi đóng, câu hởi mở là những loại câu hỏi được áp dụng nhiều. ó nhiều loại câu hỏi được sử dụng trong quá trình điều tra, xét xử.
Câu hỏi đóng là câu hỏi đưa ra các phương án lựa chọn cố định hoặc có thể nhận được câu trả lời “có” hoặc “không”. (Lúc đó cháu ở trong phòng ngủ sao? Ông/Bà ta có làm cháu đau không?)
Câu hỏi dẫn dắt là những câu hỏi có thông tin gợi ý về câu trả lời. (Cái áo khoác đó màu đen, phải không cháu? Ông/Bà ấy cho cháu năm đô-la, đúng không cháu?)
Tuy nhiên, vì NCTN  là đối tượng đặc biệt dễ bị ảnh hưởng khi được gợi ý, có xu hướng muốn làm hài lòng người lấy lời khai và dễ thỏa hiệp.Do dó, để có thông tin xác thực,  luật sư chỉ sử dụng câu hỏi đóng, câu hỏi dẫn dắt. sau khi đã cân nhắc kỹ lưỡng và không nên cố gắng dẫn dắt trẻ trả lời theo một hướng cụ thể.
- Đặt câu hỏi ngắn và đơn giản. Luôn sử dụng ngôn ngữ đơn giản có tính đến độ tuổi, mức độ trưởng thành và phát triển trí tuệ của trẻ.
- Tránh đặt những câu hỏi đa nghĩa
- Sử dụng thể chủ động để hỏi trẻ (Ông/Bà ta đã làm gì?) thay vì sử dụng thể bị động (Chuyện gì đã được Ông/Bà ta làm?).
- Không được hỏi quá nhiều thông tin cùng một lúc; hỏi từng câu hỏi một.
- Tránh đặt câu hỏi “Tại sao” vì nó có vẻ mang sự chất vấn và có thể khiến trẻ có cảm giác tội lỗi hoặc xấu hổ và có thể khiến trẻ cảm thấy có trách nhiệm khi để bản thân trở thành nạn nhân của sự vi phạm pháp luật nào đó.
- Không bao giờ được yêu cầu trẻ diễn hoặc thể hiện lại những gì đã xảy ra với trẻ dù đó là người lấy lời khai hoặc bất cứ người nào có mặt trong buổi lấy lời khai.
Mọi hoạt động trao đổi trên phải được thực hiện trên cơ sở thông cảm với trẻ trong và môi trường phù hợp, trong đó cần xét tới nhu cầu đặc biệt của trẻ theo khả năng, độ tuổi, mức độ trưởng về thành trí tuệ và mức độ phát triển năng lực của trẻ. Những hoạt động này cũng cần phải được thực hiện bằng ngôn ngữ mà trẻ có thể sử dụng và hiểu.
Trong thực tế, ở nhiều nơi, khi tiếp cận và lấy lời khai từ NCTN, đặc biệt là trẻ em, ở nhiều nơi luật hoặc những người tiến hành tố  tụng đã sử dụng phương pháp dùng đồ chơi để hỗ trợ lấy lời khai. Những đồ chơi dễ chịu, thoải mái (được cho phép sử dụng tài tòa theo phần lớn các tòa trên thế giới) phải khác biệt với đồ chơi có tính giải phẫu – tức là những dụng cụ mang tính pháp lý. Cần phải được tập huấn trước khi sử dụng những đồ chơi này.
Tuy nhiên. Luật sư  phải cân nhắc kỹ yếu tố lợi và hại của việc sử dụng đồ chơi trong quá trình lấy lời khai/ hoặc tại phiên tòa vì một mặt đồ chơi có thể gây mất tập trung nhưng mặt khác có thể làm cho tình trạng của trẻ khá hơn và trẻ trở nên hợp tác hơn. Không sử dụng đồ chơi hoặc các dụng cụ mô phỏng khác để thể mô tả lại sự việc đã xảy ra trừ khi luật sư đã được đào tạo để sử dụng phương pháp này. Ngay cả khi có sự tham gia của cán bộ được đào tạo, đây vẫn là kỹ thuật còn gây ra nhiều tranh cãi. Đưa đồ chơi cho trẻ nếu đồ chơi giúp trẻ cảm thấy thoải mái nhưng không được suy luận hành động trẻ thực hiện với món đồ chơi đó.
Tuy nhiên, phương pháp sử dụng đồ chơi ở Việt Nam còn hạn chế, do vậy, ở một số trường hợp phù hợp ( ví dụ các tội về xâm phạm tình dục) luật sư có thể sử dụng môt phương pháp thay thế khác: để trẻ vẽ tranh và nếu trẻ còn quá nhỏ, có thể sử dụng một mẫu “hình cơ thể người” không chi tiết để trẻ vẽ thêm.
Những điều cần ghi nhớ:
(i) Mục đích của việc đặt câu hỏi: để bảo vệ cao nhất lợi ích của NCTNLNN.
(ii) Nguyên tắc khi đặt câu hỏi:
- Không gây sức ép đối với NCTNLNN để có được thông tin.
- Không hứa hẹn giả dối với NCTNLNN.
(iii) Kỹ thuật đặt câu hỏi:
- Đặt câu hỏi ngắn, đơn giản,
- Không  đặt câu hỏi đa nghĩa,
- Không đặt câu hỏi có tính chất vấn,
- Không đặt ra nhiều vấn đề trong một câu hỏi.
- Sử dụng thể chủ động để đặt câu hỏi.
- Sử dụng câu hỏi có tính dẫn dắt.
- Sử dụng từ ngữ dể hiểu và có thể sử dụng các biện pháp hỗ trợ khác.
 
 
6. Một số vấn đề cần quan tâm khi bảo vệ NCTNLNN trong một vụ án hình sự
Về cơ bản, khi tư vấn, bảo vệ quyền lợi cho NCTNLNN, luật sư  sẽ áp dụng các kỹ năng như khi giải quyết một vụ án bình thường, nhưng vì đối tượng bảo vệ là NCTNLNN nên luật sư cần có thêm một số kiến thức và kỹ năng đặc thù.
6.1. Những vấn đề cần làm ở giai đoạn trước khi mở phiên tòa:
Vi1. Những vấn đề cần làm ở giai đoạn trước khi mlàm rõ quy trình xét xử và
  • giảm thiểu sợ hãi và lo lắng liên quan đến việc làm chứng thông qua giảm thiểu căng thẳng
Viảm thiểu sợ hãi và lo lắng liên quan đến việc làm chứng thông[2]
  • đánh giá nhu cầu của trẻ liên quan đến việc trẻ xuất hiện tại tòa;
  • giúp trẻ hiểu quy trình tòa án, vai trò của trẻ và của những người tham gia khác;
  • đưa trẻ đến thăm tòa án trước phiên xét xử (hoặc sử dụng ảnh chụp hoặc sơ đồ các tòa án nếu việc thăm gặp khó khăn);
  • trang bị cho trẻ các kỹ thuật giảm thiểu căng thẳng và quản lý lo lắng;
  • thu hút sự tham gia của cha mẹ/người chăm sóc trẻ;
  • truyền đạt thông tin (bao gồm cả mong muốn của trẻ) cho những người có vai trò trong quá trình tư pháp, từ các cán bộ bảo vệ trẻ em đến các cán bộ tòa án;
  • thông báo cho trẻ và cha mẹ/ người chăm sóc em về các bước của quy trình tư pháp và đảm bảo thực hiện các sắp xếp phù hợp, chẳng hạn như đưa đón trong ngày;
  • đi cùng với trẻ vào ngày trẻ đưa ra lời khai; và
  • tổng kết lại với người làm chứng là trẻ em và cha mẹ/ người chăm sóc khi phiên tòa kết thúc.
Quá trình chuẩn bị nhằm cung cấp cho trẻ, dù là người bị hại hay người vi phạm pháp luật, những thông tin cơ bản về quá trình xét xử và những bên liên quan. Cụ thể hơn, đó là cung cấp thông tin về thuật ngữ pháp lý, nhân sự và các thủ tục. Các loại thông tin sau thường được bao gồm trong quá trình chuẩn bị:
  • tại sao mọi người ra tòa
  • vai trò của trẻ trong quá trình này
  • những người có mặt trong phòng xét xử là ai và vai trò của họ là gì
  • điều gì xảy ra tại phiên tòa
  • lời thề là gì
  • cách ứng phó với thẩm vấn chéo
  • thông tin về những điều có thể xảy ra tại tòa, ví dụ trì hoãn, phản đối, v.v.
 
Thông tin này phải được cung cấp theo cách phù hợp với sự phát triển của trẻ. Nhiều quốc gia có các tập sách và video dành cho trẻ em hoặc các chương trình chuẩn bị trước phiên tòa thực tế mà trẻ em có thể tham dự.
Để đảm bảo rằng người làm chứng là trẻ em biết vai trò của các em trước tòa, người đại diện nên:
  • giải thích rằng các em không nên trả lời những câu hỏi mà các em không hiểu
  • giúp trẻ quyết định cách thể hiện việc các em không hiểu
  • trang bị các kỹ năng về cách trả lời những câu hỏi mà các em không hiểu
  • giải thích hậu quả tiêu cực của việc trả lời những câu hỏi mà các em không hiểu
  • thực hành các chiến lược này với trẻ - đặt những câu hỏi phức tạp và đề nghị trẻ trả lời
  • giải thích rằng việc phỏng đoán là nguy hiểm
Trẻ em cần được cung cấp thông tin cho những câu hỏi sau:
  • Cháu có biết tại sao cháu phải ra tòa không?
  • Tại sao nói sự thật trước tòa lại quan trọng?
  • Điều gì xảy ra nếu một người nói dối trước tòa?
  • Hứa trước tòa nghĩa là gì?
  • Ai phụ trách phòng xét xử?
  • Công việc của thẩm phán trong phòng xét xử là gì?
Đồng thời, điều quan trọng là trẻ em phải biết chính xác những gì được mong đợi ở ở các em với tư cách là một người làm chứng. Điều này bao gôm:
  • Trẻ phải thể hiện hành vi tốt nhất của các em
  • Trẻ phải lắng nghe cẩn thận từng câu hỏi
  • Trẻ phải nói to và rõ ràng
  • Trẻ phải nói sự thật và chỉ nói những gì các em nhớ
  • Trẻ phải nói “Cháu không thể nhớ” nếu trẻ đã quên điều gì đó
  • Trẻ phải nói “Cháu không biết” khi các em không biết câu trả lời
  • Trẻ phải nói “Cháu không hiểu” nếu không hiểu câu hỏi
  • Trẻ không bao giờ được phỏng đoán câu trả lời cho một câu hỏi
Khi chuẩn bị cho trẻ trước phiên tòa, điều quan trọng là phải đối mặt với những nỗi sợ hãi mà người làm chứng là trẻ em có. Các câu hỏi sau có thể được sử dụng để lấy thông tin này:
  • Có điều gì về việc ra tòa khiến cháu lo lắng không?
  • Có ai khiến cháu lo lắng khi gặp tại tòa không? Người đó là ai?
  • Cháu có lo lắng về việc gặp rắc rối tại tòa án không?
  • Cháu có lo lắng rằng bất cứ ai có thể làm tổn thương cháu hoặc gia đình của cháu không?
  • Cháu có lo lắng về các câu hỏi không?
Quá trình làm chứng có thể gây choáng ngợp và người đại diện nên cung cấp cho trẻ những cách giải quyết vấn đề này. Các chiến lược khả thi có thể bao gồm:
  • không nhìn bị cáo nếu điều đó khiến cháu lo lắng
  • hãy nhìn vào thẩm phán hoặc công tố viên
  • hít thở sâu
không vội vàng - hãy lắng nghe cẩn thận và dành thời gian để trả lời.
CÁC CÔNG VIỆC CỤ THỂ LUẬT SƯ CẦN CHUẨN BỊ
  1. Xác định việc áp dụng pháp luật: Xem xét vụ án này có thể được khởi tố theo quy định của luật pháp Việt Nam hay không.
b. Xác định chính xác độ tuổi của nạn nhân; và bị can, bị cáo ( trong trường hợp người bị khởi tố, truy tố có NCTN) trên cơ sở các tài liệu mà cơ quan có thẩm quyền thu thập để đảm bảo sự chính xác trong việc truy tố, xét xử.
Đối với NCTNLNN thì việc xác đinh chính xác tuổi của họ sẽ là căn cứ quan trọng để đánh giá việc áp dụng tội danh cho bị can, bị cáo đã  chính xác hay chưa.Nếu cần thiết, luât sucó thể yêu cầu giám định độ tuổi của người bị hại; mức độ thiệt hại về thể chất, tinh thần của người bị hại do hành vi phạm tội gây ra…
Việc xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại là người dưới 18 tuổi được thực hiện theo nguyên tắc sau[3]
(i) Việc xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại là người dưới 18 tuổi do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện theo quy định của pháp luật.
(ii)Trường hợp đã áp dụng các biện pháp hợp pháp mà vẫn không xác định được chính xác thì ngày, tháng, năm sinh của họ được xác định:
(iii)Trường hợp xác định được tháng nhưng không xác định được ngày thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh.
(iv) Trường hợp xác định được quý nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong quý đó làm ngày, tháng sinh.
(v)Trường hợp xác định được nửa của năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong nửa năm đó làm ngày, tháng sinh.
(vi) Trường hợp xác định được năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong năm đó làm ngày, tháng sinh.
(vii)Trường hợp không xác định được năm sinh thì phải tiến hành giám định để xác định tuổi.
c. Đảm bảo đã cung cấp những thông tin cần thiết về quá trình tố tụng cho NCTBLNN cũng như cho cha mẹ, người đỡ đầu, người đại diện hợp pháp của họ để họ hiểu và nắm được quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia tố tụng.
Trong đó, hướng dẫn họ làm đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp pháp luật quy định khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại.
Hướng dẫn thu thập, xuất trình chứng cứ, tài liệu nhằm bảo vệ quyền lợi cho họ.
d. Tìm hiểu mức độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi của NCTNLNN, điều kiện sinh sống và giáo dục và nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh dẫn đến việc họ bị xâm hại.
          e.Đánh giá tính hợp pháp của các biên bản ghi lời khai của NCTN mà cơ quan có thẩm quyền đã tiến hành có đảm bảo theo quy định của pháp luật  hay không; xem xét cách đặt câu hỏi của cơ quan tiến hành tố tụng để đảm bảo các câu hỏi đều nằm trong phạm vi hợp lý với độ tuổi và mức độ phát triển của người chưa thành niên và khách quan.
Do người bị hại là NCTN  nên có hạn chế về mặt nhận thức, sự hiểu biết, việc phát hiện ra việc bị xâm hại hoặc hành hạ thường sau thời gian dài vô tình đã xoá bỏ các dấu vết, chứng cứ. Để người bị hại được bình tĩnh, ổn định tinh thần khi khai báo với cơ quan chức năng, khoản 2 Điều 421 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: Việc lấy lời khi của người bị hại dưới 18 tuổi bị xâm hại bởi các tội phạm phải có người đại diện hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ tham dự, cụ thể:(i) Khi lấy lời khai người bị hại, người làm chứng, … là người dưới 18 tuổi, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thông báo trước thời gian, địa điểm lấy lời khai cho người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.(ii) Việc lấy lời khai của người bị hại, người làm chứng phải có người đại diện hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ tham dự.
(iii) Thời gian lấy lời khai người dưới 18 tuổi không quá hai lần trong 01 ngày và mỗi lần không quá 02 giờ, trừ trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp.
(iv) Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ tiến hành đối chất giữa bị hại là người dưới 18 tuổi với bị can, bị cáo để làm sáng tỏ tình tiết của vụ án trong trường hợp nếu không đối chất thì không thể giải quyết được vụ án.
Ngoài ra, các nghiên cứu cũng nhận ra rằng ngôn ngữ mà thẩm phán, kiểm sát viên sử dụng thường vượt quá khả năng hiểu biết của người chưa thành niên. Khi người chưa thành niên được hỏi theo cách của người trưởng thành, việc hiểu nhầm hay những lỗi sai không đáng có có thể xảy ra làm giảm mức độ tin cậy của lời khai từ người bị hại. Vì vậy, luật sư cần xem xét cách đặt câu hỏi của cơ quan tiến hành tố tụng để đảm bảo các câu hỏi đều nằm trong phạm vi hợp lý với độ tuổi và mức độ phát triển của người chưa thành niên và đảm bảo sự khách quan.
g. Trong trường hợp cần thiết, trước khi tiến hành xét xử, đề nghị Tòa án xem xét, cân nhắc các tình tiết liên quan đến vụ án để quyết định có xét xử kín hay không nhằm bảo vệ quyền riêng tư và danh dự, nhân phẩm của NCTNLNN và làm giảm cảm giác sợ hãi của họ.
h. Nghiên cứu các quy định của Bộ luật hình sự về hành vi phạm tội xâm hại, các thủ tục tố tụng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại là người dưới 18 tuổi:
+ Quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại (Điều 84 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015).
+ Các biện pháp bảo vệ trẻ em trong quá trình tố tụng, xử lý vi phạm hành chính, phục hồi và tái hoà nhập cộng đồng (Chương IV Mục 4 Luật trẻ em năm 2016).
+ Khoản 1 Điều 22, Điều 27, Điều 31 của Luật luật sư.
+ Các quy định  về bị hại tại Điều 62 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
i. Tự mình thu thập thêm tài liệu, chứng cứ có liên quan để cung cấp cho cơ quan điều tra, góp phần làm sáng tỏ nội dung vụ án và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại.
k. Tham gia các hoạt động điều tra như thực nghiệm điều tra, khám nghiệm hiện trường, khai quật tử thi, khám chỗ ở, đai điểm, đối chất, nhận dạng… để giám sát hoạt động của những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng, đồng thời thu thập các thông tin, tài liệu cần thiết.
l. Ngoài ra, khi cần thiết, luật sư có quyền đề xuất các vấn đề liên quan trước khi khởi tố cũng như trong quá trình điều tra...
m. Để chuẩn bị tham gia phiên tòa, luật sư cần chuẩn bị một danh sách bao gồm:
- Văn bản luật áp dụng cho những vấn để đặt ra trong vụ án.
- Tài liệu, chứng cứ thu thập được từ việc nghiên cứu hồ sơ vụ án:
+ Các tài liệu ghi chép được khi Luật sư gặp nạn nhân;
+ Những lời khai buộc tội bị cáo của những người làm chứng, người bị hại;
+ Các tài liệu xác định vật chứng của vụ án;
+ Các tài liệu về chứng thương, giám định;
+ Các tài liệu chứng minh yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại như chứng từ, hóa đơn, biên nhận…
+ Các tài liệu Luật sư thu thập được từ việc tiếp xúc với thân nhân gia đình người bị hại… của các em.
- Xem xét vấn đề tội danh được áp dụng trong vụ án.
- Những yếu tố cấu thành tội phạm cần phải được chứng minh để chống lại (những) kẻ phạm tội trong trường hợp luật sư thấy việc truy tố tội danh với người bị truy tố là chưa chính xác.
- Tìm hiểu những lý lẽ biện hộ mà luật sư bào chữa cho bị cáo có thể sử dụng để chuẩn bị các lý lẽ, chứng cứ phản biện nhằm bảo vệ tốt nhất cho nạn nhân.
- Tìm hiểu và nhấn mạnh các nội dung khác của vụ án như các vấn đề về đồng phạm, tái phạm, các tình tiết tăng nặng...để có căn cứ thuyết phục trong việc đề xuất hình phạt đối với bị cáo nhằm đảm bảo sự công bằng cho nạn nhân.
- Các vấn đề liên quan đến bồi thường dân sự ( nếu có):  Luật sư cần căn cứ những quy định của pháp luật dân sự tại Chương XX Bộ luật dân sự năm 2015 về trách nhiệm bồi thường thiệt hại để giúp người bị hại dưới 18 tuổi và người thân của họ tập hợp tài liệu, chứng cứ xác định mức độ thiệt hại để yêu cầu bồi thường về sức khoẻ, danh dự, uy tín, nhân phẩm như chi phí cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ, chức năng bị mất, bị giảm sút của nạn nhân; chi phí hợp lý, thu nhập bị mất, bị giảm… của nạn nhân, người chăm sóc nạn nhân; các mức bồi thường…
6.2. Những vấn đề cần làm khi tham gia phiên tòa:
a. Đề xuất để Tòa án có thể sắp xếp lại đồ vật và vị trí của những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng trong phòng xử án nhằm làm giảm cảm giác căng thẳng, sợ hãi đối với người bị xâm hại là người dưới 18 tuổi.
b. Quan tâm về thành phần hội đồng xét xử cũng như những người tham gia tố tụng khác có đảm bảo theo quy định của pháp luật khi xét xử vụ án có NCTN hay không.
c. Đảm bảo sự có mặt của cha mẹ, người đỡ đầu, người đại diện hợp pháp của NCTNLNN để họ có thể hỗ trợ, động viên nạn nhân trong suốt quá trình tố tụng tại Tòa.
d. Đề xuất với Tòa án để đảm bảo người bị xâm hại là người dưới 18 tuổi, nhất là người dưới 16 tuổi nhận được sự trợ giúp chuyên môn về mặt y tế, sức khỏe, tâm lý phù hợp khi họ cần.
đ. Luật sư nên tận dụng mọi thời gian cho phép tại Tòa để tiếp xúc với NCTNLNN với thái độ thân thiện, nhẹ nhàng. Khi đặt câu hỏi hoặc các trao đổi khác nên sử dụng ngôn ngữ phù hợp với độ tuổi, giới tính, khả năng nhận thức, mức độ trưởng thành của họ. Các câu hỏi đưa ra tại phiên tòa cần đơn giản, rõ ràng để giúp cho NCTNLNN và đại diện gia đình của họ có thể hiểu và trả lời đúng câu hỏi.
Trường hợp NCTNLNN tỏ ra quá sợ hãi, không trả lời được câu hỏi hoặc mất bình tĩnh không trình bày được thì động viên giúp họ trấn tĩnh và chuyển sang xét hỏi người khác ...
e. Đề xuất với Tòa án một cách kịp thời việc áp dụng các biện pháp phù hợp tại phiên tòa để:
- Giảm đến mức thấp nhất thời gian NCTNLNN phải xuất hiện công khai tại phiên xử cũng như hạn chế đến mức thấp nhất việc tiến hành đối chất giữa người bị xâm hại là người dưới 18 tuổi với bị can, bị cáo để không làm tổn thương tâm lý, tinh thần của họ.
- Chỉ tiến hành đối chất khi thấy việc đó là cần thiết để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án mà nếu không đối chất thì không thể giải quyết được vụ án.
g. Trong phần tranh luận tại Tòa, luật sư cần có ý kiến kịp thời với Hội đồng xét xử để đảm bảo việc tranh luận, đối đáp giữa NCTNLNN với người tham gia tố tụng khác được phù hợp. Điều này giúp cho NCTNLNN tránh được những áp lực khó khăn khi họ thực hiện quyền đối đáp của mình. Trong trường hợp cần thiết, luật sư có thể chủ động đề nghị Hội đồng xét xử xem xét để cho NCTNLNN không cần thiết tham gia đối đáp.
- Nếu phát hiện những điểm còn mâu thuẫn trong bản kết luận điều tra hoặc những mâu thuẫn trong lời khai dẫn đến thiệt hại cho người bị hại dưới 18 tuổi thì đề nghị Viện kiểm sát làm rõ tính nhân quả và mức thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
- Khi thấy có căn cứ cho rằng bị cáo phạm 1 tội nặng hơn, thiệt hại mà hành vi phạm tội của bị cáo gây ra lớn hơn thì đề xuất Toà án trả hồ sơ điều tra bổ sụng.
6.3. Những vấn đề cần làm sau khi kết thúc phiên tòa
Sau phiên tòa, luật sư cần tư vấn cho NCTNLNN và người đại diện hợp pháp của họ về một số vấn đề:
a. Ý nghĩa của hình phạt đối với bị cáo, các quyết định của Tòa án về vấn đề bồi thường dân sự ( nếu có). Điều này sẽ giúp cho NCTNLNN và người đại diện của họ hiểu đúng và đầy đủ về các vấn đề mà Tòa án đã tuyên.
b. Cân nhắc việc kháng cáo hay không kháng cáo. Nếu có kháng cáo thì giúp đỡ họ thực hiện các vấn đề liên quan đến thủ tục kháng cáo theo quy định của pháp luật và tiếp tục giúp đỡ họ trong giai đoạn phúc thẩm.
 
 
 
[1] Vấn đề giữ bí mật thông tin khách hàng đã được chính phủ Việt Nam đặt ra từ rất sớm, từ Pháp lệnh tổ chức luật sư số 2A-LCT/HĐNN ngày 18/12/1987 đến  Pháp lệnh số 37/2001/PL-UBTVQH10 ngày 25/7/2001 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa X về Luật sư (Pháp lệnh Luật sư năm 2001), Luật Luật sư 2006  đều có những quy định cụ thể, hoặc thông qua quy định về điều cấm đối với luật sư để điều chỉnh về nghĩa vụ của luật sư trong việc giữ bí mật của khách hàng.
Hiên nay, Luật Luật sư năm 2012 vẫn giữ nguyên quy định về bí mật thông tin khách hàng như quy định tại Luật Luật sư năm 2006. Ngoài ra, việc giữ bí mật thông tin của khách hàng còn được điều chỉnh bởi Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của Luật sư Việt Nam”
 
[2] Plotnikoff, J. và Woolfson, R.  1998.  Chuẩn bị trước phiên tòa cho người làm chứng là trẻ em: Sổ tay cho Những người Hỗ trợ Người làm chứng là Trẻ em. NSPCC: London. 3.
[3] Theo quy định tại ĐIều 417 BLTTHS