NGHIÊN CỨU, ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC HỢP TÁC QUỐC TẾ VÀ THỰC HIỆN VAI TRÒ, NHIỆM VỤ CỦA CƠ QUAN TRUNG ƯƠNG TRONG THỰC THI CÔNG ƯỚC LA HAY 1993 VỀ BẢO VỆ TRẺ EM VÀ HỢP TÁC TRONG LĨNH VỰC CON NUÔI QUỐC TẾ TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011-2020
Sign In

NGHIÊN CỨU, ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC HỢP TÁC QUỐC TẾ VÀ THỰC HIỆN VAI TRÒ, NHIỆM VỤ CỦA CƠ QUAN TRUNG ƯƠNG TRONG THỰC THI CÔNG ƯỚC LA HAY 1993 VỀ BẢO VỆ TRẺ EM VÀ HỢP TÁC TRONG LĨNH VỰC CON NUÔI QUỐC TẾ TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011-2020

I. CÔNG TÁC HỢP TÁC QUỐC TẾ
1. Công ước La Hay 1993 và pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực nuôi con nuôi
1.1. Yêu cầu về hợp tác quốc tế theo Công ước La Hay 1993
Hợp tác quốc tế là một trong những nguyên tắc trụ cột của Công ước La Hay 1993. Mục đích của việc xây dựng Công ước là nhằm tạo ra một văn kiện đa phương để xác định các nguyên tắc cốt lõi trong việc bảo vệ trẻ em thông qua thiết lập một khuôn khổ pháp lý cho hoạt động hợp tác giữa các Nước gốc và Nước nhận. Cơ chế hợp tác quy định trong Công ước là một cơ chế mà tất cả các Nước ký kết cùng hành động để bảo vệ trẻ em, bao gồm:
(i) Hợp tác giữa các Cơ quan Trung ương: Điều 6(1) của Công ước quy định rằng mỗi Nước ký kết “chỉ định một Cơ quan Trung ương có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của Cơ quan Trung ương theo quy định của Công ước. Cơ quan Trung ương cần hợp tác chặt chẽ với nhau để có thể trao đổi tất cả các thông tin liên quan đến việc bảo vệ trẻ em được cho làm con nuôi quốc tế. Các Cơ quan Trung ương phải trực tiếp áp dụng tất cả các biện pháp thích hợp nhằm cung cấp thông tin pháp luật về nuôi con nuôi của Nước mình và những thông tin chung khác như các số liệu thống kê và các biểu mẫu chuẩn; thông tin cho nhau về việc thực hiện Công ước và, trong chừng mực có thể, loại bỏ những trở ngại đối với việc thực hiện Công ước (Điều 7 của Công ước).
(ii) Hợp tác liên quan đến thủ tục của Công ước: một số cơ quan có thẩm quyền và tổ chức tham gia công tác bảo vệ trẻ em, trong hoặc ngoài khuôn khổ nuôi con nuôi quốc tế phải hợp tác với nhau ở cấp độ quốc gia để đáp ứng yêu cầu của Công ước và hỗ trợ quá trình trong và sau khi giải quyết việc nuôi con nuôi quốc tế, bao gồm cả việc theo dõi báo cáo về tình hình phát triển của con nuôi.
(iii) Hợp tác ngăn ngừa sự lạm dụng và không tuân thủ Công ước: các Cơ quan Trung ương có nghĩa vụ ngăn chặn tất cả những hành vi trái với mục tiêu của Công ước. Các nước và Cơ quan Trung ương cần hợp tác để bảo đảm việc cho nhận con nuôi nằm trong khuôn khổ của Công ước và loại trừ những trường hợp lẩn tránh Công ước (Điều 8 của Công ước).
Lưu ý rằng, Cơ quan Trung ương không được ủy quyền cho các tổ chức con nuôi thực hiện các chức năng quy định tại các Điều 7, 8 và 33 (các nghĩa vụ về hợp tác và phối hợp), trong khiCơ quan Trung ương có thể ủy quyền các chức năng quy định tại các Điều từ 14 đến 21 của Công ước cho các cơ quan công quyền hoặc các tổ chức được cấp phép thực hiện (các nghĩa vụ trong quá trình giải quyết hồ sơ con nuôi quốc tế)[1]. Điều này cũng cho thấy tính bắt buộc và trách nhiệm của các Cơ quan Trung ương của các nước trong việc hợp tác và phối hợp nhằm triển khai Công ước tại nước mình.
1.2. Văn bản quy phạm pháp luật trong nước về hợp tác quốc tế về nuôi con nuôi và triển khai thực hiện
Trong quá trình triển khai thực hiện Luật Nuôi con nuôi và Công ước La Hay 1993, hợp tác quốc tế luôn được coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, then chốt nhằm bảo đảm việc nuôi con nuôi quốc tế là biện pháp cuối cùng, vì lợi ích tốt nhất của trẻ em.  Khoản 4 Điều 45 của Luật Nuôi con nuôi quy định Bộ Tư pháp có trách nhiệm hợp tác quốc tế về nuôi con nuôi. Trách nhiệm hợp tác quốc tế theo Công ước La Hay 1993 được giao cho Cục Con nuôi, Bộ Tư pháp. Theo Nghị định số 96/2017/NĐ-CP của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp, theo đó điểm d khoản 16 Điều 2 quy định Bộ Tư pháp thực hiện nhiệm vụ của Cơ quan Trung ương về nuôi con nuôi quốc tế của Việt Nam.
Về việc triển khai công tác hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nuôi con nuôi ngay sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Công ước La Hay 1993, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 696/QĐ-BTP ngày 03/4/2013 phê duyệt Lộ trình hợp tác với các nước thành viên Công ước La Hay số 33 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực con nuôi quốc tế giai đoạn 2013-2015. Sau khi hoàn thành Báo cáo rà soát các Hiệp định hợp tác song phương về nuôi con nuôi đang có hiệu lực giữa Việt Nam và các nước theo Công ước La Hay 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực con nuôi quốc tế, Thủ tướng Chính phủ đồng ý với đề xuất của Bộ Tư pháp về việc tiếp tục duy trì quan hệ hợp tác song phương về nuôi con nuôi đồng thời với quan hệ hợp tác đa phương trong khuôn khổ Công ước La Hay 1993.
Do vậy, Việt Nam tiếp tục duy trì quan hệ hợp tác với các nước vừa là thành viên Công ước La Hay 1993 vừa là nước có quan hệ hợp tác song phương với Việt Nam như CH Pháp, Thụy Sỹ, Đan Mạch, Italy và Tây Ban Nha; và các nước đã có văn kiện thỏa thuận hợp tác trên cơ sở Công ước La Hay 1993 như Canada, Ailen và Cộng đồng Bỉ Pháp ngữ; đồng thời tiến tới thiết lập quan hệ hợp tác với các nước như Hoa Kỳ, Đức, Na Uy, Thụy Điển và Luxembourg.
Hiện nay, Việt Nam thiết lập quan hệ hợp tác về nuôi con nuôi quốc tế trong khuôn khổ Công ước La Hay 1993 với 14 nước là Pháp, Đan Mạch, Italy, Ailen, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Canada, Thụy Sỹ, Tây Ban Nha, Bỉ, Đức, Na Uy, Thụy Điển, Luxembourg và Man-ta. Cho đến nay, các nước đều thống nhất thiết lập quan hệ hợp tác quốc tế đầy đủ trong khuôn khổ Công ước La Hay 1993.
Ngoài ra, Việt Nam cũng đã có trao đổi với một số các nước khác như Vương quốc Anh, Hà Lan, Úc, Niu-Di-Lân và Nhật Bản, tuy chưa có quan hệ hợp tác chính thức nhưng trên thực tế, về một số trường hợp nuôi con nuôi quốc tế đặc biệt cần giải quyết.
2. Đánh giá tình hình hợp tác quốc tế trong khuôn khổ Công ước La Hay 1993
2.1. Hợp tác với các nước thành viên Công ước và với Hội nghị La Hay về Tư pháp quốc tế
Sau khi chính thức trở thành thành viên của Công ước, Việt Nam đã thiết lập cơ chế hợp tác tích cực và có trách nhiệm trên phương diện song phương và đa phương với các nước thành viên của Công ước, với Hội nghị La Hay về Tư pháp quốc tế và với các tổ chức quốc tế khác có liên quan đến lĩnh vực nuôi con nuôi và bảo vệ trẻ em.
- Hợp tác với các Nước nhận có quan hệ hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế:
+ Cục Con nuôi luôn duy trì việc cung cấp, trao đổi thông tin, chính sách, pháp luật, số liệu thông kê (nếu được yêu cầu); đồng thời, phối hợp tác chặt chẽ với Cơ quan Trung ương của 14 nước có quan hệ hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế để đảm bảo quy trình giải quyết cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài và quá trình sau khi nhận con nuôi được tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả cao, bảo vệ lợi ích tốt nhất cho trẻ em Việt Nam được nhận làm con nuôi nước ngoài.
Việc trao đổi thông tin, liên lạc giữa Cục Con nuôi với Cơ quan Trung ương của 14 nước là thường xuyên, được thực hiện theo cách thức linh hoạt: gặp gỡ họp mặt trực tiếp thông qua các Đoàn công tác liên ngành của Việt Nam tại các nước nhận hoặc thông qua các Đoàn công tác của Cơ quan Trung ương nước Nhận tại Việt Nam, thông qua trao đổi Công hàm, Công văn, email, fax, điện thoại…Việc thông tin, trao đổi kịp thời giữa hai bên đã giúp cho các bên nắm bắt được về chính sách, quy định pháp luật, tình hình giải quyết nuôi con nuôi nói chung (thủ tục giải quyết hồ sơ, vấn đề hỗ trợ của cha mẹ nuôi và các tổ chức con nuôi, vấn đề phối hợp trong việc đề nghị và cung cấp thông tin về nguồn gốc của trẻ em được nhận làm con nuôi…) và từng trường hợp cụ thể đang gặp vướng mắc để nhanh chóng tháo gỡ nói riêng và điều này đã mang lại hiệu quả tích cực trong quá trình hợp tác.
+ Song song với việc hợp tác chặt chẽ với Cơ quan Trung ương của các nước, Cục Con nuôi cũng đã duy trì mối quan hệ chặt chẽ, tích cực với Đại Sứ quán của 14 nước tại Việt Nam. Trong 10 năm qua, Đại sứ quán các nước chính là những kênh hỗ trợ quan trọng trong thủ tục giải quyết cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài (thông tin kịp thời về tình hình giải quyết nuôi con nuôi của Việt Nam với Nước nhận hoặc tiến hành các thủ tục nhất định như cấp visa cho trẻ em Việt Nam được nhận làm con nuôi…). Điển hình như năm 2019, sau khi Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 24/2019/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 19/2011/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết thi hành Luật Nuôi con nuôi, Cục Con nuôi đã dịch Nghị định 24/2019/NĐ-CP và bản tóm tắt những điểm mới của Nghị định sang tiếng Anh, gửi tới tất cả 14 Cơ quan Trung ương để thông tin và tổ chức cuộc họp thông tin về những nội dung thay đổi của Nghị định này đối với Đại Sứ quán của các nước có quan hệ hợp tác với Việt Nam, UNICEF và các tổ chức con nuôi nước ngoài được cấp phép hoạt động tại Việt Nam. Sự kiện tiêu biểu gần đây nhất là việc Cục Con nuôi đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan, các đơn vị trong Bộ trao đổi, phối hợp với Phái đoàn Liên minh Châu Âu tại Việt Nam, Đại Sứ quán 06 nước Châu Âu để tổ chức thành công việc đón 37 gia đình nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam để giao nhận con nuôi tập trung (do tình hình đại dịch Covid-19 xảy ra, các cha mẹ nuôi đã có Quyết định cho nhận con nuôi nhưng chưa thể vào Việt Nam để nhận bàn giao con nuôi) theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
Phái đoàn Liên minh Châu Âu tại Việt Nam, Đại Sứ quán 06 nước Châu Âu đã đánh giá cao, đồng thời, bày tỏ sự tin tưởng và nguyện vọng muốn được tiếp tục phối hợp với phía Việt Nam để tổ chức kế hoạch đón các gia đình nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam để giao nhận con nuôi lần 2 nhằm hoàn tất thủ tục nuôi con nuôi, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của cha mẹ nuôi và bảo đảm lợi ích tốt nhất của trẻ em Việt Nam. Đại Sứ quán Ca-na-da và Hoa Kỳ tại Hà Nội cũng đã có nhiều trao đổi với Cục Con nuôi trong việc tổ chức cho cha mẹ nuôi của hai nước này vào Việt Nam để nhận con nuôi.
- Hợp tác với các Nước gốc trong khu vực có giải quyết cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài: Song song với việc hợp tác với các Nước nhận có quan hệ hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế, Việt Nam cũng thường xuyên liên lạc, trao đổi, học hỏi kinh nghiệm của các Nước gốc trong khu vực Châu Á như Trung Quốc, Phi-líp-pin, Thái Lan và chia sẻ kinh nghiệm với Hàn Quốc và Xing-ga-po…
Nhằm học tập kinh nghiệm của các Nước gốc là thành viên của Công ước La Hay được đánh giá cao trong khu vực, Việt Nam đã tổ chức đoàn công tác đến làm việc tại Trung Quốc, Thái Lan (năm 2011), Phi-líp-pin (2014) để tham khảo về mô hình tổ chức của Cơ quan Trung ương, quy trình giải quyết hồ sơ cho trẻ em làm con nuôi… và hiện Cục Con nuôi vẫn giữ quan hệ tốt đẹp với các Nước gốc. Bên cạnh đó, Cục Con nuôi, với tư cách là thành viên của Công ước La Hay 1993 cũng đã chia sẻ kinh nghiệm với Hàn Quốc và Xing-ga-po, hiện là hai nước thuộc khu vực Châu Á đang chuẩn bị các thủ tục cần thiết để gia nhập Công ước La Hay 1993 trong chuyến công tác của họ tại Việt Nam lần lượt vào các năm 2018 và 2019.
- Hợp tác với Hội nghị La Hay về Tư pháp quốc tế:
Cục Con nuôi duy trì liên hệ thường xuyên với Ban Thường trực Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế theo dõi thực thi Công ước La Hay ở các nước thành viên như: cử đại diện tham gia đầy đủ các Khóa họp đặc biệt về nuôi con nuôi để kiểm điểm tình hình triển khai thực thi Công ước tại các Nước ký kết (năm 2010, 2015 và dự kiến vào năm 2022); tham dự các cuộc họp trực tuyến để góp ý vào các tài liệu của Hội nghị; đóng ý kiến để xây dựng các tài liệu, khuyến nghị, dự thảo các biểu mẫu, giấy tờ có liên quan để thực hiện tốt Công ước khi Ban thường trực Hội nghị yêu cầu; cung cấp thông tin về chính sách, pháp luật, số liệu giải quyết nuôi con nuôi hàng năm của Việt Nam và luôn đảm bảo các thông tin này được cập nhật tại trang thông tin của Hội nghị La Hay về Tư pháp quốc tế.
Ngoài việc duy trì liên hệ thường xuyên, Cục Con nuôi cũng rất tích cực phối hợp với Ủy ban thường trực Hội nghị La hay về tư pháp quốc tế trong một số hoạt động khác. Cụ thể, trong năm 2017, Cơ quan Trung ương về nuôi con nuôi của Việt Nam đã phối hợp với Ủy ban thường trực Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế và Cơ quan Trung ương về nuôi con nuôi của Pháp tổ chức Hội nghị vùng về Công ước La Hay 1993 tại khu vực Châu Á (với sự tài trợ của Cơ quan Trung ương về nuôi con nuôi của Pháp) nhằm trao đổi kinh nghiệm thực thi Công ước. Hội nghị diễn ra tốt đẹp trong vòng 03 ngày, từ 11-13/12/2017, tại Hà Nội, với sự tham dự của 31 đại biểu (của 6 nước gốc là thành viên của Công ước Lào, Căm-pu-chia, Thái Lan, Hàn Quốc, Trung Quốc và Phi-líp-pin, 02 đại biểu từ Ủy ban thường trực Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế, 02 đại biểu từ Cơ quan Trung ương về nuôi con nuôi của Pháp, đại diện của Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam, đại diện của UNICEF Việt Nam).
Cơ quan trung ương của Việt Nam đã tham gia tích cực Nhóm Công tác xây dựng cách thức thực hiện trái Công ước do Ủy ban thường trực Công ước La Hay tổ chức năm 2016, 2020 và dự kiến phiên họp thứ 3 vào năm 2021.
2.2. Hợp tác với các tổ chức quốc tế: ISS, UNICEF
Ngoài việc hợp tác với các Cơ quan Trung ương và Hội nghị La Hay về Tư pháp quốc tế, Cơ quan Trung ương của Việt Nam còn có mối quan hệ hợp tác tốt đẹp với các Tổ chức quốc tế liên chính phủ và Phi chính phủ có liên quan đến bảo vệ quyền của trẻ em như Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) và Tổ chức dịch vụ xã hội quốc tế (ISS/IRC).
UNICEF, với tư cách là đối tác chiến lược của Chính phủ Việt Nam trong công tác bảo vệ quyền của trẻ em tại Việt Nam, đã luôn đồng hành với Bộ Tư pháp (Cục Con nuôi) trong nhiều năm. UNICEF đã tăng cường và sát cánh với Bộ Tư pháp (Cục Con nuôi) nhằm hỗ trợ Việt Nam từ khi tham gia Công ước La Hay 1993, xây dựng Luật Nuôi con nuôi đến giai đoạn triển khai thực hiện Luật Nuôi con nuôi và Công ước La Hay trên phạm vi toàn quốc, thông qua các hoạt động như hỗ trợ tập huấn về Luật Nuôi con nuôi và Công ước La Hay 1993, triển khai Chương trình tìm gia đình thay thế cho trẻ em có nhu cầu chăm sóc đặc biệt năm 2011 đến năm 2013, trong đó đặc biệt phải kể đến Thông tư số 15/2014/TT-BTP hướng dẫn thủ tục tìm gia đình thay thế ở nước ngoài cho trẻ em khuyết tật, trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo, trẻ em từ 05 tuổi trở lên, hai trẻ em trở lên là anh chị em ruột cần tìm gia đình thay thế. Các năm sau đó, Cục Con nuôi tiếp tục nhận được sự hỗ trợ của UNICEF trong việc tổ chức các lớp tập huấn về nghiệp vụ giải quyết nuôi con nuôi nước ngoài nhằm tăng cường năng lực cho địa phương, xây dựng các văn bản liên quan và như hỗ trợ xây dựng Quy chế phối hợp về nuôi con nuôi giữa Bộ Tư pháp và Bộ LĐ-TBXH trong công tác giải quyết nuôi con nuôi đối với trẻ em đang được chăm sóc nuôi dưỡng tại các cơ sở trợ giúp xã hội. Hoạt động tổng kết 05 năm, 10 năm thi hành Luật Nuôi con nuôi và Công ước La Hay năm 1993 cũng được UNICEF quan tâm hỗ trợ một cách hiệu quả và thiết thực.
- Ngoài ra, Việt Nam cũng có những hoạt động hợp tác với Tổ chức xã hội quốc tế (ISS/CIR) - Ủy ban về quyền trẻ em bị tước khỏi môi trường gia đình trong dự án đánh giá việc nuôi con nuôi đối với trẻ em có nhu cầu chăm sóc đặc biệt (năm 2013, 2014); góp ý dự thảo cuốn cẩm nang về các trường hợp nhận con nuôi quốc tế thất bại...
3. Thành tựu/kết quả đạt được và những mặt còn hạn chế
3.1. Kết quả đã đạt được
Sau 10 năm thi hành Luật Nuôi con nuôi và triển khai Công ước La Hay năm 1993, Việt Nam đã:
- Thiết lập mối quan hệ tốt đẹp và tạo dựng được niềm tin của các Nước nhận là thành viên của Công ước La Hay năm 1993, sự đánh giá cao của một số nước gốc trong khu vực và khẳng định được vai trò là một thành viên tích cực, tránh nhiệm của Hội nghị La Hay về Tư pháp quốc tế. Bức tranh về nuôi con nuôi của Việt Nam đã có nhiều điểm sáng và được ghi nhận trên quốc tế.
- Củng cố và tiếp tục duy trì quan hệ hợp tác quốc tế với những nước có quan hệ hợp tác song phương với Việt Nam, tranh thủ được sự hỗ trợ từ Cơ quan Trung ương và Chính phủ của các nước (đặc biệt là vấn đề hỗ trợ kỹ thuật đã được ghi nhận trong nội dung các Hiệp định). Thực tế những năm qua cho thấy, trong quá trình thực hiện Hiệp định hợp tác song phương đã có một số nước tích cực trợ giúp Việt Nam trong việc trợ giúp kỹ thuật, đào tạo, trao đổi kinh nghiệm về con nuôi quốc tế theo quy định của Hiệp định, đặc biệt phải kể đến sự hỗ trợ phi dự án của Cơ quan Trung ương về nuôi con nuôi của Pháp (2016-2019), Ai-len (2019), Italy (2018 -2019)... để tiến hành các hoạt động tập huấn, soạn thảo tài liệu hướng dẫn các quy định về nuôi con nuôi nhằm nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ tư pháp, lao động-thương binh và xã hội trong việc giải quyết cho trẻ em làm con nuôi.
Trên cơ sở cơ chế phối hợp chặt chẽ, kịp thời giữa các bên, Việt Nam nắm bắt kịp thời các thông tin, các phản ánh của các Nước nhận về hoạt động của các Tổ chức con nuôi được cấp phép hoạt động tại Việt Nam, về các vấn đề khác có liên quan như hỗ trợ, tặng cho của cha mẹ nuôi và các tổ chức con nuôi nước ngoài… Qua đó, có những nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật nhằm điều chỉnh những hành vi thực hiện không tốt Công ước, để đảm bảo Công ước được tuân thủ tại Việt Nam.
Đồng thời, Nước nhận được kịp thời các thông tin về pháp luật, chính sách và tình hình giải quyết nuôi con nuôi của Việt Nam, qua đó, các bên hiểu nhau hơn, giải quyết được những vấn đề khác biệt về nhận thức, tạo ra sự tin tưởng của các nước đối với Việt Nam. Vì thế, việc tiến hành các thủ tục nuôi con nuôi quốc tế cũng như theo dõi tình hình phát triển của trẻ em được cho làm CNNNg được thực hiện hiệu quả, không phát sinh các vấn đề khó khăn, vướng mắc.
- Việc hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế luôn được đảm bảo thực hiện theo đúng chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về đối ngoại, quy định pháp luật, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, bảo vệ bí mật nhà nước, đảm bảo an ninh chính trị nội bộ, đảm bảo Quy chế quản lý hoạt động đối ngoại của Bộ Tư pháp.
3.2. Những tồn tại, hạn chế
Trong những năm qua, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn một số tồn tại và hạn chế trong công tác hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nuôi con nuôi, cụ thể như sau:
- Một số Cơ quan Trung ương thay đổi về nhân sự, ví dụ như tạm thời khuyết vị trí phụ trách hoặc mới bổ nhiệm người đứng đầu Cơ quan Trung ương… nhưng không cập nhật thông tin cho các Nước ký kết khác nên đã dẫn đến tình trạng chậm trễ hoặc chưa duy trì chặt chẽ mối quan hệ hợp tác với Cơ quan Trung ương về nuôi con nuôi của các nước này.
- Việc cập nhật thông tin thay đổi pháp luật, chính sách, số liệu giải quyết con nuôi… của một số nước thành viên trên trang thông tin của Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế còn chậm, do đó, trong nhiều trường hợp, Cục Con nuôi phải có thư trao đổi lại với Cơ quan Trung ương nước đối tác để đề nghị cung cấp thông tin cập nhật trong quá trình hợp tác để giải quyết hồ sơ. Điều này đôi khi cũng gây ra sự chậm trễ nhất định.
- Cơ chế họp kiểm điểm song phương theo các Hiệp định hợp tác song phương về nuôi con nuôi còn tương đối lỏng lẻo. Những hiệp định hợp tác song phương của Việt Nam với Pháp, Thụy Sỹ, Đan Mạch, Tây Ban Nha và Italy đều có điều khoản quy định về việc thành lập Nhóm công tác hỗn hợp, bao gồm đại diện ngang nhau của các Cơ quan Trung ương và các cơ quan nhà nước khác có trách nhiệm về nuôi con nuôi của mỗi Nước ký kết. Nhóm công tác hỗn hợp họp định kỳ mỗi năm một lần, lần lượt ở mỗi nước ký kết để xem xét, đánh giá việc thực hiện Hiệp định này và đưa ra các kiến nghị để giải quyết những vấn đề phát sinh. Trước khi Việt Nam tham gia Công ước La Hay, việc tiến hành họp nhóm công tác hỗn hợp định kỳ được tiến hành tương đối thường xuyên để kịp thời trao đổi, cập nhật thông tin về tình hình giải quyết con nuôi tại mỗi nước ký kết. Tuy nhiên, sau khi Việt Nam trở thành thành viên Công ước, việc họp nhóm hỗn hợp đã bị “sao nhãng”, một số nước phải 2 đến 3 năm mới tổ chức họp 01 lần (Pháp, Italy, Tây Ban Nha). Cá biệt như Đan Mạch và Thụy Sỹ, nhóm hỗn hợp của hai nước làm việc gần nhất lần lượt vào các năm 2016 và 2017. 
II. ĐÁNH GIÁ THỰC HIỆN VAI TRÒ, NHIỆM VỤ CỦA CƠ QUAN TRUNG ƯƠNG VIỆT NAM THEO CÔNG ƯỚC LA HAY 1993
Ở vị trí Nước gốc, trong giai đoạn 2012-2020, với tư cách là Cơ quan thường trực Cơ quan Trung ương Việt Nam theo Công ước La Hay 1993, Cục Con nuôi đã nỗ lực trong thực hiện nhiệm vụ, phát huy vai trò của một Cơ quan Trung ương theo Công ước La Hay 1993. Theo đó, Cơ quan Trung ương Việt Nam đã tham gia thực hiện, theo dõi toàn bộ trình tự thủ tục giải quyết nuôi con nuôi quốc tế và những vấn đề có liên quan; hướng dẫn, kiểm tra, chỉ đạo thực hiện trên phạm vi toàn quốc bảo đảm việc giải quyết nuôi con nuôi quốc tế tuân thủ Công ước La Hay 1993; thực hiện nhiệm vụ quản lý các tổ chức con nuôi nước ngoài tại Việt Nam. Cụ thể: 
1.Theo dõi trình tự thủ tục giải quyết nuôi con nuôi quốc tế, hướng dẫn, kiểm tra và chỉ đạo thực hiện trên phạm vi toàn quốc bảo đảm việc giải quyết nuôi con nuôi quốc tế tuân thủ Công ước La Hay 1993
Đây là nhiệm vụ cơ bản và quan trọng hàng đầu của Cơ quan trung ương về nuôi con nuôi quốc tế. Nhiệm vụ này được thể hiện qua những nội dung sau đây:
1.1. Bảo đảm trẻ em được ưu tiên tìm gia đình thay thế trong nước trước khi giải quyết nuôi con nuôi quốc tế và đảm bảo trẻ em đủ điều kiện cho làm con nuôi (Thực hiện nhiệm vụ theo Điều 4 Công ước La Hay 1993)
Với tư cách là Cơ quan Trung ương về nuôi con nuôi của nước gốc, Bộ Tư pháp là cơ quan đầu mối liên hệ với các cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài và chịu trách nhiệm chính trong việc bảo đảm thực thi Công ước, chính vì vậy   bảo đảm trẻ em được ưu tiên tìm gia đình thay thế trong nước trước khi giải quyết nuôi con nuôi quốc tế và đảm bảo trẻ em đủ điều kiện cho làm con nuôi là những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.
1.1.1. Chỉ giải quyết cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài khi không tìm được gia đình thay thế trong nước
Trong những năm vừa qua, qua quá trình giải quyết việc nuôi con nuôi quốc tế, Cục Con nuôi luôn đôn đốc, theo dõi, đồng thời, trực tiếp tham gia thực hiện nhiệm vụ tìm gia đình thay thế trong nước cho trẻ em trước khi giải quyết nuôi con nuôi nước ngoài. Việc tìm gia đình thay thế trong nước luôn bảo đảm được thực hiện ở địa phương và trung ương trong thời hạn 120 ngày (đối với trẻ em bị bỏ  rơi – không kể thời gian tìm thân nhân của trẻ em theo quy định của pháp luật về đăng ký hộ tịch) hoặc 180 ngày (đối với trường hợp trẻ em mồ côi hoặc trẻ em có cha mẹ đẻ nhưng cha mẹ đẻ không đủ điều kiện nuôi dưỡng). Trong quá trình thực hiện nguyên tắc này, các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam xác định rằng, không phải mọi trường hợp đều phải thực hiện lần lượt theo thứ tự tìm gia đình thay thế trong nước sau đó mới tìm gia đình thay thế ở nước ngoài. Trong những trường hợp nhất định, lợi ích tốt nhất của trẻ em chỉ có thể đạt được khi cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài, chẳng hạn trường hợp đoàn tụ gia đình; trường hợp trẻ em khuyết tật, mắc bệnh hiểm nghèo mà người trong nước không đủ điều kiện để nhận nuôi và cơ hội được nhận làm con nuôi bị hạn chế.
1.1.2. Bảo đảm trẻ em đủ điều kiện cho làm con nuôi nước ngoài
Để bảo đảm thực thi nhiệm vụ của Cơ quan trung ương theo Điều 4 Công ước La Hay 1993, căn cứ vào kết quả xác nhận trẻ em đủ điều kiện làm con nuôi nước ngoài, Cục Con nuôi đã đặc biệt tập trung vào việc kiểm tra điều kiện nuôi con nuôi, đánh giá toàn diện các khía cạnh liên quan đến trẻ em được giới thiệu làm con nuôi nước ngoài, bao gồm:
- Xem xét kỹ lưỡng điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng trẻ em ở trong nước, trong đó đặc biệt chú trọng đánh giá hoàn cảnh gia đình - xã hội của trẻ em, tình trạng sức khỏe và nhu cầu đặc biệt của trẻ em để xác định nhu cầu trẻ em cần tìm gia đình thay thế ở nước ngoài và việc cho trẻ em làm con nuôi là vì lợi ích tốt nhất của trẻ em.
- Đảm bảo có sự đồng ý của cha, mẹ đẻ hoặc người giám hộ của trẻ em và sự đồng ý phải được đưa ra theo hình thức văn bản và tuân thủ các nguyên tắc đã được quy định trong Luật Nuôi con nuôi.
- Xác minh rõ ràng về nguồn gốc của trẻ em bị bỏ rơi để đảm bảo không có hiện tượng mua bán, bắt cóc trẻ em nhằm mục đích cho làm con nuôi nước ngoài.
1.2. Lập báo cáo đánh giá việc trẻ em Việt Nam đủ điều kiện làm con nuôi nước ngoài (thực hiện nhiệm vụ theo Điều 16 Công ước La Hay 1993)
Theo Điều 16 Công ước La Hay 1993, Cơ quan trung ương của nước gốc sau khi đánh giá đầy đủ các điều kiện pháp lý, hoàn cảnh gia đình, xã hội, y tế và tâm lý, nếu thấy trẻ em đủ điều kiện cho làm con nuôi thì lập báo cáo về trẻ em để gửi Cơ quan Trung ương của nước nhận. Báo cáo về trẻ em gồm những thông tin về nguồn gốc của trẻ em, tình trạng sức khỏe, hoàn cảnh gia đình, xã hội, nhu cầu đặc biệt của trẻ em (nếu có), việc tìm gia đình thay thế cho trẻ em đã được các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thực hiện và những người có liên quan đã có ý kiến đồng ý về việc cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài. Đây là bước quan trọng làm cơ sở bảo đảm việc giới thiệu trẻ em làm con nuôi phù hợp với lợi ích, đặc điểm và nhu cầu của trẻ em.
Trong những năm vừa qua, các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam luôn xác định lợi ích tốt nhất của trẻ em là yếu tố quan trọng hàng đầu trong quá trình giải quyết việc nuôi con nuôi nước ngoài. Lợi ích tốt nhất của trẻ em được đánh giá thông qua việc xác định nhu cầu trẻ em cần tìm gia đình thay thế. Về việc tôn trọng những quyền cơ bản của trẻ em trong quá trình giải quyết việc nuôi con nuôi quốc tế luôn được ghi nhận thể hiện qua việc thực hiện nguyên tắc ưu tiên tiến hành các biện pháp thích hợp để trẻ em có thể được chăm sóc trong gia đình gốc của mình.
Để thực hiện nguyên tắc này, khi lấy ý kiến của những người liên quan, cán bộ Sở Tư pháp có nghĩa vụ tư vấn để trẻ em được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục phù hợp với điều kiện và khả năng thực tế của gia đình gốc. Nhằm tránh tối đa việc những người liên quan do chưa nhận thức đầy đủ, chưa nắm rõ những vấn đề liên quan đến việc cho trẻ em làm con nuôi hoặc bị ảnh hưởng, bị tác động bởi yếu tố tâm lý, sức khỏe mà dẫn đến đồng ý cho trẻ em làm con nuôi, pháp luật cho phép cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của trẻ có thời gian 30 ngày để có thể thay đổi ý kiến về việc cho trẻ em làm con nuôi và trên thực tế, cán bộ Sở Tư pháp đã tư vấn rất chi tiết, rõ ràng về hệ quả của việc nuôi con nuôi.
Trong thực tiễn công tác giải quyết việc nuôi con nuôi nước ngoài, các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam luôn tuân thủ triệt để nguyên tắc này. Nếu trong hồ sơ của trẻ em có thông tin về cha mẹ đẻ của trẻ em thì các cơ quan có liên quan sẽ cố gắng nỗ lực áp dụng các biện pháp cần thiết để có thể tiếp xúc, trao đổi và giải thích cho cha mẹ đẻ biết về quyền của trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc của mình. Trường hợp không thể liên hệ với cha mẹ đẻ thì cơ quan có thẩm quyền sẽ liên hệ với người thân của trẻ em (chẳng hạn như ông/bà của trẻ em) để trao đổi về vấn đề này. Việc giải quyết cho trẻ em làm con nuôi chỉ được thực hiện sau khi cha mẹ đẻ hoặc người thân của trẻ em đã được tư vấn nhưng vẫn không thể đón trẻ em về nuôi dưỡng và thể hiện ý kiến đồng ý cho trẻ em làm con nuôi.
1.3. Cùng với Cơ quan trung ương về con nuôi quốc tế của Nước nhận trao đổi các quyết định của mình liên quan đến việc tiếp tục tiến hành thủ tục cho nhận con nuôi quốc tế (thực hiện nhiệm vụ theo Điều 17c Công ước La Hay 1993)
Trong trình tự thủ tục giải quyết nuôi con nuôi quốc tế, Công ước La Hay 1993 yêu cầu Cơ quan trung ương của nước nhận và nước gốc phải trao đổi các quyết định của mình liên quan đến việc tiếp tục tiến hành thủ tục cho nhận con nuôi quốc tế. Có thể nói đây là thủ tục mấu chốt trong việc thực hiện trình tự thủ tục giải quyết nuôi con nuôi quốc tế theo Công ước La Hay 1993, bảo đảm trình tự thủ tục giải quyết tuân thủ Công ước, không có thông tin hoặc biểu hiện gian lận, bắt cóc hoặc mua bán trẻ em nhằm mục đích cho làm con nuôi. Đây là giai đoạn quan trọng mà các cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thể hiện ý kiến chấp thuận cho phép người nhận con nuôi tiếp tục thực hiện thủ tục nhận con nuôi và trẻ em sẽ được nhập cảnh và thường trú tại nước nơi người nhận con nuôi thường trú.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, thủ tục này được thực hiện vào thời điểm Cục Con nuôi thông báo kết quả giới thiệu trẻ em làm con nuôi nước ngoài sau khi đã xác nhận trẻ em đủ điều kiện làm con nuôi, việc giải quyết cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài vì lợi ích tốt nhất của trẻ em. Để tiếp tục hoàn tất thủ tục nhận con nuôi, Cục Con nuôi phải có được sự chấp thuận của người nhận con nuôi, của cơ quan có thẩm quyền ở nước ngoài và giấy đồng ý cho phép trẻ em được nhập cảnh, thường trú cùng cha mẹ nuôi.
Trong những năm vừa qua, nhiệm vụ này được phối hợp thực hiện tốt giữa Cục Con nuôi và các cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài trong khuôn khổ Công ước La Hay 1993. Tuy nhiên, trên thực tế, việc tiếp nhận các ý kiến chấp thuận của một số trường hợp cũng còn gặp khó khăn, kéo dài thời gian giải quyết trong khi pháp luật về nuôi con nuôi của Việt Nam chưa có quy định về thời hạn trả lời đồng ý/không đồng ý kết quả giới thiệu trẻ em của Cục Con nuôi. 
1.4. Cấp giấy chứng nhận phù hợp với Công ước La Hay 1993 (thực hiện nhiệm vụ theo Điều 23 Công ước La Hay 1993)
 Theo quy định tại Điều 23 Công ước La Hay 1993, việc cấp giấy chứng nhận phù hợp với Công ước La Hay 1993 được thực hiện bởi cơ quan có thẩm quyền. Bởi vậy, mỗi Nước ký kết có quyền xác định cơ quan có thẩm quyền cấp văn bản đó và thông báo cho quốc gia lưu chiểu Công ước. Luật Nuôi con nuôi đã giao Bộ Tư pháp cấp giấy chứng nhận việc nuôi con nuôi được giải quyết theo đúng quy định của Luật Nuôi con nuôi và điều ước quốc tế về nuôi con nuôi mà Việt Nam là thành viên để gửi các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước ngoài.
 Bộ Tư pháp đã ban hành Biểu mẫu chứng nhận hoàn tất thủ tục trên cơ sở mẫu khuyến nghị của Ủy ban đặc biệt, bảo đảm thể hiện đầy đủ các ý kiến chấp thuận của Cơ quan Trung ương về nuôi con nuôi quốc tế của Việt Nam và của nước nhận đối với thủ tục nuôi con nuôi theo quy định tại điểm c Điều 17 Công ước La Hay 1993. Kể từ khi Việt Nam trở thành thành viên Công ước La Hay 1993 đến nay, tất cả những trường hợp nhận con nuôi quốc tế được Bộ Tư pháp cấp giấy chứng nhận phù hợp hoàn tất thủ tục theo Công ước La Hay đều được đương nhiên công nhận tại Nước nhận.
2. Áp dụng các biện pháp thích hợp nhằm ngăn ngừa những hành vi thu lợi bất chính từ vấn đề nuôi con nuôi và thực hiện vai trò của Cơ quan đối với việc tìm nguồn gốc của trẻ em
2.1. Áp dụng các biện pháp thích hợp nhằm ngăn ngừa những hành vi thu lợi bất chính từ vấn đề con nuôi và ngăn chặn tất cả các vụ việc trái với những mục đích của Công ước (thực hiện nhiệm vụ theo Điều 8 Công ước La Hay 1993)
Bên cạnh việc theo dõi trình tự thủ tục giải quyết nuôi con nuôi quốc tế, hướng dẫn, kiểm tra và chỉ đạo thực hiện trên phạm vi toàn quốc bảo đảm việc giải quyết nuôi con nuôi quốc tế tuân thủ Công ước La Hay 1993, cơ quan Trung ương của Việt Nam cũng đã thể hiện sự tuân thủ Công ước La Hay 1993 trong việc áp dụng các biện pháp thích hợp nhằm ngăn ngừa những lợi nhuận bất chính từ vấn đề con nuôi và ngăn chặn tất cả các vụ việc trái với những mục đích của Công ước.
Điều 8 Công ước La Hay 1993 quy định các cơ quan Trung ương có thẩm quyền phải áp dụng trực tiếp hoặc với sự giúp đỡ của các cơ quan công quyền tất cả các biện pháp thích hợp nhằm ngăn ngừa những lợi ích bất chính từ vấn đề con nuôi và ngăn chặn tất cả các vụ việc trái với những mục đích của Công ước.
Điều 32 Công ước này cũng đã quy định rằng các quốc gia thành viên Công ước có nghĩa vụ phải quy định công khai, rõ ràng về tất cả các khoản mà người nhận con nuôi phải trả trong quá trình nhận con nuôi quốc tế, nhằm bảo đảm mục tiêu ngăn ngừa việc thu lợi tài chính bất hợp pháp từ hoạt động cho nhận con nuôi. Theo khuyến nghị của Hội nghị La Hay về Tư pháp quốc tế thì các khoản phải trả trong quá trình nhận con nuôi quốc tế có thể bao gồm: (1) các khoản phải trả cho các dịch vụ về nuôi con nuôi, (2) khoản tài trợ cho các chương trình con nuôi quốc tế, (3) các khoản phí, lệ phí hay chi phí hợp lý, (4) đóng góp để hỗ trợ những dịch vụ bảo trợ trẻ em, (5) khoản tặng cho.
Phù hợp với khuyến nghị này, Việt Nam đã quy định cụ thể vấn đề lệ phí đăng ký nuôi con nuôi, chi phí giải quyết nuôi con nuôi nước ngoài tại các văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao như Luật, Nghị định; đồng thời, các quy định này cũng thường xuyên được rà soát và sửa đổi để phù hợp với các chính sách mới của Nhà nước, đảm bảo sự công khai, minh bạch, ngăn ngừa việc thu lợi tài chính bất hợp pháp trong lĩnh vực nuôi con nuôi, đặc biệt là nuôi con nuôi quốc tế.
Bên cạnh quy định và thực hiện nghiêm túc việc thu, quản lý và sử dụng các khoản lệ phí đăng ký nuôi con nuôi, chi phí giải quyết nuôi con nuôi nước ngoài, pháp luật về nuôi con nuôi của Việt Nam cũng đã có những quy định cụ thể về vấn đề hỗ trợ nhân đạo cho việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, phù hợp với yêu cầu “nghiêm cấm việc gắn kết hỗ trợ nhân đạo và nuôi con nuôi, nghiêm cấm việc thu lợi bất chính từ hoạt động cho nhận con nuôi, các quốc gia thành viên phải có các biện pháp thích hợp nhằm bảo đảm công khai, minh bạch các khoản hỗ trợ tài chính cũng như phân định rạch ròi giữa hỗ trợ tài chính mang tính nhân đạo với việc giải quyết nuôi con nuôi quốc tế” của Công ước La Hay 1993.
Theo đó, các nguyên tắc hỗ trợ nhân đạo được đặt ra: Việc hỗ trợ nhân đạo phải tách bạch với thủ tục nuôi con nuôi, công khai và minh bạch về tài chính; Khi hỗ trợ nhân đạo, cá nhân, tổ chức không được yêu cầu cơ sở nuôi dưỡng cho trẻ em làm con nuôi; cơ sở nuôi dưỡng không được cam kết cho trẻ em làm con nuôi vì lý do đã nhận hỗ trợ nhân đạo; Việc hỗ trợ nhân đạo phải đúng mục đích; Trường hợp cá nhân, tổ chức hỗ trợ nhân đạo bằng tiền thì phải thực hiện thông qua tài khoản của cơ sở nuôi dưỡng...  Cơ chế theo dõi, giám sát, đánh giá việc thực hiện các khoản hỗ trợ nhân đạo của cha mẹ nuôi, tổ chức con nuôi nước ngoài và việc sử dụng các khoản hỗ trợ đó của  các cơ sở trợ giúp xã hội được thực hiện thông qua nghĩa vụ nộp báo cáo đối với các cơ quan quản lý nhà nước được pháp luật hiện hành quy định cụ thể đã thể hiện những nỗ lực của cơ quan Trung ương về nuôi con nuôi của Việt Nam trong thực hiện Công ước La Hay 1993 về việc áp dụng các biện pháp thích hợp nhằm ngăn ngừa những lợi nhuận bất chính từ vấn đề con nuôi và ngăn chặn tất cả các vụ việc trái với những mục đích của Công ước.
2.2. Vai trò của Cơ quan Trung ương về nuôi con nuôi của Việt Nam đối với vấn đề tìm nguồn gốc của trẻ em
Nuôi con nuôi không phải là một sự kiện đơn lẻ mà là một quá trình kéo dài suốt cả cuộc đời của một con người. Khi  con nuôi đến tuổi trưởng thành, họ sẽ có nguyện vọng tìm hiểu về nguồn gốc của mình, và thực tế chỉ ra rằng, nhu cầu này ngày càng tăng lên. Cùng với một số vấn đề khác liên quan đến dịch vụ sau khi nhận con nuôi, tìm kiếm nguồn gốc của con nuôi tại Nước gốc đang là một chủ đề thu hút sự chú ý của Ban Thường trực Hội nghị La Hay về Tư pháp quốc tế.
Quyền được biết về nguồn gốc của trẻ em được đảm bảo cả bởi Công ước của LHQ về Quyền Trẻ em (ICCR) và theo Công ước La Hay năm 1993. Điều 7(1) của ICCR ghi nhận quyền của trẻ em, trong chừng mực có thể, được biết về cha mẹ mình. Điều 30 của Công ước La Hay năm 1993 có quy định:
“1. Các cơ quan có thẩm quyền của Nước ký kết phải đảm bảo việc lưu giữ những thông tin mình có được về nguồn gốc của trẻ em, đặc biệt là những thông tin liên quan đến căn cước của cha, mẹ của trẻ em cũng như lý lịch y tế của trẻ em và của gia đình của trẻ em.
2. Các cơ quan có thẩm quyền của Nước ký kết phải đảm bảo cho trẻ em hoặc người đại diện của trẻ em được tiếp cận những thông tin này có được sự hướng dẫn thích hợp trong phạm vi được pháp luật của Nước ký kết cho phép”. Tuy nhiên, quyền tiếp cận này cũng cần phải được cân nhắc với quyền của cha mẹ đẻ của trẻ khi đã từ bỏ con để cho làm con nuôi. Do đó, vẫn có hạn chế nhất định đối với quyền tiếp cận thông tin của trẻ em ở mức độ “trong phạm vi được pháp luật của Nước ký kết cho phép”.
Kết hợp với Điều 9 (c) của Công ước La Hay 1993, các Cơ quan Trung ương sẽ thực hiện, trực tiếp hoặc thông qua các cơ quan công quyền được áp dụng tất cả các biện pháp thích hợp, đặc biệt là để thúc đẩy sự phát triển của dịch vụ tư vấn nhận con nuôi và sau khi nhận con nuôi ở quốc gia của họ. Những dịch vụ hỗ trợ cha mẹ nuôi/người con nuôi trưởng thành tìm kiếm và tiếp cận thông tin về gia đình gốc ở Nước gốc hoặc tư vấn về tâm lý, hoàn cảnh gia đình xã hội, sự khác biết về văn hóa, lối sống… cho người con nuôi và cha mẹ đẻ của trẻ em (chuẩn bị trước ngày gặp mặt/đoàn tụ) là cần thiết đang được đặt ra với nhu cầu ngày càng cao trong giai đoạn hiện nay.
Tại Việt Nam, một số quy định về vấn đề hỗ trợ tìm nguồn gốc của trẻ em đã được quy định tại Thông tư liên tịch số 03/2016/TTLT-BTP-BNG-BCA-BLĐTBXH ngày 22 tháng 2 năm 2016. Theo đó, cha mẹ nuôi, con nuôi có nguyện vọng tìm hiểu thông tin về nguồn gốc của con nuôi có thể trực tiếp đến Bộ Tư pháp (Cơ quan Trung ương về nuôi con nuôi của Việt Nam) hoặc gửi đề nghị qua đường bưu điện, fax hoặc thư điện tử đến Bộ Tư pháp hoặc thông qua tổ chức con nuôi nước ngoài, hoặc Cơ quan trung ương về nuôi con nuôi quốc tế của nước nơi con nuôi thường trú.
Trong những năm gần đây, Cục Con nuôi nhận được nhiều đề nghị cung cấp thông tin về nguồn gốc của con nuôi từ cha mẹ nuôi, con nuôi (chủ yếu qua đường bưu điện, thư điện tử). Để bảo đảm tính xác thực và bảo mật, Cục Con nuôi đã có Công văn đề nghị Cơ quan trung ương về nuôi con nuôi quốc tế của nước nơi con nuôi thường trú sẽ là cơ quan đầu mối tiếp nhận và trực tiếp trao đổi với Cục Con nuôi các đề nghị tìm về nguồn gốc của con nuôi từ cha mẹ nuôi hoặc con nuôi, đồng thời, cơ quan này sẽ cung cấp cho Cục Con nuôi các giấy tờ, tài liệu làm căn cứ cho việc xác định những thông tin cơ bản liên quan đến việc tìm kiếm nguồn gốc. 
Thực tiễn cho thấy, việc tìm kiếm thông tin về nguồn gốc của con nuôi thường rất khó khăn, kéo dài và rất ít trường hợp có kết quả. Do các quy định của pháp luật Việt Nam về việc tiếp cận thông tin về gia đình gốc của trẻ em đã được giải quyết làm con nuôi nước ngoài còn chưa đầy đủ, hoàn thiện (mới quy định ở mức độ chỉ định cơ quan đầu mối tiếp nhận thông tin và trả lời các đề nghị). Đồng thời, do cơ sở dữ liệu về nuôi con nuôi của Việt Nam đối với giai đoạn trước khi có Luật Nuôi con nuôi là chưa hoàn thiện, do đó, Cục Con nuôi không thể trực tiếp cung cấp thông tin về nguồn gốc của trẻ mà phải đề nghị sự phối hợp cung cấp thông tin từ các Sở Tư pháp nơi đã giải quyết cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài. Điều này dẫn đến việc kéo dài thời gian của quá trình cung cấp thông tin cũng như sự phụ thuộc vào các Sở Tư pháp trong việc tra cứu thông tin về nguồn gốc của con nuôi. Mặc dù vậy, các cơ quan của Việt Nam đã và sẽ nỗ lực tiến hành với hi vọng có thể hỗ trợ, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của con nuôi trong việc tìm về nguồn gốc của mình. Đặc biệt hơn, chưa có quy định về hỗ trợ tâm lý cho cha, mẹ đẻ trong trường hợp có yêu cầu tiếp cận nguồn gốc của người con đã được cho làm con nuôi.
3. Nhiệm vụ quản lý các tổ chức con nuôi nước ngoài tại Việt Nam
3.1. Cấp, gia hạn, sửa đổi giấy phép hoạt động cho các tổ chức con nuôi nước ngoài tại Việt Nam
Kể từ khi Luật Nuôi con nuôi và Công ước La Hay có hiệu lực tại Việt Nam đến nay, Bộ Tư pháp đã cấp Giấy phép hoạt động cho 38 tổ chức con nuôi nước ngoài của 14 nước có quan hệ hợp tác về nuôi con nuôi với Việt Nam; tiến hành 45 lần gia hạn và 25 lần sửa đổi giấy phép hoạt động của tổ chức. Việc cấp, gia hạn, sửa đổi Giấy phép được thực hiện theo đúng nguyên tắc của Công ước La Hay và tuân thủ đúng quy định của pháp luật Việt Nam.
 Các tổ chức con nuôi nước ngoài xin cấp phép hoạt động theo quy định của Luật Nuôi con nuôi phần lớn đều là những tổ chức có kinh nghiệm hoạt động lâu năm tại Việt Nam. Về cơ bản, các tổ chức con nuôi nước ngoài đều đáp ứng các điều kiện để được cấp giấy phép theo quy định của Luật Nuôi con nuôi, là những tổ chức được thành lập hợp pháp theo pháp luật của nước ngoài hữu quan, có kinh nghiệm và có tính chuyên nghiệp trong lĩnh vực con nuôi quốc tế, am hiểu pháp luật, văn hóa và xã hội của Việt Nam; những người đứng đầu văn phòng con nuôi nước ngoài tại Việt Nam đều là những người có kinh nghiệm, một số người có trình độ nghiệp vụ cao về công tác xã hội, trẻ em và nuôi con nuôi quốc tế, có trình độ hiểu biết về những chuẩn mực quốc tế và thực tiễn nuôi con nuôi quốc tế tại một số nước gốc.
Trong quá trình thực hiện thủ tục cấp, gia hạn giấy phép hoạt động cho các tổ chức con nuôi nước ngoài, Bộ Tư pháp luôn phối hợp với các Cơ quan trung ương của nước ngoài hữu quan để tiến hành kiểm tra thông tin, đánh giá về điều kiện, mức độ chuyên nghiệp của tổ chức và đội ngũ nhân viên của tổ chức tại nước nơi tổ chức được thành lập. Đồng thời, Bộ Tư pháp cũng đã phối hợp tốt với Bộ Công an trong quá trình thực hiện các thủ tục cấp, gia hạn, sửa đổi Giấy phép, do vậy, quá trình này diễn ra khá thuận lợi, không để xảy ra thắc mắc, khiếu nại.
3.2. Kiểm tra, quản lý các Văn phòng con nuôi nước ngoài tại Việt Nam
Văn phòng con nuôi nước ngoài tại Việt Nam có vai trò quan trọng, là cầu nối giữa cơ quan có thẩm quyền Việt Nam với cha mẹ nuôi và cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài. Theo quy định Công ước La Hay, Cơ quan trung ương về nuôi con nuôi quốc tế phải có nhiệm vụ kiểm tra, quản lý các tổ chức con nuôi nước ngoài được cấp phép hoạt động.
Để thực hiện nhiệm vụ này, trong những năm vừa qua, với tư cách là cơ quan quản lý trực tiếp, Cục Con nuôi đã tập trung thực hiện việc kiểm tra hoạt động của Văn phòng con nuôi nước ngoài thông qua việc theo dõi nhiệm vụ hỗ trợ người nhận con nuôi nước ngoài thực hiện thủ tục nhận con nuôi ở Việt Nam, nghĩa vụ nộp báo cáo tình hình hoạt động của Văn phòng con nuôi nước ngoài, nghĩa vụ báo cáo về tình hình phát triển của trẻ em… Trong những năm gần đây, nhằm tăng cường công tác quản lý và kiểm tra hoạt động của các Văn phòng con nuôi nước ngoài, Cục Con nuôi định kỳ 2 lần/năm họp và làm việc với các văn phòng nhằm quán triệt chủ trương, chính sách liên quan đến việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; ban hành công văn quán triệt tình hình thực hiện nghĩa vụ của các Văn phòng con nuôi nước ngoài; tập huấn quy định pháp luật về nuôi con nuôi cho các Văn phòng. Bên cạnh đó, Cục Con nuôi thường đề nghị các Văn phòng thông tin kịp thời về tình hình giải quyết hồ sơ của tổ chức; gặp gỡ và trao đổi thông tin với các tổ chức con nuôi nước ngoài trong các chuyến công tác. Trên cơ sở đó, Cục Con nuôi có thể kịp thời nắm bắt thông tin và phản ánh từ phía các tổ chức/văn phòng con nuôi nước ngoài nhằm giải quyết những vướng mắc khó khăn có thể xảy ra.
Báo cáo tình hình hoạt động của các Văn phòng con nuôi nước ngoài là một trong những công cụ giúp Cục Con nuôi thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý của mình. Tại các báo cáo này, các Văn phòng con nuôi nước ngoài phải thể hiện chi tiết tiến độ giải quyết hồ sơ, kết quả giải quyết hồ sơ, cung cấp số liệu, minh bạch hóa vấn đề tài chính liên quan đến việc giải quyết nuôi con nuôi quốc tế, phân biệt các loại chi phí trong quá trình hoạt động ở Việt Nam. Trong giai đoạn 2012-2020 hầu như các tổ chức con nuôi nước ngoài được cấp phép hoạt động tại Việt Nam không còn thực hiện các thỏa thuận hỗ trợ nhân đạo mà hỗ trợ trực tiếp cho việc chăm sóc sức khỏe của trẻ em.
Đánh giá chung: Có thể nhận thấy, sau gần 10 năm thực thi Công ước, Bộ Tư pháp (Cục Con nuôi) đã nỗ lực trong thực hiện và phát huy vai trò của Cơ quan Trung ương về nuôi con nuôi của Việt Nam, đặc biệt trong việc trực tiếp tham gia thực hiện, theo dõi toàn bộ trình tự thủ tục giải quyết nuôi con nuôi quốc tế; hướng dẫn, kiểm tra, chỉ đạo thực hiện trên phạm vi toàn quốc bảo đảm việc giải quyết nuôi con nuôi quốc tế tuân thủ Công ước La Hay; thực hiện nhiệm vụ quản lý các tổ chức con nuôi nước ngoài tại Việt Nam. Bên cạnh đó, trong những năm gần đây, Bộ Tư pháp (Cục Con nuôi) cũng đã nỗ lực trong việc nghiên cứu để đưa ra các giải pháp nhằm thực hiện và phát huy vai trò của Cơ quan Trung ương của Việt Nam đối với việc áp dụng các biện pháp thích hợp nhằm ngăn ngừa những lợi ích bất chính từ vấn đề con nuôi và thực hiện vai trò trong việc tìm nguồn gốc của trẻ em. Với những nỗ lực nêu trên, trong giai đoạn 2012-2020, nhiều trẻ em Việt Nam có hoàn cảnh đặc biệt đã có được mái ấm gia đình thay thế, bức tranh tổng thể về nuôi con nuôi của Việt Nam nói chung và nuôi con nuôi quốc tế nói riêng đã được cải thiện trên phương diện quốc tế.
III. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
Từ những nội dung phân tích nêu trên, để khắc phục những khó khăn, tồn tại và thực hiện tốt hơn nữa công tác hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nuôi con nuôi, đồng thời, để phát huy hơn nữa vai trò của Cơ quan Trung ương theo quy định của Công ước La Hay năm 1993, Cục Con nuôi xin kiến nghị, đề xuất:
- Chủ động, tăng cường hơn nữa công tác hợp tác song phương, đặc biệt là với những nước có quan hệ hợp tác truyền thống với Việt Nam trong lĩnh vực nuôi con nuôi thể hiện thông qua việc tăng cường tổ chức các Phiên họp nhóm hỗn hợp. Mục đích của việc này là nhằm đảm bảo thực hiện đúng các nghĩa vụ của nước thành viên ký kết, tăng cường hợp tác trao đổi thông tin, kịp thời cùng nhau tháo gỡ những khó khăn phát sinh trong quá trình thực hiện các Hiệp định. Đồng thời, Việt Nam cũng có thể đề xuất việc hỗ trợ kỹ thuật cho các cơ quan, tổ chức của Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực nuôi con nuôi, đào tạo, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ tham gia công tác giải quyết nuôi con nuôi…
- Thông tin kịp thời về chính sách, pháp luật, số liệu thống kê về nuôi con nuôi đến Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế để kịp thời đăng tải, giúp các nước thành viên khác có thể dễ dàng truy cập, tìm hiểu các thông tin liên quan đến công tác giải quyết nuôi con nuôi tại Việt Nam.
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách trong lĩnh vực nuôi con nuôi. Nghiên cứu, xây dựng các quy định của pháp luật, cơ chế hợp tác tiếp cận nguồn gốc cho trẻ em Việt Nam được nhận làm con nuôi ở nước ngoài giữa Nước nhận, Nước gốc và các Tổ chức con nuôi được cấp phép hoạt động tại Việt Nam để xử lý vấn đề này.
- Nâng cao hiệu quả thi hành Công ước La Hay 1993, tạo ra bước chuyển biến mới, thể hiện sự tôn trọng các cam kết quốc tế của Nhà nước ta khi tham gia Công ước quốc tế về quyền trẻ em, tôn trọng và bảo đảm các quyền trẻ em; bảo đảm việc nuôi con nuôi được tiến hành trên nguyên tắc nhân đạo, vì lợi ích tốt nhất của trẻ em, phù hợp với nguyên tắc cơ bản của Công ước La Hay 1993.
- Tăng cường năng lực, đội ngũ cán bộ, đặc biệt là các chuyên viên có trình độ ngoại ngữ cho bộ phận thường trực của Cơ quan Trung ương về nuôi con nuôi của Việt Nam để đảm bảo thực hiện tốt vai trò, nhiệm vụ được giao, đặc biệt là với những vấn đề mới xuất hiện trong những năm gần đây.
- Kiện toàn mô hình Cơ quan Trung ương về nuôi con nuôi của Việt Nam bảo đảm thực hiện đầy đủ các yêu cầu đặt ra theo Công ước La Hay 1993 và đáp ứng việc thực thi, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người theo các điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên, trong đó có Công ước La Hay 1993./.
 
[1] Đoạn 200, Sách hướng dẫn số 1 thực hiện tốt Công ước La Hay.