Pháp luật và kỹ năng truyền thông về giảm thiểu tảo hôn, hôn nhân cận huyết
I. Quy định pháp luật về tảo hôn, hôn nhân cận huyết và các quy định pháp luật khác có liên quan
1. Tảo hôn, hôn nhân cận huyết
a) Tình hình tảo hôn, hôn nhân cận huyết và một số nguyên nhân dẫn đến tảo hôn, hôn nhân cận huyết
Tảo hôn, hôn nhân cận huyết là hủ tục đã xuất hiện từ rất lâu nhưng đến nay vẫn còn tồn tại ở nhiều vùng miền ở nước ta và để lại những hậu quả, tác động không nhỏ tới sự phát triển chung của xã hội, cộng đồng cũng như những người có liên quan, trong đó có trẻ em, phụ nữ.
Theo kết quả điều tra , vùng đồng bào dân tộc thiểu số là địa bàn có tỷ lệ tảo hôn cao hơn, tập trung ở khu vực Tây Nguyên, miền núi phía Bắc. Cứ 10 người DTTS thì có 02 người tảo hôn. Dân tộc Mông có tỷ lệ tảo hôn cao nhất với 51,5% dân số kết hôn trước tuổi quy định, tiếp đến là dân tộc Cơ Lao (47,8%), Mảng (47,2%), Xinh Mun (47,2%). Tỷ lệ tảo hôn vẫn ở mức cao tại những vùng tập trung nhiều đồng bào DTTS sinh sống như Tây Nguyên với hơn một phần tư số người bước vào hôn nhân khi chưa đủ tuổi kết hôn (27,5%), tiếp đó là trung du miền núi phía Bắc (24,65). Tỷ lệ tảo hôn của nữ DTTS luôn cao hơn nam ở tất cả các vùng, ngoại trừ đồng bằng Sông Hồng. Đáng chú ý là chỉ có 1,1% người DTTS tảo hôn có trình độ chuyên môn kỹ thuật, trong khi tỷ lệ này ở những người không tảo hôn cao gấp gần 18 lần (18,8%); 31/53 DTTS có tình trạng 100% số người tảo hôn không có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Điều này cho thấy tuyệt đại đa số những người DTTS rơi vào tình trạng tảo hôn có trình độ hạn chế, tảo hôn có thể dẫn đến khó khăn về kinh tế và nguy cơ đói nghèo, khó tiếp cận với các quyền và cơ hội học tập, nâng cao trình độ và phát triển bản thân.
Hôn nhân cận huyết cũng có sự gia tăng về tỷ lệ ở một số dân tộc như La Chí (năm 2014 là 10,1% thì năm 2018 tăng 30,8%), Bru Vân Kiều (năm 2014 là 14,3% thì năm 2018 tăng 28,6%), Lô Lô (năm 2014 là 8,3% thì năm 2018 tăng 22,4%), Gia Rai (năm 2014 là 9,1% thì năm 2018 tăng 14,6%), La Ha (năm 2014 là 7,6% thì năm 2018 tăng 11,0%). Về độ tuổi sinh con của phụ nữ DTTS thì tỷ suất sinh đặc trưng theo độ tuổi của dân tộc Mông đạt mức khá cao ngay ở nhóm tuổi trẻ từ 15-19 tuổi với 200 con/1000 phụ nữ. Phụ nữ dân tộc Mông sinh con rất sớm, đa phần sinh con ở độ tuổi từ 15-24. Về tỷ suất chết của trẻ em DTTS dưới 01 tuổi thì dân tộc Mông là 28,47 (trẻ em dưới 01 tuổi chết/1000 trẻ sinh sống), Ba Na (28,87), Thái (24,2), trong khi tỷ suất trung bình của 53 DTTS là 22,13.
Thực trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết vẫn còn xảy ra do nhiều nguyên nhân, trong dó có một số nguyên nhân như sau:
- Đời sống người dân còn nhiều khó khăn do trình độ dân trí không đồng đều, hạ tầng kỹ thuật, kinh tế, xã hội chưa phát triển, xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, thu nhập là những vấn đề còn khó khăn và có tác động, ảnh hưởng tới người dân.
- Một số hủ tục, tập quán, quan niệm lạc hậu về hôn nhân và gia đình đã tác động đến việc dựng vợ, gả chồng khi con em chưa đến tuổi kết hôn như tục hứa hôn, không kết hôn với người dân tộc khác…
- Nhiều trường hợp do gia đình cần có người để làm việc hoặc bản thân trẻ em đã nghỉ học nhưng không có việc làm nên đã quyết định kết hôn sớm; đối với những trường hợp này thì cộng đồng chưa có phản ứng mạnh mẽ mà vẫn coi đó là chuyện riêng của mỗi gia đình.
- Nhiều trường hợp mang thai ngoài ý muốn dẫn đến các em phải nghỉ học, kết hôn sớm do cha mẹ, gia đình, nhà trường chưa chú trọng tới việc quản lý, giáo dục; thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa phụ huynh, giáo viên, nhà trường; ảnh hưởng của mạng xã hội, lối sống buông thả, sống thử...
- Công tác truyền thông, PBGDPL tại nhiều địa phương còn hạn chế do đa số các trường hợp tảo hôn, hôn nhân cận huyết có trình độ dân trí, nhận thức thấp; còn gặp rào cản về ngôn ngữ (không biết hoặc không thông thạo tiếng phổ thông); thiếu nguồn lực triển khai; hình thức, nội dung thực hiện chưa phù hợp, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn…
- Chính quyền địa phương các cấp có lúc, có nơi chưa quan tâm đúng mức, chưa sâu sát với người dân ở cơ sở để kịp thời đưa các biện pháp giảm thiểu tình trạng này xảy ra.
Thời gian vừa qua do dịch bệnh covid, trẻ em nghỉ học ở nhà nên tình trạng tảo hôn đã gia tăng.
b) Quy định pháp luật về tảo hôn, hôn nhân cận huyết
* Tảo hôn được hiểu là việc lấy vợ, lấy chồng khi một hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình. Theo đó, để xác định được việc kết hôn là tảo hôn hay không, cần căn cứ vào độ tuổi của hai bên khi kết hôn. Nếu bên nam (người con trai) kết hôn chưa đủ 20 tuổi, bên nữ (người con gái) kết hôn chưa đủ 18 tuổi hoặc cả hai bên đều chưa đủ độ tuổi này được xác định là tảo hôn.
Việc quy định bên nam phải từ “đủ” 20 tuổi trở lên, bên nữ phải từ “đủ” 18 tuổi trở lên mới có quyền kết hôn, mới đủ tuổi kết hôn thể hiện ý nghĩa tiến bộ, đảm bảo sự phát triển, trưởng thành về thể chất, tâm sinh lý cho cả nam và nữ trước khi kết hôn.
Ngoài đủ độ tuổi nêu trên, khi kết hôn, bên nam và bên nữ còn phải tuân thủ các điều kiện về sự tự nguyện quyết định việc kết hôn; không bị mất năng lực hành vi dân sự; không thuộc trường hợp cấm kết hôn (kết hôn giả tạo, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn… Nếu vi phạm các điều kiện kết hôn nêu trên thì việc kết hôn đó là trái pháp luật, không được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.
Có thể ví dụ về một số trường hợp tảo hôn như sau:
- Bên nam đủ 21 tuổi (đủ tuổi kết hôn) kết hôn với bên nữ 17 tuổi (chưa đủ tuổi kết hôn) đã tổ chức lễ cưới và đã thực hiện đăng ký kết hôn.
- Bên nam 18 tuổi (chưa đủ tuổi kết hôn) kết hôn với bên nữ 19 tuổi (đủ tuổi kết hôn) đã tổ chức lễ cưới và về sống chung với nhau.
- Bên nam 16 tuổi (chưa đủ tuổi kết hôn) kết hôn với bên nữ 15 tuổi (chưa đủ tuổi kết hôn) đã về sống chung với nhau và không đăng ký kết hôn.
* Hôn nhân cận huyết là việc kết hôn giữa những người có cùng dòng máu về trực hệ, giữa những người có họ trong phạm vi ba đời. Việc kết hôn này bị pháp luật cấm bởi các bên có quan hệ máu mủ, huyết thống với nhau.
Người cùng dòng máu về trực hệ là những người có quan hệ huyết thống, trong đó, người này sinh ra người kia kế tiếp nhau. Ví dụ: Bố đẻ và con gái, mẹ đẻ và con trai, ông nội và cháu gái, ông ngoại và cháu gái… là những người có quan hệ huyết thống, cụ thể là có cùng dòng máu trực hệ. Những trường hợp này mà kết hôn được xác định là hôn nhân cận huyết.
Người có họ trong phạm vi ba đời là những người từ một gốc sinh ra, bao gồm cha mẹ (đời thứ nhất), anh chị em ruột cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha (đời thứ hai), anh chị em con cô, con cậu, con chú, con bác, con dì (đời thứ ba). Ví dụ: A kết hôn với B và quan hệ hôn nhân này được gọi là đời thứ nhất. Sau đó A và B sinh ra C và D thì những người con này được gọi là đời thứ hai. Khi C hoặc D kết hôn và sinh ra các con thì gọi là đời thứ ba. Nếu con của C kết hôn với con của D thì gọi là hôn nhân cận huyết bởi có họ trong phạm vi ba đời, đây là anh chị em con cô, con cậu, con chú, con bác, con dì. Từ đời thứ tư, tức là cháu của C hoặc D sẽ được kết hôn với nhau.
* Hành vi vi phạm về tảo hôn, hôn nhân cận huyết có thể bị xử lý bằng xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Hành vi tổ chức lấy vợ, lấy chồng cho người chưa đủ tuổi kết hôn bị phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng.
- Hành vi cưỡng ép kết hôn hoặc lừa dối kết hôn; cưỡng ép ly hôn hoặc lừa dối ly hôn bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.
- Hành vi duy trì quan hệ vợ chồng trái pháp luật với người chưa đủ tuổi kết hôn mặc dù đã có bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án bị phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng.
- Hành vi kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ hoặc giữa những người có họ trong phạm vi ba đời bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.
- Tội tổ chức tảo hôn: Người nào tổ chức việc lấy vợ, lấy chồng cho những người chưa đến tuổi kết hôn, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm.
- Tội loạn luân: Người nào giao cấu với người mà biết rõ người đó cùng dòng máu về trực hệ, là anh chị em cùng cha mẹ, anh chị em cùng cha khác mẹ, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
c) Tác hại của tảo hôn, hôn nhân cận huyết
Tảo hôn dẫn đến một số tác hại như:
- Về tâm sinh lý: Dễ bị ảnh hưởng tới tâm lý, đối với bạn nữ có thể bị sang chấn hoặc gặp các vấn đề về sức khỏe tâm thần.
- Về thể chất, sức khỏe sinh sản: Bé gái kết hôn sớm sẽ gặp nguy cơ cao về mang thai ngoài ý muốn, sẩy thai, nhiễm độc thai nghén, nạo phá thai và các bệnh tật khác; nguy cơ tử vong cao hơn khi mang thai và sinh con.
Trẻ sinh ra từ các cặp vợ chồng tảo hôn dễ bị sinh non, thiếu cân, thấp còi, suy dinh dưỡng, thậm chí tử vong và đây là nguyên nhân làm gia tăng tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng, tỷ lệ trẻ em tử vong dưới 01 tuổi.
- Về quyền, lợi ích, cơ hội học tập, phát triển: Các em không còn hoặc giảm cơ hội đến trường học, tăng tỷ lệ bỏ học cũng như học tập, nâng cao kiến thức, tiếp cận với nền giáo dục tiên tiến, hiện đại. Cơ hội được nghỉ ngơi, tham gia các hoạt động vui chơi, giải trí cũng bị ảnh hưởng khi các em kết hôn trước tuổi quy định.
- Về kinh tế - xã hội: Các em còn trẻ, chưa có hoặc chưa đủ khả năng tìm kiếm hoặc làm các công việc tạo thu nhập cao để đóng góp kinh tế cho gia đình, dẫn đến tăng nguy cơ đói nghèo, lạc hậu, tác động tới chất lượng cuộc sống của gia đình và cả hai bên nam, nữ.
- Về xây dựng, chăm sóc, gìn giữ gia đình hạnh phúc: Ở các cặp vợ chồng tảo hôn, các xung đột, mâu thuẫn hoặc ly hôn dễ xảy ra hơn do còn hạn chế về kiến thức, kinh nghiệm chăm sóc, dạy dỗ con cái, xây dựng, nuôi dưỡng gia đình hoà thuận, hạnh phúc.
Hôn nhân cận huyết dẫn đến một số tác hại như:
- Con cái, trẻ em được sinh ra từ các cặp vợ chồng có cùng dòng máu trực hệ, có họ trong phạm vi ba đời có tỷ lệ dị dạng, dị tật cao hoặc nguy cơ mắc các bệnh: bạch tạng, mù màu, da vảy cá, tan máu bẩm sinh, bệnh máu trắng…
- Có nguy cơ suy thoái giống nòi, triệt tiêu một tộc người nào đó khi chỉ kết hôn trong phạm vi tộc người đó mà không có hôn nhân đa dạng giữa các tộc người với nhau.
- Làm đảo lộn các mối quan hệ trong gia đình Việt Nam, ảnh hưởng đến trật tự gia đình, truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc.
2. Các quyền của trẻ em và người chưa thành niên từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi được bảo vệ khỏi kết hôn sớm
2.1. Chuẩn mực quốc tế
Theo các chuẩn mực quốc tế, kết hôn trẻ em, hay còn gọi là kết hôn sớm là việc kết hôn trong đó ít nhất một trong hai bên là người dưới 18 tuổi. Kết hôn trẻ em được coi là một hình thức cưỡng bức kết hôn bởi vì một hoặc cả hai bên là người chưa đủ năng lực để tự do bày tỏ sự đồng thuận đầy đủ trên cơ sở có đầy đủ thông tin. Kết hôn trẻ em không chỉ bao gồm việc kết hôn chính thức mà cả những hình thức kết hôn không chính thức hay chung sống như vợ chồng.
Kết hôn trẻ em vi phạm các quyền con người cơ bản của trẻ em và là một hình thức xâm hại trẻ em. Điều 19.1. Công ước Quyền trẻ em (CƯQTE) yêu cầu các Quốc gia thành viên phải thực hiện mọi biện pháp thích hợp về lập pháp, hành pháp, xã hội và giáo dục để bảo vệ trẻ em khỏi mọi hình thức bạo lực về thể chất hoặc tinh thần, bị đánh đập hay lạm dụng, bị bỏ mặc hoặc sao nhãng chăm sóc, bị ngược đãi hoặc bóc lột, gồm cả sự xâm phạm tình dục, trong khi trẻ em vẫn nằm trong vòng chăm sóc của cha, mẹ hoặc cả cha lẫn mẹ, của một hay nhiều người giám hộ pháp lý, hoặc của bất kỳ người nào khác được giao việc chăm sóc trẻ em.
Điều 24.3. của Công ước yêu cầu các Quốc gia thành viên phải thực hiện mọi biện pháp thích hợp và hiệu quả nhằm xóa bỏ những tập tục có hại cho sức khỏe của trẻ em. Theo giải thích của Ủy ban Quyền trẻ em của Liên hợp quốc, kết hôn trẻ em và cưỡng ép kết hôn là hai trong số những tập tục có hại phải được xóa bỏ.
Công ước Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ quy định rằng “việc hứa hôn và kết hôn của trẻ em phải bị coi là không có hiệu lực pháp lý, và tất cả các hành động cần thiết phải được tiến hành, kể cả biện pháp lập pháp, nhằm quy định tuổi tối thiểu có thể kết hôn và để bảo đảm việc kết hôn phải được đăng ký một cách chính thức và bắt buộc” (Điều 16(2)).
2.2. Pháp luật Việt Nam
Việc tổ chức, cưỡng ép người dưới 18 tuổi kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác vi phạm các quy định các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân mà Hiến pháp (2013) , đặc biệt là các quyền:
- Quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm (khoản 1 Điều 20).
- Quyền tự do đi lại và cư trú (Điều 23).
- Quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc (Điều 33).
- Quyền kết hôn, ly hôn theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ (khoản 1 Điều 36).
- Quyền học tập (Điều 39).
Việc tổ chức, cưỡng ép trẻ em kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác cũng vi phạm các quyền trẻ em được quy định tại Luật Trẻ em (2016), bao gồm:
- Quyền được chăm sóc tốt nhất về sức khỏe (Điều 14).
- Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng để phát triển toàn diện (Điều 15).
- Quyền được giáo dục, học tập (Điều 16).
- Quyền vui chơi, giải trí (Điều 17).
- Quyền được bảo vệ để không bị xâm hại tình dục, bóc lột sức lao động, bạo lực, bỏ rơi, bỏ mặc, mua bán, bắt cóc, đánh tráo, chiếm đoạt (các điều 25, 26, 27, 28).
Luật Trẻ em nghiêm cấm các hành vi mua bán, bắt cóc, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em, xâm hại tình dục, bạo lực, lạm dụng, bóc lột trẻ em, và các hành vi tổ chức, hỗ trợ, xúi giục, ép buộc trẻ em tảo hôn (các khoản 2, 3, 4, Điều 6).
3. Trách nhiệm, nghĩa vụ của cha mẹ, thành viên gia đình, những người có liên quan về bảo vệ trẻ em và người chưa thành niên từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi khỏi mọi hành vi xâm hại, bao gồm cả nạn tảo hôn và hôn nhân cận huyết
3.1. Luật Hôn nhân và gia đình (2014)
Luật Hôn nhân và gia định quy định trách nhiệm của cha mẹ trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên để bảo đảm sự phát triền lành mạnh và bảo đảm các quyền của con chưa thành niên, đặc biệt là:
- Thương yêu con, tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập, giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội (khoản 1 Điều 69).
- Trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên (khoản 2 Điều 69).
- Không được phân biệt đối xử với con trên cơ sở giới hoặc theo tình trạng hôn nhân của cha mẹ; không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên; không được xúi giục, ép buộc con làm việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội (khoản 4 Điều 69).
- Giáo dục, chăm lo và tạo điều kiện cho con học tập (khoản 1 Điều 72).
- Hướng dẫn con chọn nghề; tôn trọng quyền chọn nghề, quyền tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của con (khoản 2 Điều 72).
3.2. Luật Trẻ em (2016)
Theo Luật Trẻ em, cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em và các thành viên trong gia đình có trách nhiệm trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng, quản lý, giáo dục trẻ em; dành điều kiện tốt nhất theo khả năng cho sự phát triển liên tục, toàn diện của trẻ em (khoản 1 Điều 98).
Cha, mẹ, giáo viên, người chăm sóc trẻ em có trách nhiệm bảo đảm cho trẻ em thực hiện quyền học tập, hoàn thành chương trình giáo dục phổ cập theo quy định của pháp luật, tạo điều kiện cho trẻ em theo học ở trình độ cao hơn (khoản 2 Điều 99).
Cha, mẹ, giáo viên, người chăm sóc trẻ em tạo điều kiện để trẻ em được vui chơi, giải trí, hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch phù hợp với độ tuổi (khoản 4 Điều 99).
Cha, mẹ, giáo viên, người chăm sóc trẻ em và các thành viên trong gia đình có trách nhiệm tạo môi trường an toàn, phòng ngừa trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt, có nguy cơ bị xâm hại hoặc bị xâm hại (điểm a khoàn 1 Điều 100).
II. Hướng dẫn kỹ năng truyền thông, phổ biến pháp luật về giảm thiểu tảo hôn, hôn nhân cận huyết và bảo vệ trẻ em tại cộng đồng
1. Kỹ năng thu thập thông tin, số liệu, đánh giá thực trạng và nguyên nhân dẫn đến tảo hôn, hôn nhân cận huyết
1.1. Mục tiêu:
Việc thu thập các thông tin, số liệu, đánh giá thực trạng về tảo hôn, hôn nhân cận huyết và bảo vệ trẻ em nhằm giúp người thực hiện phổ biến pháp luật:
- Nắm được những tư liệu từ thực tiễn quan trọng để có thể đưa ra các nhận định, đánh giá về tình hình tảo hôn, hôn nhân cận huyết, vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình trên địa bàn.
- Chuẩn bị kỹ lưỡng về nội dung, hình thức, phương pháp, cách thức tổ chức buổi truyền thông, PBGDPL, đặc biệt là xác định các thông điệp truyền thông đúng trọng tâm và sát thực tiễn.
- Đưa ra các ý kiến, kiến nghị với chính quyền, tổ chức có thẩm quyền trong việc tổ chức, thực hiện các giải pháp tuyên truyền, vận động người dân chấp hành Luật hôn nhân và gia đình, từ đó giúp người dân nâng cao nhận thức, dần xóa bỏ hủ tục, thực hiện việc kết hôn theo luật định.
1.2. Các loại thông tin, số liệu cần thu thập
- Số lượng, tỷ lệ tảo hôn, hôn nhân cận huyết.
- Độ tuổi tảo hôn của nam, nữ.
- Số lượng, tỷ lệ trẻ em gái đã sinh con, mang thai ở tuổi tảo hôn.
- Số lượng, tỷ lệ trẻ sinh ra bị tử vong, suy dinh dưỡng, bệnh tật do tảo hôn, hôn nhân cận huyết…
- Những nguyên nhân dẫn đến tảo hôn, hôn nhân cận huyết.
- Những khó khăn và nhu cầu cần được hỗ trợ, giúp đỡ của người dân.
- Những giải pháp mà chính quyền cơ sở đã, sẽ triển khai thực hiện để cải thiện, giảm thiểu tảo hôn, hôn nhân cận huyết.
1.3. Cách thức thu thập thông tin, số liệu
- Báo cáo, tài liệu được cung cấp từ chính quyền, các cơ quan, tổ chức, đoàn thể, cá nhân có trách nhiệm.
- Bài viết, tài liệu đăng tải trên các website, cổng/trang thông tin điện tử; trên các phương tiện thông tin đại chúng.
- Nắm bắt từ thực tiễn khảo sát, phỏng vấn trực tiếp người dân, trưởng thôn, già làng, trưởng bản… tại địa bàn cơ sở.
2. Kỹ năng xây dựng Kế hoạch thực hiện truyền thông, phổ biến pháp luật về giảm thiểu tảo hôn, hôn nhân cận huyết
Để buổi truyền thông, PBGDPL được tổ chức hiệu quả, người thực hiện truyền thông, PBGDPL cần có kế hoạch cụ thể. Kế hoạch được xây dựng trên cơ sở bám sát kết quả thu thập thông tin, số liệu, đánh giá thực trạng về tảo hôn, hôn nhân cận huyết của địa phương và bao gồm các nội dung, nhiệm vụ cơ bản như sau:
2.1. Xác định mục tiêu, yêu cầu thực hiện truyền thông, PBGDPL
- Mục tiêu thực hiện truyền thông, PBGDPL:
(i) Mục tiêu chung: Nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật về tảo hôn, hôn nhân cận huyết, quy định pháp luật về các quyền của trẻ em và người chưa thành niên từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nhằm bảo vệ trẻ em khỏi kết hôn sớm; các kiến thức, hiểu biết nhằm phòng ngừa, giảm thiểu tảo hôn, hôn nhân cận huyết. Qua đó góp phần thay đổi hành vi, ý thức tuân theo pháp luật, từng bước xóa bỏ tảo hôn, hôn nhân cận huyết, giảm thiểu tình trạng cưỡng ép, áp đặt tảo hôn, hôn nhân cận huyết.
(ii) Mục tiêu cụ thể:
+ Cha mẹ, phụ huynh được nâng cao nhận thức, ý thức, hiểu biết và trách nhiệm bảo vệ trẻ em khỏi kết hôn sớm, không tổ chức, cưỡng ép, áp đặt trẻ em vào tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết.
+ Trẻ em được nâng cao nhận thức, hiểu biết về các quyền được bảo vệ, nói lên tiếng nói của mình khi cha mẹ, gia đình quyết định việc kết hôn sớm; biết về những tác hại, hậu quả của tảo hôn, hôn nhân cận huyết để từ đó không rơi vào tình trạng này dẫn đến vi phạm pháp luật, ảnh hưởng tới các quyền và lợi ích của bản thân.
- Yêu cầu thực hiện truyền thông, PBGDPL:
(i) Đảm bảo cho đối tượng được truyền thông, PBGDPL tiếp thu, lĩnh hội dễ dàng, dễ hiểu, dễ nhớ.
(ii) Phù hợp với nhận thức, trình độ, nhu cầu của đối tượng được truyền thông, PBGDPL.
(ii) Tập trung vào các quy định, vấn đề, tình huống có liên quan trực tiếp đến đối tượng được truyền thông, PBGDPL.
(iii) Tìm hiểu về các phong tục, tập quán, phong tục, văn hóa của địa phương, đặc thù của đối tượng.
(iv) Phù hợp với thời gian, thời lượng tổ chức hoạt động truyền thông, PBGDPL.
2.2. Xác định đối tượng được truyền thông, PBGDPL
- Mục tiêu thực hiện: Giúp người truyền thông, PBGDPL lựa chọn, chuẩn bị nội dung, kỹ năng truyền tải, phổ biến pháp luật phù hợp, đạt được mục đích, yêu cầu đặt ra.
- Xác định đối tượng được truyền thông, PBGDPL cần dựa trên các yếu tố:
(i) Đối tượng được truyền thông, PBGDPL là ai (cha mẹ, trẻ em, những trẻ em thuộc trường hợp tảo hôn, hôn nhân cận huyết,người dân tại cộng đồng…) và giới tính, nghề nghiệp, trình độ, nhận thức như thế nào.
(ii) Số lượng tham dự tập huấn, truyền thông, PBGDPL là bao nhiêu.
(iii) Có bao nhiêu người thuộc trường hợp tảo hôn, hôn nhân cận huyết hoặc đang ở độ tuổi có nguy cơ tảo hôn, hôn nhân cận huyết?
- Mỗi buổi truyền thông, PBGDPL không nên quá đông người tham gia, chỉ nên có khoảng từ 20 đến 30 người.
Số lượng người tham dự nhiều sẽ khó khăn cho việc tương tác, trao đổi, thảo luận giữa người nói và người nghe cũng như khó áp dụng phương pháp tập huấn cùng tham gia.
2.3. Thời gian thực hiện truyền thông, PBGDPL
Người thực hiện hoạt động buổi truyền thông, phổ biến pháp luật lựa chọn thời gian phù hợp với sinh hoạt, công việc của đối tượng được truyền thông, PBGDPL. Trên cơ sở đó, người thực hiện truyền thông, PBGDPL cân đối thời lượng phù hợp với chương trình, chủ đề, phương pháp truyền thông, PBGDPL.
Người DTTS ở vùng Tây Bắc thường lên nương, lên rẫy từ sáng sớm và ở lại đến tối mới về, nếu tổ chức truyền thông, phổ biến pháp luật tại địa điểm tập trung vào buổi tối thì họ tham dự đông đủ hơn. Tập huấn cho trưởng thôn, già làng, cha mẹ của trẻ có thể thực hiện với thời lượng dài hơn. Đối với trẻ em, thời lượng cần ngắn hơn do đặc điểm về lứa tuổi, khó tập trung trong thời gian dài.
2.4. Địa điểm thực hiện truyền thông, PBGDPL
Hoạt động tập huấn, truyền thông, phổ biến pháp luật có thể được tổ chức tại nhà văn hóa, trụ sở làm việc của chính quyền, nhà sinh hoạt cộng đồng, nhà của già làng, trưởng bản…
Người thực hiện buổi truyền thông, PBGDPL biết trước địa điểm tập huấn để chủ động sắp xếp thời gian, phương tiện phù hợp; nên đến sớm trước thời gian của buổi truyền thông, PBGDPL để kiểm tra lại các điều kiện đảm bảo và đón tiếp, giao lưu, tạo không khí gần gũi với người tham dự.
Phong tục, tập quán của đồng bào DTTS cũng là yếu tố cần lưu ý trong lựa chọn địa điểm tập huấn, không nên chọn ngày có chợ phiên (dân tộc Mông) hoặc ngày có lễ hội như lễ mừng cơm mới, hội cầu mùa, lễ hội xuống đồng, hội cúng rừng… (dân tộc Tày, Thái, Dao, Mông). Vì người dân sẽ đi chợ phiên, đi lễ hội nên khó tham dự đông đủ.
2.5. Chuẩn bị nội dung thực hiện buổi truyền thông, PBGDPL
- Nội dung truyền thông, PBGDPL cần được chuẩn bị chu đáo, phù hợp, thiết thực với đối tượng tham dự để bảo đảm chất lượng, hiệu quả của hoạt động truyền thông, PBGDPL. Các nội dung tập trung vào việc phổ biến quy định pháp luật về quyền của trẻ em, tảo hôn, hôn nhân cận huyết, tác hại của tảo hôn và hôn nhân cận huyết, các địa chỉ liên hệ để tư vấn, tìm kiếm giúp đỡ, tố giác khi quyền của trẻ em bị xâm phạm; nêu rõ những hủ tục vẫn đang còn tồn tại và vận động, giáo dục, thuyết phục người dân bỏ các hủ tục, thực hiện kết hôn theo quy định của pháp luật…, qua đó thúc đẩy tuân thủ pháp luật.
Dưới đây là gợi ý một số nội dung có thể cân nhắc:
o Quyền kết hôn, độ tuổi kết hôn, điều kiện kết hôn, các trường hợp tảo hôn, hôn nhân cận huyết; các trường hợp bị coi là tảo hôn, hôn nhân cận huyết và hình thức xử lý (hành vi vi phạm về hành chính, hình sự; các hình thức xử phạt, các mức xử phạt…).
o Những tác hại của tảo hôn, hôn nhân cận huyết, kèm theo ví dụ minh họa, thông tin, số liệu minh chứng.
o Những địa chỉ hỗ trợ, tư vấn, trợ giúp khi cha mẹ, trẻ em rơi vào tình trạng bạo lực, tảo hôn, hôn nhân cận huyết.
o Những kiến thức, chia sẻ về an toàn tình dục, bảo vệ sức khỏe, chăm sóc gia đình cho phụ nữ, trẻ em.
o Những lợi ích của việc học văn hóa, học nghề, cơ hội việc làm, thu nhập, thoát khỏi đói nghèo.
o Định hướng, đưa ra lời khuyên đối với trẻ em và cha mẹ của trẻ trong giảm thiểu tảo hôn, hôn nhân cận huyết.
o Khi truyền thông, PBGDPL dành cho trẻ em, các kiến thức, pháp luật cần tập trung vào các quyền của trẻ em, quyền nói lên tiếng nói, ý kiến, nguyện vọng của trẻ; quy định của pháp luật về độ tuổi kết hôn và điều kiện kết hôn, quyền quyết định việc kết hôn của mình khi đến tuổi kết hôn theo quy định; các tác hại, hậu quả từ việc tảo hôn (nghỉ học, đi làm sớm để đóng góp kinh tế, sức khỏe, mang thai, sinh con sớm…), hôn nhân cận huyết…
o Nên có những lời khuyên cho các em trong việc phòng ngừa mang thai trước 18 tuổi để tránh nguy cơ sinh non, thiếu tháng, suy dinh dưỡng hoặc tử vong, ảnh hưởng tới sức khỏe của các em, hạn chế việc đi học... Những vấn đề nhạy cảm, liên quan đến riêng tư cần được dẫn dắt, diễn đạt hết sức khéo léo, tế nhị, không để ảnh hưởng đến tâm lý của trẻ.
o Đối với cha mẹ của trẻ em, tập trung truyền thông pháp luật về hôn nhân gia đình, giảm thiểu tảo hôn, hôn nhân cận huyết, quy định xử lý các hành vi vi phạm trong Bộ luật Hình sự, Luật Xử lý vi phạm hành chính; quyền trẻ em trong Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em và Luật bảo vệ trẻ em; các kiến thức về tác hại của tảo hôn, hôn nhân cận huyết, trách nhiệm của cha mẹ và người chăm sóc trong việc nuôi dưỡng, giáo dục và bảo vệ trẻ em…
Cần lưu ý việc bảo vệ sự riêng tư của nạn nhân trong các trường hợp tảo hôn, hôn nhân cận huyết, đặc biệt là trẻ em. Việc tiết lộ các thông tin thuộc bí mật riêng tư không được pháp luật cho phép, vì điều này sẽ tác động, ảnh hưởng đến tâm lý của bản thân trẻ em, dẫn đến cảm giác xấu hổ, mặc cảm, tự ti, hoặc trẻ sẽ bị các bạn trêu chọc, xa lánh, miệt thị.
2.6. Đề xuất tổ chức, cá nhân cùng phối hợp, tham gia truyền thông, PBGDPL
Người truyền thông, PBGDPL có thể phối hợp với tổ chức, cá nhân khác trong việc chuẩn bị, thực hiện truyền thông, phổ biến pháp luật để tăng cường hiệu quả và chất lượng công tác này. Sự tham gia của những người có chuyên môn về y tế, giáo dục, bảo vệ trẻ em… sẽ giúp việc chuẩn bị và chia sẻ thông tin được chính xác hơn, mang tính tin cậy hơn. Ví dụ, có thể mời cán bộ y tế xã để cung cấp các thông tin về sức khỏe sinh sản, tác hại của tảo hôn và hôn nhân cận huyết đối với sức khỏe sinh sản của người mẹ, sức khỏe của trẻ em được sinh ra và chất lượng giống nòi. Trong khi đó, sự tham gia của già làng, trưởng bản, những người có uy tín khác trong cộng đồng sẽ tăng tính thuyết phục khi vận động thay đổi những quan niệm, nhận thức lệch lạc liên quan đến hủ tục tảo hôn và hôn nhân cận huyết. Sự tham gia của cán bộ Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ trong việc hỗ trợ thực hiện các hoạt động phá băng, điều hành thảo luận trong các buổi truyền thông, PBGDPL với trẻ em, với phụ nữ sẽ giúp việc trao đổi thảo luận được dễ dàng hơn. Ngoài ra, có thể cân nhắc mời HGVCS cùng tổ hòa giải hoặc tổ hòa giải khác trên địa bàn, TTVPL cùng thôn/làng/bản/ấp hoặc cùng xã, Ban công tác mặt trận, cán bộ bảo vệ trẻ em, công an xã, bộ đội biên phòng, những người có uy tín, am hiểu kiến thức pháp luật.
Việc hỗ trợ, cùng thực hiện việc truyền thông, phổ biến pháp luật có thể theo một trong các cách thức như:
- Hỗ trợ, cùng chuẩn bị nội dung bài thuyết trình.
- Hỗ trợ thu thập thông tin, dữ liệu về tảo hôn, hôn nhân cận huyết.
- Cùng thảo luận, trao đổi về chủ đề, nội dung cần tuyên truyền, phổ biến theo nhóm đối tượng đã xác định.
- Hỗ trợ, cùng tham gia thyết trình.
- Hỗ trợ chính quyền liên hệ, huy động các đối tượng tham dự.