Kinh nghiệm quốc tế từ New Zealand về tác động môi trường và xã hội liên quan đến các khu bảo tồn
Sign In

Kinh nghiệm quốc tế từ New Zealand về tác động môi trường và xã hội liên quan đến các khu bảo tồn

1. Khái quát chung về công tác bảo tồn tại New Zealand
New Zealand là một trong những bài học điển hình của thế giới về những thành tựu trong công tác bảo tồn động thực vật. Là quốc đảo nằm ở phía Tây Nam Thái Bình Dương, New Zealand có tổng diện tích hơn 260,000 km2 và trong đó có đến 38% diện tích được bao phủ bởi rừng bản địa (native forest) và rừng trồng (plantation forest).  Hai loại rừng này có những đặc điểm sinh học, cách thức quản lý và giá trị khác nhau đối với người dân New Zealand. Rừng bản địa của New Zealand có diện tích 8 triệu hecta với 5,2 triệu hecta chịu sự quản lý của Nhà nước và 2,8 triệu hecta thuộc sở hữu tư nhân. Thực vật chủ yếu tại rừng bản địa là cây gỗ lớn như gỗ dẻ gai hay gỗ thông và dương xỉ. Bên cạnh rừng bản địa, rừng trồng, đóng vai trò quan trọng đối với ngành lâm nghiệp của New Zealand, có diện tích 2,1 triệu hecta và trồng chủ yếu gỗ thông, linh sam và bạch đàn.
Bên cạnh thảm thực vật chiếm đến hơn 1/3 diện tích toàn lãnh thổ, New Zealand còn có những đặc điểm rất riêng về động vật. Nếu quần thể sinh vật của đa số các quốc gia trên thế giới đều chịu ảnh hưởng từ sự tiến hóa của các loại động vật có vú, ở New Zealand, chim là loài động vật lớn nhất trong hệ sinh thái trên cạn.  Các loài chim phổ biến tại quốc gia này là những loài có kích thước rất lớn và không bay được hoặc khả năng bay bị giảm sút. Sự thống trị của loài chim ảnh hưởng nhiều đến sự phân bổ của các loài cây cối và bụi rậm.  Cùng với sự phân bổ của diện tích các khu rừng bản địa, các loài bò sát như tắc kè và thằn lằn cũng xuất hiện nhiều tại các khu rừng ẩm ướt. Tuy nhiên, những loài lớn như rắn hay cá sấu lại không được tìm thấy tại quốc gia này.
Tại New Zealand, có đến 90% các loài chim, côn trùng và 80% các loài cây và bò sát chỉ có tại quốc gia này. Với những con số nổi bật về diện tích rừng bao phủ và quần thể sinh vật đặc biệt này, công tác bảo tồn tại New Zealand được xem là sứ mệnh của cả Chính phủ và người dân. Các thống kê chỉ ra rằng 30% diện tích của quốc gia này được đặt dưới công tác bảo tồn của Chính phủ.  Phần lớn các khu vực bảo tồn của New Zealand được quy hoạch thành các Vườn quốc gia và được quản lý bởi Cục Bảo tồn (Department of Conservation – DOC). Hiện nay, New Zealand có đến 13 vườn quốc gia trải dải trên cả ba đảo chính, trong đó, Vườn quốc gia Tongariro là một trong những Di sản Thế giới có ý nghĩa cả về văn hóa và tự nhiên. Bốn trong số các vườn quốc gia ở Đảo Nam tạo thành quần thể Te Wahipounamu, một Di sản Thế giới khác với những địa danh nổi tiếng như Milford Sound, Mount Cook hay Fox Glacier.
Tầm quan trọng của công tác bảo tồn của New Zealand được thể hiện thông qua sự thành lập của một cơ quan chuyên trách là Cục Bảo tồn (Department of Conservation – DOC) với tầm nhìn biến New Zealand trở thành không gian sống lý tưởng nhất cho không con người mà còn cho cả các loài động thực vật. Cục Bảo tồn New Zealand được thành lập theo Đạo luật Bảo tồn năm 1987, với các chức năng chính bao gồm: 
-        Quản lý đất đai và các tài nguyên thiên nhiên và lịch sử khác theo Đạo luật;
-        Bảo tồn càng nhiều càng tốt tất cả nghề cá nước ngọt bản địa, bảo vệ nghề cá giải trí và môi trường sống nước ngọt;
-        Ủng hộ việc bảo tồn các tài nguyên thiên nhiên và lịch sử;
-        Thúc đẩy các lợi ích của việc bảo tồn (bao gồm Nam Cực và quốc tế);
-        Cung cấp thông tin bảo tồn; và
-        Khuyến khích hoạt động giải trí và cho phép du lịch, trong chừng mực các hoạt động đó không trái với việc bảo tồn bất kỳ tài nguyên thiên nhiên hoặc lịch sử nào.
Có thể nói rằng, DOC được trao cho nhiệm vụ bảo tồn các tài nguyên thiên nhiên và lịch sử, cung cấp thông tin bảo tồn và thúc đẩy các lợi ích kinh tế, môi trường và xã hội của việc bảo tồn. Công tác bảo tồn của DOC dựa rất trên sự phối hợp và ủng hộ của cả cộng đồng và trên quan điểm rằng đất bảo tồn là di sản chung của tất cả người dân New Zealand.
Ngoài ra cũng phải kể đến hệ thống các văn bản pháp luật điều chính các hoạt động bảo tồn của DOC cũng như các cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân tại New Zealand. Cụ thể như sau:
STT   Tên văn bản Năm  Nội dung về bảo tồn
1                 Đạo luật Động thực vật hoang dã        1953  Bảo vệ và kiểm soát động vật không thuần hóa và các loài chim.
2                 Đạo luật Dự trữ biển       1971  Cho phép DOC đưa ra các khuyến nghị về việc thành lập các khu bảo tồn biển theo những quy định của Đạo luật này.
3                 Đạo luật Dự trữ     1977  Cho phép DOC cấp phép các hoạt động diễn ra tại các khu vực bảo tồn.
4                 Đạo luật Kiểm soát động vật hoang dã 1977  Cấp phép cho các hoạt động săn bắn động vật hoang dã tại các khu bảo tồn.
5                 Đạo luật Bảo vệ các loại động có vú dưới nước      1978  Thành lập các Khu bảo tồn động vật có vú biển để tạo nơi trú ẩn lâu dài cho các loài động vật có vú biển và phê duyệt kế hoạch quản lý dân số cho các loài động vật có vú biển, với sự đồng ý của Bộ trưởng Bộ Thủy sản.
6                 Đạo luật Vườn quốc gia  1980  - Cho phép DOC đưa ra các khuyến nghị về việc thành lập hoặc mở rộng các Vườn quốc gia;
- Cho phép DOC cấp phép các hoạt động diễn ra tại các Vườn quốc gia.
7                 Đạo luật Đánh cá   1983  Xác định và đánh giá các tác động bất lợi của việc đánh bắt đối với môi trường nước (đặc biệt là đối với các loài được bảo vệ).
8                 Đạo Luật Bảo tồn  1987  - Thành lập Cục Bảo tồn, Cơ quan Bảo tồn (Conservation Authority) và Ban Bảo tồn (Conservation Board);
- Xác định các khu vực bảo tồn;
- Cấp phép các hoạt động trên khu vực bảo tồn và quản lý các hoạt động này;
- Thu phí sử dụng các công trình bảo tồn công cộng.
9                 Đạo luật Buôn bán các loài nguy cấp  1989  - Thực hiện Công ước quốc tế về buôn bán các loài động, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES);
- Kiểm soát việc nhập khẩu và xuất khẩu của New Zealand đối với các loài được liệt kê trong Công ước này.
10               Đạo luật Khoáng sản Hoàng gia 1991  Cấp phép các hoạt động khai thác khoáng sản tại các khu vực bảo tồn, và bãi biển công cộng và đáy biển.
11               Đạo luật Quản lý tài nguyên     1991  Thúc đẩy việc quản lý bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên và vật chất.
12               Đạo luật An ninh sinh học        1993  Đưa ra các biện pháp đảm bảo an ninh sinh học và đa dạng sinh học cho các loài bản địa.
13               Đạo luật Tự do cắm trại  2011  Giải quyết những ảnh hưởng tiêu cực của việc cắm trại ở một địa điểm không phải là khu cắm trại được chỉ định và thiếu cơ sở vật chất.
14               Đạo luật Vùng biển và ven biển (Takutai Moana)   2011  Quy định sự tham gia của iwi (bộ lạc) vào các quá trình liên quan đến bảo tồn, chẳng hạn như cấp giấy phép cho hoạt động đánh bắt động vật có vú biển và thành lập các khu bảo tồn biển.
Nhìn chung, hệ thống các văn bản pháp luật trong nước của New Zealand có đề cập đến vấn đề bảo tồn là rất đa dạng với những văn bản chuyên biệt về từng đối tượng khác nhau đến những văn bản mang tính chất rất toàn diện về công tác bảo tồn như Đạo luật Bảo tồn năm 1987.
Bên cạnh đó, New Zealand cũng là thành viên của nhiều điều ước quốc tế và các tổ chức quốc tế về vấn đề môi trường và bảo tồn. Có thể kể đến các công ước như:
-        Hiệp định về Bảo tồn Chim hải âu và Chim cảnh
-        Hiệp ước Nam Cực
-        Công ước quốc tế về Buôn bán các loài động, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES)
-        Công ước về Đa dạng sinh học (CBD)
-        Công ước về Bảo tồn Tài nguyên Sinh vật Biển Nam Cực (CCAMLR)
-        Công ước về Bảo tồn các loài động vật hoang dã di cư (CMS)
-        Công ước về Bảo tồn Thiên nhiên ở Nam Thái Bình Dương
-        Công ước về Bảo tồn cá ngừ vây xanh phương Nam
-        Công ước quốc tế về Quy định đánh bắt cá voi
Với những đặc điểm riêng biệt về thảm thực vật đa dạng và quần thể sinh vật phong phú trải dài trên khắp lãnh thổ, New Zealand đặt công tác bảo vệ môi trường và bảo tồn nguồn tài nguyên thiên nhiên này làm ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển bền vững của mình thông qua hệ thống các văn bản pháp luật trong nước, các cơ quan chuyên trách và sự tham gia tích cực vào các điều ước quốc tế về vấn đề bảo tồn.
Hơn thế nữa, công tác bảo tồn của New Zealand luôn song hành với sự phát triển kinh tế. Nói cách khác, nhằm phát triển nền kinh tế phụ thuộc lớn vào nguồn tài nguyên thiên nhiên trong nước, New Zealand đã lồng ghép vấn đề môi trường và kinh tế vào chính sách phát triển của quốc gia.  Nhiều ngành công nghiệp, dịch vụ, đặt biệt là du lịch được tiến hành ngay tại các vườn quốc gia hay những khu vực bảo tồn khác của New Zealand đòi hỏi quốc gia này phải đưa ra những giải pháp nhằm cân bằng công tác bảo tồn và hoạt động kinh tế diễn ra tại các khu vực bảo tồn.
Đầu tiên phải kể đến việc phân loại các khu vực bảo tồn nhằm giới hạn phạm vi cũng như mức độ của các hoạt động kinh tế tại khu vực này. Theo Đạo luật Bảo tồn năm 1987, tại New Zealand tồn tại bốn phân loại khu bảo tồn. Thứ nhất là Rừng quốc gia (National park), là một vùng đất (và nước) có cảnh quan với chất lượng đặc biệt, hệ thống sinh thái hoặc đặc điểm tự nhiên đẹp, độc đáo hoặc quan trọng về mặt khoa học phục vụ lợi ích quốc gia. Đây là nơi được bảo vệ tối đa, do đó, rất nhiều hoạt động sẽ bị hạn chế. Cụ thể hơn, rừng quốc gia được chia làm 03 phân khu với mức độ bảo tồn khác nhau, bao gồm: (i) khu vực bảo vệ đặc biệt (specially protected area) là nơi được bảo vệ nghiêm ngặt để hạn chế tối đa tác động của con người, (ii) khu vực hoang dã (wilderness area) là những vùng đất/nước hoang dã đa dạng về cảnh quan cho phép các hoạt động giải trí thể chất được diễn ra, và (iii) khu vực tiện nghi (amenities area) là các khu vực nhỏ thích hợp cho việc phát triển và vận hành các hoạt động vui chơi giải trí và các tiện nghi, dịch vụ liên quan thích hợp cho mục đích sử dụng công cộng của rừng quốc gia.
Thứ hai là Khu bảo tồn hoang dã (Wildlife area), là khu vực được xác định là cần quản lý để bảo tồn động vật hoang dã và môi trường sống của chúng (ví dụ khu vực có một loài cụ thể hoặc địa điểm làm tổ). Các hoạt động kinh tế tại các khu vực này phụ thuộc vào loài động/thực vật hoang dã đang được bảo tồn tại khu vực đó. Vì vậy, sẽ có những vùng được tiếp cận tự do nhưng cũng có những vùng mà hoạt động kinh tế sẽ chỉ được cấp phép trong một khoảng thời gian nhất định trong năm để giảm thiểu sự ảnh hưởng đến đời sống của động/thực vật hoang dã đang được bảo tồn.
Thứ ba là Khu dự trữ (Reserve area), là khu vực bảo tồn được tách riêng nhằm hỗ trợ DOC trong việc quản lý việc sử đất vào các mục đích khác nhau. Các hoạt động kinh tế sẽ được cho phép diễn ra tại các khu vực này nếu nó phù hợp với mục đích của từng khu dự trữ bao gồm giải trí (bao gồm các hoạt động giải trí, thể thao,…), lịch sử (phù hợp với các hoạt động mang tính chất văn hóa, giáo dục,…), cảnh quan (như các hoạt động du lịch, tham quan), khoa học (là những khu vực dành riêng cho các hoạt động nghiên cứu khoa học hay giáo dục) và các hoạt động phục vụ mục đích công cộng của địa phương xây dựng hội trường công cộng hay thư viện.
Cuối cùng là Khu bảo tồn (Conservation area), là khu vực mới mức độ bảo vệ thấp hơn ba phân loại trên. Chính vì vậy, các hoạt động được cho phép diễn ra tại khu vực này cũng đa dạng hơn. Tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa với việc các hoạt động có thể được diễn ra tự do mà không chịu sự quản lý hay kiểm soát của chính quyền.
Tuy nhiên, nhằm đảm bảo hơn nữa việc vận hành các hoạt động kinh tế tại các khu bảo tồn này phù hợp với mục đích và quy định pháp luật liên quan đến các khu bảo tồn cụ thể, một trong những thành tựu của New Zealand trong công cuộc này chính là là cơ chế Đánh giá tác động môi trường (Environmental Impact Assessment – EIA). Theo đó, tất cả các hoạt động thương mại hay du lịch diễn ra tại các khu bảo tồn buộc phải trải qua cơ chế Đánh giá tác động môi trường trước khi được tiến hành trên thực tế.
2. Cơ chế đánh giá tác động môi trường tại New Zealand
Từ rất sớm, New Zealand đã nhận thức được tầm quan trọng của việc kết hợp giữa bảo vệ môi trường, đặc biệt là các khu bảo tồn, và phát triển kinh tế. Do đó, từ năm 1973, cơ chế EIA đã xuất hiện lần đầu tại Các Quy chế về Bảo vệ và cải thiện môi trường (Environmental Protection and Enhancement Procedures) của Ủy ban Môi trường (Commission for the Environment) thuộc Hội đồng Phát triển quốc gia (National Development Council).  Tại Quy chế này, EIA được định nghĩa là một cơ chế “đánh giá có ý thức và có hệ thống về các tác động môi trường của việc lựa chọn giữa các phương án có thể mở cho người ra quyết định”.
Trải qua năm thập kỷ với nhiều lần chỉnh sửa, cơ chế EIA hiện nay được tiến hành bởi Cục Bảo tồn New Zealand với mục đích tạo tiền đề cho việc cấp phép các hoạt động kinh tế tại các khu bảo tồn thiên nhiên. Bên cạnh việc hỗ trợ DOC trong quá trình đánh giá bản chất và tác động của các hoạt động tại các khu bảo tồn thiên nhiên, EIA cũng đem đến rất nhiều các lợi ích cho người đăng ký (applicant), như: Giúp người đăng ký xác định, hiểu rõ hơn về các tác động tích và tiêu cực từ những hoạt động mà họ đề xuất tiến hành; Giúp kiểm tra sự phù hợp của đề xuất; Giúp người đăng ký tìm hiểu thêm về những biện pháp nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực đến các giá trị tự nhiên, lịch sử, giải trí và văn hóa; Cung cấp cơ sở cho quá trình giám sát sau này của hoạt động được đề xuất.
Các báo cáo EIA được thực hiện bởi cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức xã hội kết hợp (incorporated society), quỹ ủy thác, các trung tâm giáo dục,… trong quá trình đăng ký các hoạt động tại các khu bảo tồn như chăn nuôi, du lịch, quay phim, các hoạt động thể thao hay xây dựng. Quy trình EIA bao gồm 07 bước: (1) Nộp đề xuất hoạt động; (2) Đánh giá sơ bộ; (3) Giới hạn phạm vi; (4) Chuẩn bị báo cáo EIA; (5) Xem xét EIA; (6) Đưa ra quyết định; (7) Tiến hành và giám sát. Toàn bộ quy trình EIA được thực hiện với sự phối hợp giữa người đăng ký và DOC.
Đầu tiên, các đề xuất được sàng lọc để xác định những đề xuất cần đánh giá tác động môi trường cần thiết phải tiến hành. Theo đó, tại bước Đánh giá sơ bộ, DOC có thể (i) loại bỏ các đề xuất gây ra những tác động tiêu cực không thể chấp nhận được đến môi trường, hoặc (ii) yêu cầu thực hiện báo cáo EIA đối với những đề xuất có khả năng gây ra các tác động đáng kể đến môi trường hay gây ra các cuộc tranh cãi trong dư luận, (iii) hoặc không yêu cầu thực hiện báo cáo EIA đối với các hoạt động “truyền thống” có những tác động rõ ràng và được chấp nhận.
Tiếp theo đó, tại bước xác định phạm vi, DOC sẽ sắp xếp một cuộc gặp giữa nhân viên và người đăng ký nhằm xác định phạm vi của các tác động môi trường và dựa trên cơ sở này, nhân viên của DOC sẽ tham vấn và đề xuất các biện pháp nhằm giảm thiệu những tác động tiêu cực từ hoạt động được đề xuất. Tại bước tiếp theo, các đánh giá thực tế về tác động liên quan đối với một loạt các giải pháp thay thế khả thi được thực hiện và các biện pháp giảm thiểu sẽ được xác định. Có thể sử dụng nhiều kỹ thuật đánh giá bao gồm danh sách kiểm tra đơn giản về các tác động tiềm ẩn, ma trận của các hoạt động phát triển và điều kiện môi trường,…  Thông tin đánh giá được lập thành văn bản và báo cáo, thường dưới dạng dự thảo hoặc báo cáo tác động môi trường cuối cùng (environment impact statement - EIS) hoặc báo cáo (environment impact  report - EIR). EIS thường được xem xét bởi một hay một số hoặc tất cả những cơ quan sau đây: các quan chức chính phủ, người ra quyết định, hội đồng đánh giá độc lập, những nhóm lợi ích bị ảnh hưởng hoặc công chúng. Các tài liệu và nghiên cứu có thể phải sửa đổi nhiều lần trong quá trình đánh giá. Các khuyến nghị từ việc xem xét đánh giá tác động môi trường thường được cung cấp cho người ra quyết định, và sau đó, họ sẽ quyết định xem đề xuất có được phép tiến hành hay không và trong những điều kiện nào. Nếu được chấp thuận, đề xuất sẽ được thực hiện và các tác động môi trường và tuân thủ các điều kiện thường phải được giám sát. Về mặt lý thuyết, kết quả giám sát được đưa trở lại quá trình để cải thiện độ chính xác của việc sàng lọc và dự đoán. Sự tham gia của cộng đồng có thể được yêu cầu ở bất kỳ hoặc tất cả các giai đoạn của quá trình.   Mặc dù được trình bày là một quy trình có tính thẳng từ đầu tới cuối, nhưng thực tế quá trình tham vấn thường diễn ra nhiều vòng phản hồi, trong đó đề xuất có thể được liên tục sửa đổi và đánh giá lại. 
 
3. Báo cáo tác động môi trường (EIA Application)
Nếu như phần trên của nghiên cứu này tập trung tìm hiểu quy trình chung của cơ chế EIA đối với các đề xuất hoạt động tiến hành tại các khu bảo tồn. Phần tiếp theo của nghiên cứu sẽ đi sâu vào tìm hiểu nội dung của một báo cáo EIA nhằm đưa ra cái nhìn thực tế hơn về những nội dung và tiêu chí được sử dụng bởi DOC để đánh giá mức độ phù hợp của các hoạt động tiến hành tại các khu vực bảo tồn tại New Zealand.
Đối với những đề xuất hoạt động được yêu cầu nộp báo cáo EIA, người nộp đơn sẽ phải thực hiện phải hoàn thiện hai báo cáo là Báo cáo chung và Báo cáo cụ thể của 07 nhóm hoạt động bao gồm: hoạt động chăn thả gia súc, thuê hoặc sử dụng cơ sở vật chất hiện có của DOC, sử dụng đất của khu vực bảo tồn cho các công trình thương mại tư nhân, du lịch và giải trí, quay phim, tổ chức các hoạt động thể thao và xây dựng các công trình ở khu dự trữ dưới nước.
Nhìn chung, các mẫu báo cáo mà DOC ban hành đều có đặc điểm chung là đòi hỏi người nộp đơn phải (1) Mô tả khu vực dự kiến sẽ bị ảnh hưởng bởi hoạt động đề xuất, (2) Đưa ra các ảnh hưởng tiềm tàng từ hoạt động đề xuất, (3) Đưa ra các biện pháp nhằm thay thế hoặc giảm thiểu các tác động đến môi trường từ hoạt động đề xuất và (4) Lên kế hoạch về công tác giám sát sau khi hoạt động được tiến hành.
3.1. Đánh giá hiện trạng môi trường
Để có thể đưa các đánh giá chính xác nhất về tác động của hoạt động được đề xuất, người nộp đơn cần phải hiểu rõ về môi trường – nơi dự định diễn ra các hoạt động. Do đó, Báo cáo EIA yêu cầu người nộp đơn phải xác định và mô tả các đặc điểm của môi trường tự nhiên bao gồm:
-        Mô tả môi trường tự nhiên (natural environment) hiện tại:
       Xác định các đặc điểm tự nhiên quan trọng của cảnh quan;
       (Các) hệ sinh thái tự nhiên hiện có - ghi nhận bất kỳ (các) hệ sinh thái nào đặc biệt hoặc duy nhất đối với (các) khu vực;
       Các môi trường sống quan trọng trong hệ sinh thái của các loài động thực vật bản địa;
       Các khu vực thảm thực vật quan trọng;
       Sự tồn tại của các loài bị đe dọa (ví dụ như chim, thực vật, côn trùng).
-        Mô tả các cảnh quan lịch sử và khảo cổ
-        Mô tả môi trường xã hội (social environment) hiện tại:
       Đối với khách tham quan:
       Khu vực hiện đang hỗ trợ những loại hoạt động nào?
       Mục đích giải trí của khách tham quan hay những giá trị thu hút khách tham quan tại khu vực này là gì?
       Ý kiến/quan điểm của khách tham quan đối với đề xuất này là như thế nào?
       Các hoạt động khác đang được tổ chức tại khu vực này là gì?
       Đối với tangata whenua (người bản địa):
       Lịch sử Maori và ý nghĩa tinh thần của (các) khu vực (đây có thể là những khu vực đã được công nhận là các khu định cư theo hiệp ước giữa người bản địa và Chính phủ);
       Các vấn đề môi trường có thể xảy ra đối với người Maori, ví dụ: liên quan đến việc sử dụng nước, thực vật và động vật có tầm quan trọng truyền thống đối với người Maori;
       Các vấn đề liên quan đến việc kể lại và giải thích lịch sử của người Maori.
Khi mô tả và đánh giá môi trường tự nhiên và môi trường xã hội tại khu vực bảo tồn, người nộp đơn có thể gửi kèm các đánh giá hay ý kiến của chuyên gia để làm tăng sức thuyết phục cho báo cáo. Bên cạnh đó, người nộp đơn cũng có thể tham khảo thêm các tài liệu như Chiến lược quản lý hoạt động bảo tồn của DOC hay của các vườn quốc gia.
3.2. Đánh giá các tác động đến môi trường
Tất cả các tác động tiêu cực tiềm tàng từ đề xuất hoạt động cần phải được nêu rõ trong Báo cáo EIA. Nhằm hướng dẫn người nộp đơn trong việc đánh giá chính xác các tác động đến môi trường có thể gây ra từ hoạt động được đề xuất, DOC đã ban hành Công cụ Xác định Tác động (Effects Identification Tools). Theo đó, các hoạt động được cho là có tác động nhỏ đến vừa bao gồm: săn bắn và đánh cá, các chuyến đi bộ có hướng dẫn viên ngắn và qua đêm, máy bay hạ cánh một lần hoặc không thường xuyên, đi bè hoặc chèo thuyền kayak, một số hoạt động quay phim, chăn thả gia súc ngắn hạn, các sự kiện nhỏ diễn ra một lần, sự kiện thể thao lớn hàng năm. Các hoạt động có thể gây ra tác động lớn và đáng kể bao gồm xây dựng các cơ sở hạ tầng, các hoạt động có tác động nhỏ ở các địa điểm nhạy cảm, máy bay hạ cánh thường xuyên, quay phim ở phạm vi rộng, chăn thả gia súc dài hạn và các khu vực viễn thông.
Trong quá trình xác định các tác động, người nộp đơn cần đảm bảo cung cấp đầy đủ tác động trực tiếp, tác động gián tiếp và tác động tích lũy.  Trong đó, tác động trực tiếp là kết quả của một hành động gây ra sự thay đổi trực tiếp đối với môi trường; chúng là những tương tác nhân quả trực tiếp, ví dụ như người hay gia súc giẫm đạp lên cây trồng khiến cây trồng chết. Tác động gián tiếp là những tác động xảy ra do tác động ban đầu nhưng có thể tách khỏi chúng theo thời gian hoặc từ khu vực xảy ra tác động ban đầu, ví dụ xói mòn do mất thảm thực vật (do giẫm đạp). Tác động tích lũy là sự tích lũy các tác động theo thời gian và không gian do sự kết hợp của các tác động từ một hoạt động/sự phát triển hoặc kết hợp các tác động từ một số hoạt động. Do đó, các tác động tích lũy có thể khác nhau về bản chất, lớn hơn về mức độ, ý nghĩa lớn hơn, lâu dài hơn và/hoặc ở mức độ lớn hơn bất kỳ tác động riêng lẻ nào. Ví dụ, tác động tích lũy của việc giẫm đạp và xói mòn do đàn thả rong suốt chiều dài của một khu vực ven sông, có thể dẫn đến việc giảm chất lượng nguồn nước và nơi sinh sống của các loài cá tại khu vực sông đó.
3.3. Các biện pháp thay thế hoặc giảm thiểu tác động
Tương ứng với từng tác động môi trường đã được liệt kê ở trên, người nộp đơn cần phải đưa ra các biện pháp nhằm đảm bảo giảm thiểu một cách tối đa các tác động này. Tuy nhiên, lý tưởng nhất vẫn là tránh gây ra các tác động xấu đến môi trường và chỉ khi những tác động này không thể tránh khỏi mới áp dụng các biện pháp giảm thiểu tác động.  Ví dụ, việc giảm thiểu có thể liên quan đến việc hạn chế số lượng tham gia, các tuyến đường đi, sử dụng máy bay trực thăng và tránh thời gian làm tổ của các loài chim. Về xây dựng các công trình, có thể kết hợp các phương án thiết kế để giảm tác động trực quan và sử dụng các vật liệu xây dựng thích hợp.
Như đã đề cập đến ở trên, DOC đã ban hành Công cụ Xác định Tác động (Effects Identification Tools) với mục đích hướng dẫn người nộp đơn trong việc xác định các tác động cũng như đề xuất các biện pháp nhằm giảm thiểu tác động đến môi trường của các hoạt động như sau:
Các giá trị   Tác động tiêu cực có thể xảy ra Gợi ý các biện pháp giảm thiểu tác động
Các giá trị về đất   Làm giảm sút hoặc gây tổn hại đến đa dạng sinh học của các loài bản địa.          - Tác động nghiêm trọng, có thể phải lựa chọn địa điểm thay thế, tập trung các hoạt động vào những nơi có thể sử dụng lâu dài, hoặc lựa chọn khoảng thời gian có thể giảm thiểu tác động từ du khách;
- Ở mức độ hoạt động tổng thể rất thấp, các hoạt động phân tán có thể giảm thiểu tác động.
          Giải phóng mặt bằng, gây xáo trộn, làm thay đổi hoặc phá hủy bất kỳ thảm thực vật hoặc khu vực tự nhiên   - Đây là tác động nghiêm trọng, nếu tác động này không thể tránh, thì việc khôi phục cảnh quan này là cần thiết;
- Nếu tác động này diễn ra dọc theo một tuyến đường, thì việc bồi đắp tuyến đường đó có thể là một lựa chọn (lưu ý rằng việc cải thiện khả năng tiếp cận có thể thu hút thêm nhiều khách mới);
- Hướng dẫn nhân viên và khách hàng về các kỹ thuật cắm trại ít gây tác động đến môi trường và lý do tại sao họ nên đi theo các tuyến đường hiện có và không hái/thu thập các loài thực vật.
          Gây thiệt hại cho động vật hoang dã và nơi sống của chúng.
Có thể do sự xáo trộn, thay đổi môi trường sống hoặc trực tiếp giết chết và sau đó ảnh hưởng đến khả năng thích nghi, di cư, sinh sản và dẫn đến sự thay đổi quần thể và thành phần loài.          - Tác động không thể chấp nhận được. Cần phải xem xét biện pháp thay thế cho đề xuất, đặc biệt trong trường hợp khu vực bị ảnh hưởng là khu vực nhạy cảm hoặc là nơi sinh sản;
- Đưa ra khoảng cách iếp cận phù hợp và hướng dẫn nhân viên, khách hàng về những hành vi phù hợp tại những nơi có động vật hoang dã. Cảnh báo khách tham quan về những nguy hiểm có thể xảy ra.
- Không làm động vật hoang dã giật mình bằng âm thanh hoặc quần áo sáng màu;
- Sử dụng tia hồng ngoại thay vì đèn pin để nhìn vào ban đêm;
- Không được cho bất cứ loài động vật nào ăn;
- Đảm bảo các phương tiện 4 bánh tuân thủ mã tác động tối thiểu, và đặc biệt cẩn thận trong khoảng thời gian chim làm tổ. Đảm bảo thuyền và phương tiện 4 bánh giảm tốc độ tại những nơi có động vật hoang dã;
- Lựa chọn các phương tiện di chuyển thay thế;
- Đặt ra các điều kiện về môi trường phù hợp đối với những khu vực thuộc đề xuất nhằm đảm bảo không gây ảnh hưởng đến nơi sinh sống của động vật hoang dã;
- Đặt bẫy động vật ăn thịt;
- Báo cáo khẩn cấp cho DOC khi phát hiện các hoạt động bất thường.
          Làm xuất hiện hay tăng khả năng xuất hiện các mối đe dọa với đến hệ sinh thái bản địa như các loại côn trùng hay cỏ dại.       - Đảm bảo thực thi chính sách đi giầy sạch (clean boot policy) và hướng dẫn khách hàng về tầm quan trọng của những tác động đến công tác bảo tồn tại NZ. Để ngựa ăn cỏ dại trong ba ngày trước khi cho khách đến thăm;
- Đảm bảo tất cả các loại máy móc và sỏi không có cỏ dại;
- Nếu đây là địa điểm cụ thể thì hãy theo dõi sự lây nhiễm và có các chương trình kiểm soát để kiểm soát sâu bệnh hoặc cỏ dại nếu cần thiết.
          Thải ra các chất ô nhiễm hoặc mùi khó chịu. - Đảm bảo các máy móc được bảo dưỡng cẩn thận và hoạt động trong trạng thái tốt, nhiên liệu được lưu trữ trong các phương tiện được lắp đặt đúng cách, và việc tiếp nhiên liệu diễn ra tại các khu vực kín hoặc sử dụng thảm trải tràn nhiên liệu. Có kế hoạch dự phòng để lau dọn trong trường hợp xảy ra sự cố. Ngoài ra, tham khảo thêm các quy định trong Đạo luật Lưu trữ Hàng hóa Nguy hiểm (Storage of Dangerous Goods Act).
Các giá trị thủy sinh và biển      Gây thiệt hại, làm xáo trộn hay thay đổi môi trường thủy sinh hay môi trường sống ở các dòng chảy. - Có thể gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng tại những khu vực có mật độ sử dụng cao. Cần tuyên truyền về việc chăm sóc môi trường cho nhân viên và khách hàng. Không lấy đi từ các khu bảo tồn biển;
- Cung cấp và chia sẻ neo an toàn cố định (không sử dụng mỏ neo);
- Tập trung hoặc phân tán các hoạt động lặn tùy theo mức độ sử dụng;
- Đảm bảo tàu thuyền hoạt động ở tốc độ thấp trong vùng nước nông.
          Hạn chế dòng di chuyển của các loài cá bản địa.     - Tác động rất nghiêm trọng. Tìm kiếm các phương pháp hay địa điểm thay thế; nếu không thể tránh khỏi thì lắp đặt một dòng di chuyển riêng dành cho cá.
          Thải ra các chất ô nhiễm, bao gồm cả trầm tích ra đường nước, ví dụ: dầu diesel tràn          - Đảm bảo các chất thải được chôn lấp cách mọi nguồn nước ít nhất 50m;
- Đảm bảo các máy móc được bảo dưỡng cẩn thận và hoạt động trong trạng thái tốt, nhiên liệu được lưu trữ trong các phương tiện được lắp đặt đúng cách, và việc tiếp nhiên liệu diễn ra tại các khu vực kín hoặc sử dụng thảm trải tràn nhiên liệu. Có kế hoạch dự phòng để lau dọn trong trường hợp xảy ra sự cố;
- Sử dụng bẫy lắng cặn hoặc cần câu nếu làm việc gần các tuyến đường thủy;
- Tất cả chất thải tàu thuyền bao gồm cả nước dằn phải được xử lý đúng cách bên ngoài khu vực được bảo vệ;
- Giám sát việc xả nước thải và đảm bảo trường thoát nước thích hợp nếu không thể thoát ra ngoài.
          Xói mòn, ăn mòn hoặc lắng đọng lòng sông hoặc bờ.       - Đảm bảo tất cả các hoạt động 'lên đồi' được quản lý tốt để tránh giảm thiểu dòng chảy và giảm chất lượng nước;
- Khôi phục thảm thực vật bản địa cho các bãi sông;
- Giảm tốc độ của thuyền hoặc phương tiện;
- Tập trung và làm cứng điểm băng qua suối.
          Làm thay đổi mực nước trong các nguồn nước hoặc vùng đất ngập nước.      - Có khả năng tác động đáng kể đến đời sống thủy sinh và thảm thực vật. Nếu không có vị trí thay thế thì xem xét các thiết kế thay thế như đập nhỏ 'tự nhiên' với đường đi của cá hoặc thu gom nước mưa.
          Làm xuất hiện hay tăng khả năng xuất hiện các mối đe dọa với đến hệ sinh thái bản địa như các loại côn trùng hay cỏ dại.       - Gây ra mối đe dọa nghiêm trọng cho công tác bảo tồn. Hướng dẫn khách hàng về tầm quan trọng của những mối đe dọa này đối với công tác bảo tồn của NZ;
- Đảm bảo tất cả các loại tàu thuyền được giữ sạch sẽ và không có cỏ dại;
- Nếu địa điểm cụ thể, sau đó theo dõi sự lây nhiễm và có các chương trình kiểm soát để kiểm soát sâu bệnh hoặc cỏ dại.
Các giá trị lịch sử  Gây thiệt hại cho các di tích hoặc vật thể lịch sử, bao gồm cả wahi tapu (các địa điểm mang ý nghĩa tôn giáo và tâm linh của người Maori), ví dụ như việc làm xáo trộn mặt đất.    - Hướng dẫn nhân viên và khách hàng tránh gây tác động đến các giá trị được bảo tồn;
- Giới hạn khoảng cách tiếp cận, đi đúng lối đi và khác khu vực dành cho lối đi bộ hiện có;
- Nếu các giá trị lịch sử điểm thu hút khách hàng chủ yếu, tuân thủ các chương trình bảo trì và phục hồi của DOC.
Các giá trị văn hóa Công kích tangata whenua hoặc các thành viên của công chúng nói chung.
Đưa ra các câu chuyện lịch sử không chính xác.     - Tham vấn với iwi về đề xuất này;
- Đảm bảo việc giải thích/diễn giải các giá trị văn hóa tuân thủ những giá trị của iwi.
- Hướng dẫn khách hàng tôn trọng các giá trị văn hóa và truyền thống.
Các giá trị cảnh quan      Gây thiệt hại đến địa mạo.
Gây ảnh hưởng đến cảnh quan.
Gây thiệt đối với các đặc điểm địa chất.
Giảm đặc điểm tự nhiên của đất ngập nước, sông và suối.
Mất không gian mở.        - Bất kỳ hoạt động nào có tác động đến giá trị cảnh quan đều có thể gây ra các tác động đáng kể khác đến thảm thực vật, động vật hoang dã hoặc môi trường sống của chúng;
- Để xây dựng bất kỳ cơ sở nào, phải xem xét các địa điểm thay thế bên ngoài khu bảo tồn hoặc vườn quốc gia;
- Có thể sử dụng bất kỳ tòa nhà/công trình hiện có nào không?
- Kiểm tra các thiết kế thay thế sẽ hòa hợp công trình với cảnh quan. Các thiết kế nhẹ nhàng, càng ít tầng càng tốt, sử dụng vật liệu tự nhiên và màu sắc hài hòa với môi trường sẽ được ưu tiên;
- Phối màu phải luôn có mái tối và tất cả các màu phải có hệ số phản xạ ánh sáng thấp;
- Đối với lĩnh vực viễn thông, hãy xem xét các địa điểm thay thế, đặt chung hoặc lựa chọn các cách khác để hòa nhập vào công trình.
Giải trí/Tiếp cận tự do     Tập trung đông đúc, có quá nhiều người trong các trại hoặc dọc lối đi ở khu vực giải trí.
Xung đột giữa nhiều loại hoạt động và khách hàng. - Đảm bảo quy mô bữa tiệc phù hợp với khu vực giải trí, tần suất và thời gian ghé thăm vào những khoảng thời gian thấp điểm trong ngày, tuần, mùa hoặc năm;
- Mang theo lều trong trường hợp trại hết chỗ;
- Kết hợp các chuyến thăm với các nhà cung cấp dịch vụ khác;
- Nếu đề xuất không phù hợp với các khu vực giải trí, nên xem xét lựa chọn địa điểm thay thế.
          Các khách tham quan khác có thể phải chuyển sang đia điểm khác do đề xuất.        - Tác động rất nghiêm trọng, nên tìm kiếm các địa điểm thay thế phù hợp hơn;
- Giới hạn tần suất sử dụng các trại xuống 50% đối với những khai thác thương mại.
          Tiếng ồn làm ảnh hưởng đến những người đang tận hưởng không gian yên tĩnh ở công viên.  - Hướng dẫn nhân viên và khách hàng về sự cân thiết của việc tôn trọng các khách tham quan khác và quyền được tận hưởng không gian yên tĩnh của họ;
- Máy bay, tàu thuyền và các phương tiện khác: áp dụng các công nghệ ít gây tiếng ồn, iểm tra đường bay, độ cao, cài đặt RPM, tần suất chuyến đi, thời gian tập trung của chuyến đi.
- Phát triển các quy tắc ứng xử hay các tiêu chuẩn có ngành du lịch.
          Hạn chế tiếp cận hoặc các cơ hội giải trí của những người khác. - Tác động nghiêm trọng đến khu vực công cộng và thường không được chấp nhận;
- Xem xét các thiết kế thay thế để tránh việc hạn chế sự tiếp cận của công chúng.
          Sự an toàn. Liệu hoạt động được đề xuất có gây ra rủi to nào đến sự an toàn công cộng hay tác động tiêu cực đến sức khỏe không?
Sự trầm trọng của các thiên tại. - Đặt thông báo bằng các ngôn ngữ phù hợp;
- Quản lý rủi ro và lưu trữ hàng hóa nguy hiểm;
- Cung cấp chi tiết cách thức quản lý rủi ro trong kế hoạch quản lý an toàn và cách thức nâng cao nhận thức của nhân viên về vấn đề này;
- Nếu có bất cứ mối nguy hại nào xảy ra, cần tuân thủ các thủ tục để báo cáo ngay lập tức với DOC.
          Thiệt hại hoặc ảnh hưởng đến các công trình sử dụng công cộng hiện có khác.        - Hướng dẫn nhân viên và khách hàng tôn trọng các công trình công cộng;
- Đề xuất bảo trì hoặc đóng góp cho chương trình bảo trì.
Tác động tích lũy lên các giá trị Liệu hoạt động được đề xuất có dẫn đến bất kỳ tác động tích lũy đáng kể nào đến môi trường vật lý, xã hội hoặc quản lý của khu vực bảo tồn hay không.          - Có thể dẫn đến tác động nghiêm trọng; rất khó để quản lý đối với các nhà khai thác đơn lẻ;
- Xem xét các địa điểm thay thế hoặc tập trung các hoạt động vào thời gian thấp điểm;
- Cung cấp các kế hoạch phát triển và kinh doanh cho các giới hạn tăng trưởng tự nhiên;
- Tập trung vào những khách hàng có tiềm năng lớn hay vì đẩy mạnh số lượng khách hàng;
- Làm việc với DOC trong quá trình triển khai các kế hoạch nhằm bảo vệ các giá trị.
Cơ sở hạ tầng        Ảnh hưởng đến các cơ sở hạ tầng hiện có như:
- Khu cắm trại;
- Bãi đỗ xe;
- Trại dừng chân;
- Cầu cảng;
- Lối đi;
- Các cơ sở hạ tầng khác. - Trả phí sử dụng trại nghỉ chân nhằm bảo trì các trại;
- Nộp tiền bảo trì cho việc sử dụng cầu cảng đáng kể, sử dụng cọc tiêu để kéo vào cầu cảng, sử dụng lốp xe để đệm va đập;
- Chỉ tổ chức các hoạt động thể thao vào mùa khô;
- Đảm bảo mọi người đi đúng lối đi.
Các giá trị khác     Không tương thích với các giá trị của khu bảo tồn, ví dụ như tuyên truyền thông điệp chống bảo tồn.         - Tìm kiếm các khu vực thay thế khác hoặc các thông điệp khác gắn với công tác bảo tồn hơn.
          Rác hoặc mảnh vụn còn sót lại. - Không thể chấp nhận được. Tuyên truyền cho nhân viên và khách hàng triết lý “Đóng mang đi, đóng mang về”;
- Chỉ định ai đó trong nhóm làm ‘tail end Charlie’;
- Cung cấp các túi đựng rác, thùng chứa chất thải thích hợp và quy trình loại bỏ và đảm bảo rằng chúng không thể tiếp cận với động vật hoang dã hoặc có thể bị thổi bay.
Có thể thấy rằng, các tiêu chí để đánh giá tác động môi trường của các hoạt động tại các khu bảo tồn được New Zealand xây dựng dựa trên sự kết hợp giữa những tiêu chí theo hệ sinh thái (các giá trị về đất, thủy sinh, biển,…) và những tiêu chí về xã hội (các giá trị về văn hóa, lịch sử, cơ sở hạ tầng…). Bên cạnh đó, như đã trình bày ở Mục 1, các loại khu bảo tồn khác nhau sẽ cho phép sự vận hành của các loại hoạt động khác nhau, tùy thuộc vào mức độ bảo vệ của từng khu bảo tồn. Tóm lại, bộ tiêu chí đánh giá tác động môi trường tại New Zealand thể hiện rõ sự linh hoạt khi kết hợp nhiều dạng tiêu chí đánh giá nhưng cũng rất chặt chẽ khi đưa ra các quy định cụ thể, chi tiết về từng loại tiêu chí.
3.4. Công tác giám sát
Mục đích của công tác giám sát là nhằm kiểm tra tính hợp lệ của những đánh giá về tác động được đề cập đến trong Báo cáo EIA sau khi hoạt động được cấp phép tiến hành. Công tác giám sát này đòi hỏi sự hợp tác của người nộp đơn và DOC trong việc đảm bảo các nghĩa vụ được tuân thủ và sự cân bằng giữa những mục đích sử dụng và công tác bảo tồn. 
Trong trường hợp có nhiều hoạt động cùng diễn ra tại một khu vực, mỗi đơn vị quản lý sẽ được yêu cầu nộp cho DOC nhật ký hoạt động của từng hoạt động mà mình phụ trách. Những thông tin này sẽ giúp cho DOC hiểu rõ hơn về tần suất các hoạt động ở khu vực bảo tồn và từ đó, đánh giá được mối quan hệ nhân – quả đối với những tác động có thể phát sinh sau này. Ngoài ra, nó cũng giúp DOC giám sát được các tác động tích lũy. Một khoản lệ phí thường niên sẽ được các đơn vị quản lý nộp cho DOC để duy trì các hoạt động giám sát này.
Tại phần này, người nộp đơn sẽ phải trình bày rõ các tiêu chí được sử dụng để giám sát hoạt động gắn với từng tác động đã nêu ở phần trên. Bên cạnh đó, người nộp đơn cũng phải đưa ra các hình thức giám sát và ngưỡng không chấp nhận được của các tác động để làm cơ sở định hướng cho các hoạt động giám sát sau này. Các hình thức giám sát không cần thiết phải quá phức tạp hay kỹ thuật. Đơn vị quản lý chỉ cần cung cấp các ảnh chụp cùng một vị trí tạ các thời điểm khác nhau. Đối với các hoạt động chăn thả bên cạnh các khu vực ven sông, đơn vị quản lý chỉ cần kiểm tra thường xuyên hàng rào và lưu ý tần suất gia súc vượt ra khỏi rào.
Nhìn chung, việc lên kế hoạch giám sát và báo cáo thường xuyên với DOC sau khi đề xuất được thông qua sẽ giúp chứng minh sự tuân thủ các cam kết của người nộp đơn và tạo điều kiện thuận lợi cho những lần nộp đơn tiếp theo. Việc khuyến khích sự tham gia của chính những người đề xuất các hoạt động kinh tế tham gia vào quá trình giám sát và đưa ra các khuyến nghị về giải pháp khắc phục những hậu quả môi trường cũng làm tăng tính hiệu quả của công tác quản lý các khu bảo tồn. Về bản chất, công tác giám sát được thực hiện tại New Zealand không chỉ nhằm mục đích giám sát sai phạm và còn nhằm thúc đẩy công tác bảo tồn từ chính những người dân tại khu vực đó.4. Đánh giá chung
Nhìn vào cơ chế Đánh giá Tác động Môi trường của New Zealand có thể thấy rằng quốc gia này đã phát triển một hệ thống đánh giá rất toàn diện với mục đích cân bằng những lợi ích về mặt kinh tế và công tác bảo tồn thiên nhiên. Các tiêu chí đánh giá trong Báo cáo EIA đã đảm bảo bao trùm toàn bộ các vấn đề từ việc đánh giá cảnh quan môi trường, các tác động trực tiếp, gián tiếp và tác động tích lũy của các hoạt động, cho đến việc đề xuất các biện pháp thay thế và giảm thiểu các tác động ở mức tối đa và các hình thức giám sát sau khi các hoạt động được tiến hành.
Bên cạnh các Biểu mẫu Báo cáo, DOC cũng ban hành các Hướng dẫn chi tiết nhằm nâng cao nhận thức của người dân về tầm quan trọng của Báo cáo EIA cũng như giúp người nộp đơn dễ dàng hơn trong việc cung cấp các tài liệu cho Báo cáo EIA. Dựa vào những Hướng dẫn này, người nộp đơn có thể xác định tác động của hoạt động của mình, các biện pháp giảm thiểu thích hợp, khám phá các thiết kế thay thế và đề xuất một chương trình giám sát môi trường thích hợp. Điều này cho thấy rằng các quy định về Báo cáo EIA không nhằm gây khó dễ cho các cá nhân hay doanh nghiệp trong việc đăng ký các hoạt động tại các khu bảo tồn và nhằm hỗ trợ họ tiến hành các hoạt động một cách hiệu quả hơn và tránh hoặc giảm thiểu các tác động đến môi trường, từ đó, tạo nền tảng bền vững cho chính các hoạt động này.
Quá trình chuẩn bị Báo cáo EIA đòi hỏi sự tham gia và hợp tác của các cơ quan chuyên tranh và chính các cá nhân hay doanh nghiệp. Trong thời gian chuẩn bị cho Báo cáo EIA, người nộp được tham gia các buổi tham vấn trực tiếp với các chuyên gia của DOC để có thể đưa ra các đánh giá chính xác về những tác động cũng như những biện pháp giảm thiểu tác động đối với hoạt động mà mình đăng ký. Ngoài ra, trong quá trình giám sát hoạt động sau khi được cấp phép, DOC và các cá nhân, doanh nghiệp sẽ cùng hợp tác để đảm bảo sự vận hành an toàn của các hoạt động và để chắc chắn rằng các biện pháp giảm thiểu tác động đến môi trường được thực hiện hiệu quả trên thực tế.
Tóm lại, tại New Zealand, việc bảo vệ môi trường và cụ thể là các khu bảo tồn không đến từ một phía là các cơ quan nhà nước và chính Chính phủ cũng không gây khó khăn cho việc đăng ký các hoạt động kinh tế diễn ra tại các khu bảo tồn. Thay vào các đó, cơ chế EIA được phát triển với mục đích cân bằng giữa lợi ích kinh tế và công tác bảo tồn, khuyến khích các hoạt động phù hợp, không làm ảnh hưởng đến môi trường, và tăng cường sự tham gia của chính người dân vào quá trình giám sát và bảo vệ môi trường.