Tình hình quản lý, sử dụng ODA, vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài trong các chương trình, dự án hợp tác quốc tế về pháp luật giai đoạn 1993-2016
Turn on more accessible mode
Turn off more accessible mode
Sign In
Turn on more accessible mode
Turn off more accessible mode
Turn on more accessible mode
Turn off more accessible mode
Turn on more accessible mode
Turn off more accessible mode
Turn on more accessible mode
Turn off more accessible mode
Turn on more accessible mode
Turn off more accessible mode
Đăng nhập
Cổng thông tin điện tử
Trang chủ
Giới thiệu
Sơ đồ trang
Liên hệ
Cổng thông tin điện tử
Trang chủ
Giới thiệu
Sơ đồ trang
Liên hệ
Tin hoạt động
Nghiên cứu trao đổi
Thông tin pháp luật nước ngoài
Liên kết website
-- Liên kết website --
Một số tổ chức quốc tế
---Ngân hàng thế giới (WB)
---Văn phòng Liên hợp quốc tại Việt Nam
---Tổ chức UNICEF tại Việt Nam
Bộ Tư pháp các nước
---Bộ Tư pháp Nhật Bản
---Bộ Tư pháp Hàn Quốc
---Bộ Tư pháp Thái Lan
---Bộ Tư pháp Hoa Kỳ
Nghiên cứu trao đổi
Tình hình quản lý, sử dụng ODA, vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài trong các chương trình, dự án hợp tác quốc tế về pháp luật giai đoạn 1993-2016
I. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH QUẢN LÝ VÀ THỰC HIỆN CÁC CHƯƠNG TRÌNH, DỰ ÁN, PHI DỰ ÁN SỬ DỤNG ODA CỦA CÁC NHÀ TÀI TRỢ CHO BỘ TƯ PHÁP GIAI ĐOẠN 1993-2016
1. Tình hình các chương trình, dự án, phi dự án sử dụng ODA, vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ cho Bộ Tư pháp
Trong giai đoạn 1993-2016, Bộ Tư pháp đã thực hiện tiếp nhận, quản lý và thực hiện 28 chương trình, dự án hợp tác quốc tế về pháp luật sử dụng nguồn ODA, vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài. Ngoài ra, trong giai đoạn 1993-2016, Bộ Tư pháp cũng thực hiện việc vận động, đàm phán để tiếp nhận các khoản viện trợ phi dự án từ các đối tác nước ngoài để hỗ trợ việc thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn của Bộ, ngành. Khái quát tình hình như sau:
+ Các cơ quan, tổ chức thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế về pháp bao gồm các Bộ, ngành như Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Bộ Lao động, thương binh và xã hội, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Kiểm toán Nhà nước, Văn phòng Chính phủ; các cơ quan của Quốc hội như Ủy ban Pháp luật, Văn phòng Quốc hội; Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; các Ban của Đảng như Ban Kinh tế Trung ương, Ban Nội chính Trung ương, Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và các tổ chức khác (như Hội luật gia, Liên đoàn luật sư, Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam, các cơ sở đào tạo, viện nghiên cứu...).
+ Về hình thức hỗ trợ: Nhìn chung, các chương trình, dự án sử dụng ODA, vốn vay ưu đãi của đối tác nước ngoài hỗ trợ cho Bộ Tư pháp trong thời gian qua là các chương trình, dự án hỗ trợ kỹ thuật sử dụng vốn ODA viện trợ không hoàn lại theo quy định tại Nghị định số 16/2016/NĐ-CP ngày 16/03/2016 của Chính phủ về quản lý và sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài. Các hình thức hỗ trợ trong khuôn khổ chương trình, dự án và phi dự án tương đối đa dạng, từ việc hỗ trợ tổ chức hội nghị, hội thảo, tọa đàm, tập huấn, tổ chức đoàn đánh giá, khảo sát (trong nước và nước ngoài) đến trao đổi kinh nghiệm, trao đổi tài liệu, cung cấp chuyên gia tư vấn tiến hành nghiên cứu chuyên sâu các vấn đề pháp lý, xuất bản sách, tờ rơi...
+ Về đối tác hỗ trợ:
Các đối tác nước ngoài tham gia hỗ trợ các hoạt động trong lĩnh vực pháp luật ngày càng nhiều về số lượng và đa dạng về loại hình, bao gồm:
(i) Các Chính phủ nước ngoài (Ô-xtrây-lia, Anh, Pháp, Ailen, Thụy Điển, CHLB Đức, Đan Mạch, Na Uy, Nhật Bản, Hà Lan, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Canada, Thụy Sỹ, Singapore...);
(ii) các tổ chức liên chính phủ (Liên minh châu Âu – EU, Tổ chức quốc tế pháp ngữ OIF, các tổ chức của Liên hợp quốc – UNDP, UNWomen, UNODC, UNICEF, UNAIDS, UNFPA, UNHCR, ILO, WB, ADB, IFC);
(iii) các cơ quan nước ngoài, tổ chức phi chính phủ nước ngoài (CARE Đức-Luxemburg, Phái đoàn Wallonie-Bỉ, Viện nghiên cứu biển Hàn Quốc KMI, Ủy ban nhân quyền và cơ hội bình đẳng Australia, Viện nhân quyền Đan Mạch, Viện Nghiên cứu lập pháp Hàn Quốc...),
+ Về nội dung hỗ trợ:
Trong những năm qua, các nhà tài trợ nước ngoài đã hỗ trợ Bộ Tư pháp tập trung chủ yếu cho các lĩnh vực công tác lớn của Ngành bao gồm: (i) xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật; (ii) tăng cường năng lực cán bộ của các cơ quan thực thi pháp luật; (iii) tuyên truyền, phổ biến các văn bản pháp luật, (iv) phát triển các dịch vụ công trong các lĩnh vực hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp và các dịch vụ pháp lý khác như thi hành án dân sự (trong đó có cả thừa phát lại), bổ trợ tư pháp, trợ giúp pháp lý, nuôi con nuôi đăng ký giao dịch bảo đảm, lý lịch tư pháp, kiểm soát thủ tục hành chính.Việc định hướng nội dung hỗ trợ được Bộ Tư pháp quan tâm, đảm bảo phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, trọng tâm công tác và những lĩnh vực ưu tiên cần sự hỗ trợ của Bộ Tư pháp trong từng năm, từng giai đoạn.
Bên cạnh đó, các nhà tài trợ cũng hỗ trợ các cơ quan tư pháp của Việt Nam xây dựng hệ thống thông tin điện tử, hiện đại hóa trang thiết bị, cơ sở vật chất phục vụ cho công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp.
2. Về quản lý thực hiện các chương trình, dự án hợp tác quốc tế sử dụng ODA của các nhà tài trợ cho Bộ Tư pháp
Công tác quản lý thực hiện chương trình, dự án, viện trợ phi dự án sử dụng ODA của Bộ Tư pháp được thực hiện theo các quy định pháp luật về quản lý, sử dụng nguồn hỗ trợ nước ngoài, về quản lý hợp tác quốc tế về pháp luật, về quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam và các quy định tại Quy chế quản lý hoạt động đối ngoại của Bộ Tư pháp và Quy chế tổ chức và hoạt động của Ban quản lý dự án chuyên trách của Bộ Tư pháp (Quyết định số 3269/QĐ-BTP).
- Bảo đảm tuân thủ các quy định về xây dựng kế hoạch, quản lý, giám sát thực hiện chương trình, dự án ODA theo quy định. Công tác xây dựng kế hoạch hoạt động của Dự án được thực hiện theo các nguyên tắc quản lý thực hiện dự án hợp tác pháp luật và quản lý, sử dụng ODA, đặc biệt bám sát phục vụ các nhiệm vụ chính trị, trọng tâm của công tác pháp luật, tư pháp; tránh trùng lặp và bảo đảm nguyên tắc chủ động của các cơ quan Việt Nam. Đặc biệt, Bộ Tư pháp đã rà soát, sàng lọc để loại ra các đề xuất không phù hợp với mục tiêu, nguyên tắc hợp tác hoặc tiềm ẩn các vấn đề nhạy cảm, phức tạp. Sau khi Lãnh đạo Bộ phê duyệt Kế hoạch hoạt động của Dự án, các đơn vị chủ động đề xuất triển khai các hoạt động đã được phê duyệt. Đối với các hoạt động có sự tham gia của các chuyên gia quốc tế, cơ bản các đơn vị đều thực hiện việc thông tin với cơ quan an ninh của Bộ Công an (A83).Ban Quản lý dự án chuyên trách (QLDACT) là đầu mối phối hợp với nhà tài trợ, với kiểm toán, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền (công an, cơ quan thuế, cơ quan quản lý nguồn ODA, viện trợ phi Chính phủ nước ngoài...) trong quá trình thực hiện các chương trình, dự án.
- Công tác quản lý tài chính, thanh quyết toán đối với các hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật được các cơ quan, tổ chức cơ bản tuân thủ theo đúng thỏa thuận hợp tác với nhà tài trợ và quy định của pháp luật Việt Nam. Hàng năm, các chương trình, dự án được các cơ quan tài trợ chỉ định cơ quan kiểm toán quốc tế kiểm toán độc lập.Bên cạnh đó, trong phạm vi quản lý nhà nước về chương trình, dự án thì các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thường xuyên kiểm toán phần viện trợ và phần vốn đối ứngtheo quy định. Đối với các chương trình, dự án do Bộ Tư pháp là cơ quan chủ quản, Bộ Tư pháp đã ban hành Quy chế quản lý và sử dụng vốn ODA và thực hiện việc kiểm tra hàng năm đối với các chương trình, dự án để việc chi tiêu, thanh, quyết toán thực hiện hoạt động hợp tác tuân thủ theo đúng quy định.
II. CƠ CHẾ, BIỆN PHÁP ĐÃ ĐƯỢC THỰC HIỆN NHẰM BẢO ĐẢM VIỆC SỬ DỤNG VỐN ODA ĐẠT HIỆU QUẢ CAO NHẤT
Để đảm bảo việc sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ trong lĩnh vực hợp tác quốc tế về pháp luật đạt hiệu quả cao nhất, Bộ Tư pháp đã triển khai thực hiện một số các biện pháp bao gồm:
- Xây dựng và hoàn thiện thể chế về quản lý hợp tác quốc tế về pháp luật
+ Với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế về pháp luật, trong thời gian qua, Bộ Tư pháp đã tích cực tham mưu với Chính phủ trong việc xây dựng và hoàn thiện thể chế về hợp tác quốc tế về pháp luật. Năm 2014, Bộ Tư pháp đã xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định số 113/2014/NĐ-CP ngày 26/11/2014 của Chính phủ về quản lý hợp tác quốc tế về pháp luật (trước đây là Nghị định số 78/2008/NĐ-CP ngày 17/07/2008 về quản lý hợp tác với nước ngoài về pháp luật và Nghị định số 103/1998/NĐ-CP ngày 26 tháng 12 năm 1998 của Chính phủ về quản lý hợp tác với nước ngoài về pháp luật). Đồng thời, Bộ cũng đã tham gia tích cực với Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong quá trình xây dựng Nghị định số 16/2016/NĐ-CP ngày 16/03/2016 của Chính phủ về quản lý và sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ (thay thế Nghị định số 38/2013/NĐ-CP)
+ Căn cứ các văn bản chung về quản lý hợp tác pháp luật và công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 07/2015/TT-BTP ngày 15/6/2015 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết và biện pháp thi hành một số quy định của Nghị định số 113/2014/NĐ-CP; Quy chế quản lý hoạt động đối ngoại của Bộ Tư pháp (kèm theo Quyết định số 1486/QĐ-BTP ngày 12/7/2016); Chỉ thị số 02/CT-BTP ngày 08/4/2016 về việc tăng cường công tác quản lý hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật của Ngành Tư pháp, Quyết định số 1068/QĐ-BTP ngày 16/5/2016 về Đề án tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế của Bộ Tư pháp giai đoạn 2016-2020.
+ Để bảo đảm hiệu quả của công tác hợp tác quốc tế về pháp luật, Bộ đã nghiên cứu và xác định định hướng hợp tác quốc tế về pháp luật theo từng giai đoạn (đã ban hành Đề án giai đoạn 2013-2016 và đang triển khai xây dựng và thông qua Đề án giai đoạn 2017-2020).
- Tăng cường quản lý hợp tác quốc tế về pháp luật theo các quy định về quản lý hợp tác pháp luật và Chỉ thị số 39-CT/TW, bao gồm:
+ Thẩm định, cho ý kiến đối với dự thảo văn kiện chương trình, dự án hợp tác quốc tế về pháp luật.Các nội dung thẩm định, cho ý kiến của Bộ Tư pháp bao gồm đánh giá tính không trùng lặp với các chương trình, dự án hợp tác pháp luật đã được hỗ trợ; tính cần thiết, tính khả thi của chương trình, dự án và sự phù hợp của mục tiêu, nội dung chương trình, dự án với năng lực thực hiện của cơ quan chủ quản. Việc đánh giá, xem xét tổng thể các nội dung này sẽ là cơ sở để bảo đảm việc thực hiện chương trình, dự án một cách hiệu quả, thiết thực, phù hợp với mục tiêu của chương trình, dự án, góp phần tích cực trong việc hỗ trợ Bộ, ngành thực hiện nhiệm vụ được giao.
+ Tổ chức các lớp tập huấn, phổ biến các quy định của pháp luật về hợp tác quốc tế về pháp luật cho các cán bộ pháp chế ở các cơ quan Bộ, ngành Trung ương, đại diện của một số Sở Tư pháp, Hội luật gia và Đoàn Luật sư của các tỉnh khu vực phía Bắc và phía Nam. Các lớp tập huấn đã góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cán bộ trực tiếp thực hiện các hoạt động HTQT về pháp luật, bảo đảm triển khai thực hiện các nhiệm vụ được giao theo đúng quy định và định hướng công tác đối ngoại, hợp tác về pháp luật và tư pháp của Đảng và Nhà nước, hiệu quả, thiết thực.
+ Chủ trì, phối hợp với Ban Đối ngoại Trung ương, Bộ Công an, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính tổ chức Đoàn kiểm tra liên ngành về công tác hợp tác quốc tế về pháp luật. Trong qua trình kiểm tra, Bộ Tư pháp cũng đã phát hiện những sai sót trong việc tiếp nhận, quản lý và sử dụng chương trình, dự án, viện trợ phi dự án hợp tác quốc tế về pháp luật của các cơ quan được kiểm tra, kịp thời nhắc nhở và có những biện pháp phù hợp nhằm chấn chỉnh, đảm bảo cho các hoạt động nói trên tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật.
+ Tiếp tục duy trì hoạt động của hệ thống cơ sở dữ liệu quốc tế về hợp tác quốc tế về pháp luật trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp với địa chỉ truy cập:
http://moj.gov.vn/hoptacqt/Pages/home.aspx
.
Các báo cáo, tài liệu, kết quả của hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật được cập nhật, chia sẻ trên hệ thống cơ sở dữ liệu và được khai thác trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật, đảm bảo phổ biến rộng rãi các kết quả hợp tác quốc tế về pháp luật cho đối tượng quan tâm, phục vụ hiệu quả cho việc thực hiện các nhiệm vụ của Bộ, Ngành Tư pháp.
+ Tăng cường công tác điều phối các chương trình, dự án hợp tác quốc tế về pháp luật. Hàng năm, Bộ Tư pháp sẽ phối hợp với các nhà tài trợ, các cơ quan, tổ chức là đơn vị tham gia thực hiện Dự án xây dựng Kế hoạch hoạt động năm của các chương trình, dự án do Bộ Tư pháp là cơ quan chủ quản. Trên cơ sở đề xuất của các cơ quan, tổ chức, Bộ Tư pháp sẽ tiến hành đánh giá các đề xuất căn cứ trên các tiêu chí: (i) mục tiêu và nội dung của từng chương trình, dự án; (ii) tính trùng lặp với các đề xuất đã được hỗ trợ; (iii) đối tác hợp tác; (iv) tính khả thi của đề xuất và (v) năng lực thực hiện hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị và triển khai trao đổi, đàm phán với các nhà tài trợ về Kế hoạch hoạt động hàng năm của các chương trình, dự án
III. ĐÁNH GIÁ
1.
Kết quả đạt được
Nhìn chung, việc quản lý sử dụng vốn ODA của các nhà tài trợ cho Bộ Tư pháp giai đoạn 1993-2016 được thực hiện theo đúng quy định pháp luật, phù hợp với nguyên tắc, định hướng của Đảng trong quản lý hợp tác pháp luật. Thông qua các chương trình, dự án, nhiều hoạt động trao đổi, học hỏi kinh nghiệm và chuyển giao kiến thức đã được thực hiện. Nhờ vậy, trình độ hiểu biết cũng như kỹ năng của các chuyên gia pháp luật Việt Nam đã được nâng lên đáng kể; những kiến thức, kinh nghiệm xây dựng và hoàn thiện pháp luật đã được tiếp thu, vận dụng một cách chọn lọc vào hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam, góp phần vào việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách hệ thống tư pháp; một số lượng đáng kể cán bộ pháp luật và các chức danh tư pháp được đào tạo tại các nước có hệ thống pháp luật phát triển đã và đang góp phần bổ sung lực lượng cán bộ cho các thiết chế pháp luật và tư pháp, đồng thời chuẩn bị đội ngũ cán bộ cho tương lai; cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc của các cơ quan pháp luật và tư pháp được hiện đại hóa một bước. Các hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật cũng đóng vai trò là cầu nối một cách thiết thực và hiệu quả, không chỉ dừng lại ở sự chuyển giao kiến thức, kinh nghiệm mà còn giúp bạn bè quốc tế hiểu rõ hơn về hệ thống pháp luật Việt Nam, không có những cái nhìn sai lệch về chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Việc quản lý, sử dụng ODA bảo đảm tuân thủ quy định của pháp luật và cam kết với nhà tài trợ. Công tác giám sát, kiểm tra được quan tâm thực hiện để bảo đảm mục tiêu, nội dung chương trình, dự án và hỗ trợ kịp thời cho các nhu cầu của Việt Nam trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp.
Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
Mặc dù công tác quản lý và sử dụng nguồn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ trong hợp tác quốc tế về pháp luật đã đạt được những kết quả nhất định, song việc thực hiện công tác này trong thực tế cũng còn những tồn tại, hạn chế. Cơ bản như sau:
- Một số đối tác nước ngoài có thiện chí hợp tác với Bộ Tư pháp Việt Nam, tuy nhiên do cách thức hoạt động, trình tự, thủ tục nội bộ có sự khác biệt nên việc xây dựng, đàm phán và ký kết các Kế hoạch hợp tác cũng như triển khai các hoạt động hợp tác cụ thể chậm hơn so với tiến độ và có trường hợp chưa sử dụng hết ODA theo các chương trình, dự án đã cam kết hỗ trợ cho Việt Nam.
- Trách nhiệm phối hợp của các cơ quan, tổ chức trong quản lý dự án hợp tác pháp luật vẫn còn hạn chế, chưa kết hợp được giữa quản lý sử dụng vốn ODA với quản lý hợp tác pháp luật; các nội dung hợp tác chưa có tính chiến lược, dài hạn, bảo đảm tính kế thừa, bền vững kết quả hợp tác quốc tế; chưa xây dựng được các tiêu chí đánh giá hiệu quả thực hiện các chương trình, dự án phù hợp với hoạt động hợp tác trong lĩnh vực pháp luật.
Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế nói trên có cả khách quan và chủ quan. Về khách quan, hợp tác pháp luật là lĩnh vực hết sức nhạy cảm, quá trình tiếp nhận, quản lý, thực hiện các chương trình, dự án phải tuân thủ các quy định pháp luật về ODA nhưng cũng phải tuân thủ các định hướng, nguyên tắc đặc thù trong quản lý hợp tác pháp luật. Về chủ quan cơ bản là nhận thức chưa đầy đủ cũng như năng lực của các cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan trong quản lý, sử dụng vốn ODA.
IV. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
- Về thu hút và vận động nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi
+ Tăng cường vai trò của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong việc xác định định hướng, thu hút, điều phối và sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi.
+
Bộ Tư pháp cần phát huy hơn nữa vai trò vận động, điều phối các chương trình, dự án, viện trợ phi dự án về pháp luật, tránh tình trạng trùng lặp về nội dung hợp tác, phân bố không đồng đều các hoạt động hợp tác (chẳng hạn: các địa phương có ít hoạt động hợp tác, một số cơ quan, bộ, ngành mặc dù có nhu cầu nhưng lại không tìm được đối tác).Mở rộng và chú trọng hơn nữa các hình thức vận động nhằm duy trì nguồn hỗ trợ từ các nhà tài trợ hiện có và thu hút thêm nguồn tài trợ từ các nhà tài trợ tiềm năng như: Tổ chức các Diễn đàn đối thoại chính sách pháp luật, Diễn đàn đối tác pháp luật thường niên, xây dựng Nhóm quan hệ đối tác pháp luật...
+ Các cơ quan, tổ chức có nhu cầu hợp tác với nước ngoài trong lĩnh vực pháp luật cần phối hợp chặt chẽ với Bộ Tư pháp, là cơ quan có vai trò đầu mối trong việc vận động, điều phối hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật để tìm kiếm đối tác tài trợ.
- Về thể chế quản lý nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi
Nhìn chung, hệ thống chính sách và các quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng ODA hiện nay đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước trong lĩnh vực này, nhất là từ khi Nghị định số 16/2016/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý và sử dụng nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) và nguồn vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ được ban hành.Do đó, đề nghị theo dõi, tiếp tục hoàn thiện các văn bản hướng dẫn để tạo thuận lợi cho quá trình thực hiện (ví dụ như các biểu mẫu vẫn còn khá nhiều, nội dung phức tạp, khó điền thông tin, hoặc không có thông tin để điền, dẫn đến thực tế là phải bỏ trống một số ô trong các mẫu biểu đó).
- Về vai trò làm chủ của đối tác Việt Nam
Hợp tác quốc tế về pháp luật được xác định là một lĩnh vực hết sức nhạy cảm trong giai đoạn hiện nay. Do vậy, trong quá trình vận động, thu hút, quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ của các đối tác nước ngoài, các cơ quan, tổ chức Việt Nam cần nhận thức rõ vai trò làm chủ của mình. Điều này có nghĩa rằng trong quá trình tiếp nhận viện trợ, các cơ quan, tổ chức Việt Nam cần chủ động hợp tác trên cơ sở xác định rõ các mặt tác động của từng dự án, nhận diện rõ và đúng từng đối tác để khuyến khích và phát huy mặt tích cực, khắc phục và hạn chế tối đa mặt tiêu cực; kiên quyết không chấp nhận các đối tác và các dự án không phù hợp với lợi ích của ta. Bên cạnh đó, cần có sự chủ động, coi trọng và thường xuyên quan tâm đầu tư, tăng cường công tác giám sát, chỉ đạo, điều hành, quản lý các chương trình, dự án, viện trợ phi dự án về pháp luật.
- Về sự phối hợp, mối quan hệ giữa các bên có liên quan đến công tác quản lý, tổ chức và thực hiện chương trình, dự án hợp tác pháp luật, việc quản lý các chương trình, dự án, phi dự án có sử dụng vốn ODA trong lĩnh vực pháp luật hiện nay còn phụ thuộc vào sự chủ động của các cơ quan, tổ chức tiếp nhận ODA. Bộ Tư pháp chưa có cơ chế thu thập thông tin về các chương trình, dự án có nội dung về hợp tác pháp luật. Do đó, đề nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính phối hợp, chia sẻ thông tin trong quá trình xây dựng, phê duyệt và thực hiện các chương trình, dự án có nội dung hợp tác pháp luật.
In bài viết
Gửi phản hồi
Gửi Email
Các tin khác
Tư tưởng Hồ Chí Minh về thượng tôn luật pháp quốc tế
NGHIÊN CỨU, ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC HỢP TÁC QUỐC TẾ VÀ THỰC HIỆN VAI TRÒ, NHIỆM VỤ CỦA CƠ QUAN TRUNG ƯƠNG TRONG THỰC THI CÔNG ƯỚC LA HAY 1993 VỀ BẢO VỆ TRẺ EM VÀ HỢP TÁC TRONG LĨNH VỰC CON NUÔI QUỐC TẾ TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011-2020
MỘT SỐ NỘI DUNG NGHIÊN CỨU VỀ KHẢ NĂNG GIA NHẬP LIÊN MINH THỪA PHÁT LẠI QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
Pháp luật và kỹ năng truyền thông về giảm thiểu tảo hôn, hôn nhân cận huyết
Tập huấn bảo đảm bình đẳng giới trong quá trình hòa giải ở cơ sở
Thông báo
Video
Xem tất cả
Xem thêm