BÁO CÁO KẾT QUẢ RÀ SOÁT TRẺ KHUYẾT TẬT TẠI XÃ NGỌC MỸ, PHÚ CƯỜNG, PHÚ VINH, SUỐI HOA, HUYỆN TÂN LẠC, TỈNH HÒA BÌNH
Sign In

BÁO CÁO KẾT QUẢ RÀ SOÁT TRẺ KHUYẾT TẬT TẠI XÃ NGỌC MỸ, PHÚ CƯỜNG, PHÚ VINH, SUỐI HOA, HUYỆN TÂN LẠC, TỈNH HÒA BÌNH

1.      TỔNG QUAN DỰ ÁN

  1. Bối cảnh
        Ở Hòa Bình có đến 1.935 trẻ khuyết tật là con em người dân tộc thiểu số, trong số này chỉ có 30% số trẻ được đến trường. Những trẻ em này phải đối mặt với những thách thức đáng kể trong cuộc sống hàng ngày của họ và nhiều hình thức phân biệt đối xử, dẫn đến bị loại trừ khỏi xã hội và trường học. Trong khi mọi trẻ em đều có quyền được giáo dục, thái độ đối với trẻ em khuyết tật cũng như sự thiếu hiểu biết về nhu cầu của chúng sẽ kết hợp những thách thức mà chúng phải đối mặt khi đòi hỏi quyền này. Với việc tiếp cận với trường học một vấn đề chính, mối quan tâm bình đẳng là sự chưa đáp ứng đầy đủ của hệ thống giáo dục để đảm bảo giáo dục chất lượng cho trẻ khuyết tật. Hiện nay, những trẻ em này vẫn phải đối mặt với một số rào cản để giáo dục hòa nhập xa tầm với, đặc biệt là thiếu các cơ sở vật chất, trường chuyên biệt, chuyên ngành và đào tạo cho giáo viên; và có nhiều khác biệt của định nghĩa về trẻ khuyết tật trong các lĩnh vực khác nhau; nhận thức của cha mẹ về giáo dục hòa nhập còn hạn chế. Tất cả các lý do nêu trên đã đưa đến một hệ quả là còn quá nhiều trẻ em khuyết tật không được tới lớp học, không hoàn thành chương trình tiểu học hoặc trung học và không được đòi quyền lợi cơ bản của các em là được tiếp cận một nền giáo dục có ý nghĩa.
        Huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình là một trong những huyện có nhiều trẻ khuyết tật không được đến trường, đặc biệt là ở cấp tiểu học. Trẻ khuyết tật được hòa nhập giáo dục càng sớm càng tốt, tạo điều kiện cho trẻ hoàn thiện về nhận thức, thể chất và tinh thần tốt hơn. Huyện có 203 trẻ khuyết tật, nhưng chỉ có 135 trẻ được đến trường. Xã Phú Cường, Phú Vinh, Suối Hoa, Ngọc Mỹ là 4 xã nghèo thuộc vùng khó khăn của huyện, trẻ khuyết tật chiếm đến gần 40%  (50 trẻ) trên tổng số trẻ toàn huyện, nhưng chỉ có 30 trẻ được đến trường, do một số em không đủ sức khỏe hoặc do cha mẹ không cho con đến trường vì sợ con bị kỳ thị. Phần lớn các trẻ đến cho đủ quân số theo phổ cập giáo dục, còn việc hỗ trợ trẻ hòa nhập giáo dục chưa thực sự được quan tâm và có kế hoạch cụ thể cho từng cấp học. Chính vì vậy dự án này được hình thành nhằm:
        Mục tiêu
        Dự án này nhằm thu hẹp khoảng cách giữa trẻ khuyết tật với xã hội trong môi trường giáo dục và bảo vệ quyền trẻ khuyết tật dân tộc thiểu số tại tỉnh Hòa Bình.
  1. Kết quả mong đợi
        - Một cơ chế phối hợp giữa các ngành, y tế, giáo dục, Lao động Thương binh & xã hội được UBND huyện ban hành nhằm xây dựng kế hoạch phối hợp trong việc cung cấp thông tin, giám sát, đánh giá trẻ khuyết tật trong hòa nhập.
        - 1.130 gồm 570 học sinh thuộc 8 trường, 30 giáo viên, 30 cán bộ, 50 cha mẹ và 450 người dân (400 nam, 730 nữ, 100% người dân tộc thiểu số) nâng cao nhận thức về quyền trẻ em, quyền người khuyết tật và được trợ giúp pháp lý để đảm bảo quyền trẻ khuyết tật trong hòa nhập.
        - 20 trẻ khuyết tật được trợ giúp pháp lý hoàn thiện hồ sơ gửi cấp huyện cấp giấy chứng nhận
Dự án này được xây nhằm giải quyết các vấn đề cụ thể là giúp cho trẻ khuyết tật có cơ hội hòa nhập giáo dục một cách tốt nhất. Để làm được điều này dự án cần giải quyết các vấn đề:
       - Nâng cao vai trò, trách nhiệm của chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng trong việc hỗ trợ trẻ khuyết tật để đảm bảo quyền lợi của trẻ khuyết tật bằng cách xây dựng quy chế phối hợp giữa các ngành và tại cấp huyện và cấp xã trong việc hỗ trợ pháp lý cho trẻ khuyết tật đảm bảo quyền lợi của họ trong giáo dục hòa nhập;
       - Nâng cao nhận thức và năng lực cho cha mẹ và nhà trường trong việc hỗ trợ trẻ hòa nhập giáo dục;
       - Nâng cao nhận thức và hiểu biết của cha mẹ về luật và các chính sách liên quan để đảm bảo quyền của trẻ khuyết tật.

II.   MỤC TIÊU KHẢO SÁT

1.  Mục tiêu
       Nhằm đánh giá được những thay đổi dự án sẽ tạo ra cũng như có cơ sở xây dựng các hoạt động can thiệp phù hợp với nhu cầu. Một cuộc khảo sát ban đầu được thực hiện nhằm để lập kế hoạch và phương án hỗ trợ trẻ khuyết tật, một điều tra, khảo sát ban đầu được thực hiện ở tất cả các xã dự án. Cụ thể các thông tin đã khảo sát là:
  • Thực tế về số trẻ khuyết tật trên địa bàn dự án.
  • Phân loại trẻ khuyết tật theo các dạng khuyết tật được quy định theo thông tư 01/TT-BLĐTB&XH.
  • Thực trạng nhận thức về việc chăm sóc sức khỏe cho con.
  • Hiểu biết về các luật về quyền trẻ em, các chính sách về người khuyết tật.
  • Nhu cầu về truyền thông tư vấn pháp luật của người dân.
  • Đề xuất, khuyến nghị các giải pháp truyền thông tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý cho các đối tượng một cách phù hợp và hiệu quả.
2. Kết quả mong đợi
       Báo cáo kết quả rà soát số trẻ khuyết tật trên địa bàn 4 xã được hoàn thiện, trong đó phân loại sơ bộ các dạng khuyết tật và đề xuất kế hoạch tổ chức xác định mức độ khuyết tật.
3. Thời gian thực hiện: Từ 26 đến 31/10/2020.
4. Địa bàn thực hiện: Tại xã Ngọc Mỹ, Phú Cường, Phú Vinh, Suối Hoa huyện Tân Lạc
5. Đối tượng khảo sát: Cha mẹ trẻ khuyết tật, các thầy cô giáo, trẻ khuyết tật.
6. Người thực hiện: Thành viên hội đồng xác định mức độ khuyết tật xã (cán bộ lao động TB&XH, cán bộ y tế, hội phụ nữ, đoàn thanh niên, MTTQ, các trường MN và TH).

III. PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN

1. Nguyên tắc thu thập thông tin

       Các nguyên tắc sau được sử dụng để đảm bảo chất lượng thông tin thu thập được cũng như chất lượng của khảo sát:
  • Nguyên tắc tiếp cận từ dưới lên: Nguyên tắc này nhằm đảm bảo huy động sự tham gia của các bên liên quan trong quá trình thu thập thông tin, đặc biệt đối với những nhóm người nghèo, nhóm phụ nữ, người dân tộc thiểu số và các nhóm yếu thế trong cộng đồng. Từ đó, tiếng nói và sự đánh giá khách quan từ tất cả các bên liên quan đều được thể hiện.
  • Nguyên tắc kết hợp định tính và định lượng: Để những nhận định và phân tích mang tính thuyết phục, khảo sát sẽ kết hợp cả thông tin định tính và thông tin định lượng. Thông tin định lượng được thu thập từ các thông tin thứ cấp và bảng hỏi. Các thông tin định tính được thu thập qua quá trình quan sát, phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm, nghiên cứu trường hợp điển hình, hội thảo tham vấn ý kiến,…
  • Nguyên tắc kiểm tra chéo thông tin: Các thông tin được thu thập sẽ được kiểm tra chéo từ các nguồn khác nhau (từ cha mẹ, trẻ và nhà trường), nhằm đảm bảo sự chính xác và hợp lý. Trong quá trình thu thập, những thông tin từ các nguồn khác nhau nếu có sự khác biệt sẽ được kiểm tra, trao đổi và thảo luận lại nhằm tìm hiểu tại sao lại có khác biệt đó.
  • Nguyên tắc kiểm tra thông tin tại thực địa: Việc kiểm tra chéo thông tin tại thực địa cũng sẽ được áp dụng nhằm đảm bảo sự chính xác và hợp lý của thông tin. Đặc biệt, những phát hiện ban đầu sẽ được trao đổi với các bên liên quan tại địa phương (nếu phù hợp) ngay sau khi khảo sát thực địa kết thúc.

2. Các phương pháp thu thập thông tin

       Các phương pháp thu thập thông tin được thực hiện trong khảo sát ban đầu bao gồm: thu thập thông tin thứ cấp, phỏng vấn bảng hỏi, phỏng vấn sâu/phỏng vấn cá nhân, thảo luận nhóm, cụ thể như sau:

2.1. Thu thập thông tin thứ cấp

       Các thông tin thứ cấp là các thông tin/dữ liệu có sẵn từ số liệu theo dõi, báo cáo từ cấp xã, số liệu này dung để so sánh với số liệu thực tế tại cộng đồng.
       Nguồn thông tin thứ cấp cần thu thập: Từ báo cáo cáo của cấp xã và số liệu theo dõi từ nhà trường và số liệu phát sinh từ quá trình khảo sát từ thực tế tại các trường học.

2.2. Phỏng vấn bảng hỏi hộ gia đình

       Phỏng vấn bảng hỏi hộ gia đình là phương pháp nhằm thu thập thông tin định lượng sơ cấp. Bảng hỏi được thiết kế đan xen giữa câu hỏi đóng và câu hỏi mở nhằm thu thập thông tin một cách đầy đủ nhất. Các nội dung trong bảng hỏi được thiết kế có liên quan lẫn nhau nhằm mục đích ngoài việc thu thập thông tin còn có thể kiểm tra chéo tính hợp lý của thông tin do người trả lời cung cấp. Đối tượng tham gia phỏng vấn bằng bảng hỏi bao gồm đại diện của các hộ gia đình có con là trẻ khuyết tật hoặc con là đối tượng nghi ngờ trẻ khuyết về trí tuệ mà chưa được cấp giấy chứng nhận trẻ khuyết tật (không nhất thiết là chủ hộ nhưng phải là người nắm được thông tin, tình trạng của con mình).
       Một đội điều tra viên - là thành viên của Hội đồng xác định mức độ khuyết tật - được tập huấn, hướng dẫn và giám sát việc thực hiện phỏng vấn bảng hỏi hộ gia đình. Điều tra viên hỏi người trả lời theo từng câu hỏi trong bảng hỏi và điền thông tin từ người trả lời vào bảng hỏi. Điều tra viên sẽ đến từng hộ gia đình hoặc đại diện các hộ gia đình sẽ tập trung tại hội trường xóm để phỏng vấn lần lượt từng người theo danh sách mà xã đã theo dõi và danh sách tại nhà trường theo dõi những trẻ có dấu hiệu khuyết tật (bao gồm khuyết tật về trí tuệ).

2.3 Phương pháp phỏng vấn cá nhân

       Đối tượng phỏng vấn sâu là những trẻ khuyết tật và trẻ có dấu hiệu hoặc nghi ngờ nhằm xác định, đối chiếu lại thông tin từ cha mẹ và các cô giáo cung cấp. Bên cạnh đó thông tin từ trẻ là cơ sở cho việc phân loại trẻ khuyết tật để làm căn cứ, cơ sở cho việc lập kế hoạch can thiệp.
       Đối tượng phỏng vấn cá nhân bao gồm: cán bộ phòng LĐTBXH xã,  các cô giáo trực tiếp dạy các trẻ

3. Phương pháp chọn mẫu

3.1. Chọn mẫu định tính

       Các trường hợp phỏng vấn cá nhân và thảo luận nhóm được lựa chọn theo phương pháp chọn mẫu có chủ đích để trao đổi thông tin. Các đối tượng được lựa chọn phải đảm bảo các tiêu chí:
  • Là những người nắm được thông tin của trẻ
  • Có thể bố trí được thời gian từ 11h – 2h để trao đổi thông tin.

3.2. Chọn mẫu định lượng

       Số lượng mẫu khảo sát trong dự án 69 mẫu đã được ấn định trước khi lập kế hoạch rà soát và 155 mẫu khi thực hiện rà soát và cập nhật từ nhà trường. Số lượng mẫu phát sinh cao hơn so gấp 3 lần so với thực tế này. Con số này trước khi rà soát đã tham vẫn từ nhà trường và số lượng phát sinh trên thực tế đã có kế hoạch dự trù phát sinh.

IV. KẾT QUẢ

1.      Một số vấn đề được phát hiện trong quá trình khảo sát

       Ngọc Mỹ, Phú Cường, Phú Vinh và Suối Hoa là 4 xã có tỷ lệ trẻ khuyết tật cao nhất huyện. Theo số liệu ban đầu được cung cấp thì các tình trạng trẻ khuyết tật đều ở thể nặng. Các dạng trẻ khuyết tật chủ yếu là bại não chiếm tỷ lệ cao nhất, khuyết về mắt, chân tay, khuyết về trí tuệ chiếm tỷ lệ thấp nhất, chỉ có 5 em. Hầu hết khuyết tật về não là ở dạng nặng và rất nặng cần có sự chăm sóc đặc biệt. Các trường hợp khuyết về vận động hầu hết là nặng không thể đi lại, chân tay teo. Có một trường hợp bệnh lạ, cơ thể chỉ hình thành xương một nửa người. Nhìn chung, theo số liệu ban đầu được cung cấp từ UBND các xã thì tổng số trẻ khuyết tật được theo dõi theo từng dạng khuyết tật gồm có 69 trẻ trên địa bàn 4 xã từ độ tuổi từ 0-13 tuổi.  Trong 69 trẻ đang được theo dõi đó thì 60% các trẻ là trường hợp nặng và đặc biệt nặng với các dạng khuyết tật chủ yếu là vận động, bại não và khiếm thính, tim, tan máu... Chỉ có 1 trường hợp 1 trẻ bị tăng động thể nặng được cấp giấy xác nhận khuyết tật và được hưởng trợ cấp xã hội.
       Trên thực tế khảo sát và trao đổi với cán bộ y tế xã, việc nắm bắt tình hình sức khỏe trẻ và các dấu hiệu của trẻ khuyết tật ngành y tế cũng chỉ nắm được những trẻ có dấu hiệu bệnh nặng, nhìn thấy và xác định được. Do vậy việc theo dõi trẻ khuyết tật trên thực tế cũng chỉ theo số liệu theo dõi của xã. Tuy nhiên khi khảo sát số liệu với các trường tiểu học và mầm non nhằm tìm hiểu các dấu hiệu bệnh ở trẻ thì con số tăng gấp 3 lần so với thực tế mà UBND đang theo dõi.
       Việc tiếp cận với ngành giáo dục là một cách tiếp cận đúng và phù hợp với cách can thiệp của dự án. Vì quá trình can thiệp của dự án trong giáo dục hòa nhập là hỗ trợ những trẻ đang đến trường mà khuyết về trí tuệ, những trẻ đặc biệt nặng và nặng thì khả năng can thiệp rất khó. Do vậy việc xác định phương pháp và kế hoạch tiếp cận trong quá trình khảo sát là rất quan trọng. Tại 10 trường học, các thành viên rà soát đã làm việc trực tiếp với các cô giáo để trao đổi về tình trạng của trẻ có các dấu hiệu về tự kỷ, tăng động và các dạng khác về khuyết tật trí tuệ. Bên cạnh đó còn trao đổi trực tiếp với trẻ và kiểm tra từng trẻ một như về viết, đọc, nói, tính toán để sàng lọc ban đầu đối với học sinh tiểu học. Đối với trẻ mầm non, trao đổi các dấu hiệu với giáo viên đứng lớp và làm quen với trẻ, nói chuyện, quan sát các dấu hiệu của trẻ như chậm nói so với tuổi, các hoạt động chậm, nhận thức chậm, đờ đẫn, không nói, nghịch vô thức, chân tay mềm nhẽo so với các bạn, phản ứng chậm, không quan tâm đến môi trường xung quanh v.v.... Những dấu hiệu cơ bản này làm cơ sở ban đầu để sàng lọc trẻ và theo dõi, can thiệp trong thời gian tới.
       Trong quá trình khảo sát, tham vấn các bên liên quan, nhóm khảo sát đã phát hiện một số vấn đề sau:
       +  Trẻ bị khuyết về trí tuệ là một vấn đề nhức nhối đối với ngành giáo dục, vì nó chiếm tỷ lệ cao. Những trẻ này cả ngành lao động, thương binh và xã hội và ngành giáo dục rất khó để xác định mức độ khuyết tật, với các lý do:
       Thứ nhất, theo biểu đánh giá mức độ khuyết tật thì những trẻ này ở thể nhẹ, nếu làm hồ sơ xác nhận khuyết tật cho trẻ, vô hình chung sẽ tạo sự tổn thương cho trẻ và trẻ dễ bị kỳ thị bởi xã hội và bạn bè.
       Thứ hai rất khó xác định mức độ khuyết tật, vì đây là trẻ khuyết về trí tuệ, nếu chỉ nhìn bằng mắt thường hoặc qua tiếp xúc thì không phát hiện ra tình trạng trẻ bị khuyết tật mà chỉ có giáo viên giảng dạy tiếp xúc hàng ngày mới phát hiện các dấu hiệu của trẻ như nhận thức chậm, đọc viết khó v.v....Có những trẻ học lớp 5 mà không biết đọc hoặc viết. các dấu hiệu này chiếm tỷ lệ đến 90% trong số trẻ được phát hiện trong quá trình đi rà soát.
       + Sự nhìn nhận trẻ khuyết tật đối với lăng kính những người làm chuyên môn hơi cứng nhắc, như khuyết tật là phải là cái gì đó hữu hình, nhìn thấy bằng mắt chứ không phải là cái gì đó vô hình, do vậy việc xác định mức độ khuyết tật ở trẻ còn thiếu xót và chưa công bằng đối với một số trường hợp trẻ khuyết tật về trí tuệ (như tại xóm Bò xã Phú Vinh, em Đ.H.H bị khoèo chân, vẫn đi lại được, thần kinh minh mẫn, học tập tốt, vẫn tự mặc quần áo và vệ sinh cá nhân, được cấp giấy chứng nhận trẻ khuyết tật và được hưởng chế độ; em Đ.T.Đ bị tăng động, tự vệ sinh cá nhân được, nhưng không kiểm soát được hành vi, nhận thức kém, không biết chữ, gia đình luôn phải trông chừng, nếu không sẽ phá phách, nhưng em Đạt lại không được cấp giấy xác nhận khuyết tật với lý do là khó xác định mức độ khuyết tật, xã đề nghị gia đình cho em đi khám và có kết luận của bác sĩ).
       Rõ ràng khi nhìn thẳng vào sự thật thì em Đ.T.Đ đang bị thiệt thòi hơn em Đ.H.H, vì thần kinh em Đ.T.Đ  không ổn định và minh mẫn, không kiểm soát được hành vi, cần có người chăm sóc, nhưng em Đ.H.H chỉ đi lại khó khăn, đầu óc minh mẫn, vẫn đi học bình thường. Như vậy Hải đang thuận lợi hơn Đạt rất nhiều.
Qua trường hợp Đ.H.H và Đ.T.Đ cho thấy việc xác định mức độ khuyết tật của Hội đồng xác định mức độ khuyết tật đang có cái nhìn phiến diện, chưa nhìn sâu xa vào vấn đề và đâu đó đang còn hơi máy móc.
       + Tỷ lệ trẻ khuyết tật trí tuệ tăng theo hàng năm, theo đánh giá của giáo viên các trường.  Cụ thể, so sánh theo đội tuổi và cấp học, phần lớn khuyết tật về trí tuệ như các dấu hiệu tự kỷ, tăng động (con số tăng động ít) và đần độn chiếm tỷ lệ cao ở xã Phú Vinh và Suối Hoa. Qua tham vấn các cha mẹ cho thấy có đến 60% cha mẹ có con bị bệnh hoặc nhận thức kém đều tiếp xúc với thuốc trừ sâu trước khi kết hôn và trong thời kỳ hôn nhân, tiếp xúc cả trực tiếp và gián tiếp. Tuy chưa chứng minh được đây là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng nhiều trẻ bị như vậy, nhưng cũng có thể là một trong nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến trẻ em. Bên cạnh đó theo thông tin cung cấp từ xã và trường học cho thấy do môi trường sống không lành mạnh từ nước sinh hoạt, đồ ăn. Tỷ lệ người dân dùng thuốc trừ sâu để phun cho cây mía và cây ngô tại xã Phú Vinh và Suối Hoa cao hơn so với các xã khác, dư lượng thuốc ngấm vào nguồn nước sinh hoạt. Đặc biệt là ở xã Suối Hoa, qua mỗi trận mưa nước giếng sinh hoạt của người dân vùng ven sông rất đục và bẩn, đây là nước chảy từ đồi, ruộng ngấm vào giếng.  Tại xã Ngọc Mỹ, nhiều hộ gia đình nước giếng bẩn và có màu vàng, có hộ chỉ dùng để tắm và giặt, nước dùng để uống và nấu cơm phải mua nước bình.
       Ngoài ra, các đồ ăn vặt xung quang trường học như bim bim, nước uống có phẩm màu không có thương hiệu, nguồn gốc rõ ràng, nhiều học sinh còn bị gây nghiện từ các đồ uống này. Đây là những thực phẩm không rõ nguồn gốc có thể gây hại đến sức khỏe của trẻ nhỏ. Đối với thực phẩm ăn hàng ngày cũng không rõ nguồn gốc và đảm bảo an toàn về thực phẩm như gà công nghiệp, gà thải loại, thịt lợn v.v...
       Có đến 70% số học sinh được khảo sát đều thích xem điện thoại và TV, những trẻ có dấu hiệu tự kỷ, tăng động đều là trẻ nghiện điện thoại, đặc biệt là trẻ mầm non. Có đến 30% số trẻ được khảo sát thời gian ở với ông bà nhiều hơn ở với bố mẹ. Một số bố mẹ đi làm ăn xa, việc chăm sóc trẻ hoàn toàn do ông bà (xã Ngọc Mỹ 5 trường hợp, xã Phú Cường 6 trường hợp, xã Phú Vinh 3 trường hợp, xã Suối Hoa 9 trường hợp). Những trường hợp ở với ông bà là trường hợp bệnh nặng như câm, điếc bẩm sinh, bại não, tự kỷ, tăng động.
       Vấn đề dinh dưỡng cũng là một trong những vấn đề cần quan tâm, các thông tin phỏng vấn sâu đối với các mẹ và cán bộ y tế xã cho biết chế độ dinh dưỡng trong quá trình mang thai chưa đảm bảo, các hộ có con có vấn đề về sức khỏe, bệnh tật đa số là vợ chồng trẻ và điều kiện kinh tế khó khăn, do vậy việc quan tâm chăm sóc thai kỳ chưa đúng cách, chưa đảm bảo chế độ ăn uống, việc khám thai định kỳ chỉ khám sơ bộ nghe tim thai.
  1. Một số thông tin rà soát trẻ khuyết tật
    1. Thông tin về trẻ khuyết tật
Bảng 1. Số trẻ khuyết tật trước khảo sát
 
Tên xã
 
Tổng số trẻ KT sau khảo sát
Độ tuổi
Mầm Non Tiểu học THCS Khác (còn nhỏ)
Ngọc Mỹ 18 4 11 3  
Phú Cường 20  4 9 6 1
Phú Vinh 14   4 10  
Suối Hoa 17   9 8  
Tổng 69 8 33 27 1
Bảng 2. Số trẻ khuyết tật sau khảo sát
 
STT
 
Tên xã
 
Tổng số trẻ KT sau khảo sát
Độ tuổi
Mầm Non Tiểu học THCS Khác (còn nhỏ)
1 Ngọc Mỹ 39 10 15 6 8
2 Phú Cường 42 14 12 4 12
3 Phú Vinh 30 3 22 3 2
4 Suối Hoa 44 14 30 0 0
  Tổng 155 41 79 13 22
 Bảng 3. Các dạng khuyết tật
 
STT
 
 
  Các dạng khuyết tật
Tổng số trẻ khuyết tật Vận động Nghe, nói Nhìn Tâm thần, thần kinh Trí tuệ Khác  
1 Ngọc Mỹ 39 7 3 3 6 20 0  
2 Phú Cường 42 5 3 1 7 23 3  
3 Phú Vinh 30 2 0 1 4 24 1  
4 Suối Hoa 44 3 1 3 1 35 1  
  Tổng 155 17 7 8 18 102 5  
Bảng 4. Đặc điểm giới tính, nhân khẩu trẻ KT
STT Số lượng trẻ khuyết tật Dân tộc Thuộc diện hộ Giới tính Đi học
Kinh Dân tộc thiểu số Nghèo Cận nghèo Trung bình Khá Nam Nữ Không
1 Xã Ngọc Mỹ 39 1 38 18 11 10 0 20 19 31 8
2 Xã Phú Cường 42 0 42 20 11 11 0 24 18 30 12
3 Xã Phú Vinh 30 0 30 12 9 0 9 20 10 28 2
4 Xã Suối Hoa 44 0 44 23 15 6 0 33 11 44 0
Tổng 155 1 154 73 46 27 9 97 58 133 22
                           
      Qua Bảng 1 cho thấy con số theo dõi báo cáo của ngành lao động thương binh và xã hội là số trẻ khuyết tật đã có giấy xác nhận khuyết tật gồm 42/69 trẻ, những trường hợp này chủ yếu là ở thể nặng, đặc biệt nặng. Theo số liệu khảo sát ở Bảng 2 thì tổng số trẻ khuyết tật và nghi ngờ khuyết tật về trí tuệ là 155 trẻ, con số  này nhiều hơn thực tế gần gấp 3 lần. Đối với số trẻ có nghi ngờ này thì đa số trẻ có sức khỏe tốt, nhưng giao tiếp xã hội hạn chế, việc tham gia các hoạt động ở trường lớp chậm hơn các bạn đồng trang lứa, nói chậm chạm và khó diễn đạt được ý muốn; một số trẻ nặng hơn là khó kiểm soát hành vi, có thể gây hại cho những người xung quan nếu ở thể nặng. Bên cạnh đó một số trẻ không thể đến trường vì quậy phá, hoặc không muốn đến trường. Đa số trẻ nghi ngờ khuyết về trí tuệ có nhận thực chậm, không biết đọc, viết hoặc tính toán, số trẻ này tập trung nhiều ở các xã Phú Vinh, Phú Cường, Suối Hoa và chủ yếu tập trung ở cấp tiểu học và mầm non.
      Theo đánh giá của các giáo viên, trong những năm gần đây tỷ lệ trẻ nhận thức chậm tăng lên theo các năm. Theo đánh giá của giáo viên và chính quyền địa phương những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này có thể là do trẻ tiếp xúc với điện thoại quá nhiều ảnh hưởng đến bộ não của trẻ, cha mẹ không có thời gian quan tâm, chăm sóc con cái, trẻ chủ yếu ở với ông bà, do vậy việc cha mẹ kèm cặp học hành cho con bị hạn chế, thậm chí trẻ không được kèm cặp bảo ban việc học hành; bên cạnh đó còn do ảnh hưởng của môi trường sống không lành mạnh, như đồ ăn, thức uống, người dân sử dụng nhiều thuốc bảo vệ thực vật, như ở tại Phú Vinh, tỷ lệ trẻ khuyết tật cao nằm ở các xóm thường xuyên sử dụng thuốc bảo vệ thực vật.
Bảng 5. Thông tin về cấp giấy xác nhận khuyết tật
 
STT
 
Số lượng trẻ khuyết tật Thông tin về giấy chứng nhận khuyết tật
Chưa có
1 Ngọc Mỹ 39 16 23
2 Phú Cường 42 18 24
3 Phú Vinh 30 6 24
4 Suối Hoa 44 2 42
  Tổng 155 42 113
      Tại 4 xã mới chỉ có 42 trẻ có giấy xác nhận khuyết tật, những trẻ này thuộc diện nặng và đặc biệt nặng, số còn lại ở thể nhẹ hoặc chưa đi khám sức khỏe để được tư vấn, hỗ trợ. Mặc dù một số trẻ có dấu hiệu rất rõ rệt nhưng cũng chưa được khám và tư vấn sức khỏe. Ở Ngọc Mỹ, có trường hợp em Quân 13 tuổi, lần duy nhất được khám bệnh là do Quỹ Chilfund tài trợ vào năm 2019, trong khi đó em Quân học lớp 8 mà nói chậm, khó diễn đạt ý muốn, ít hòa đồng, dấu hiệu tự kỷ rất rõ rệt.
      Qua khảo sát nhu cầu về cấp giấy xác nhận khuyết tật cho trẻ từ gia đình, cán bộ xã và giáo viên, cho rằng việc cấp giấy xác nhận không quan trọng vì chỉ đối với trường hợp nặng mới cần cấp giấy để trẻ được hưởng trợ cấp hàng tháng. Đối với trẻ ở thể nhẹ (như tăng động, tự kỷ hoặc nhận thức chậm) thì không cần thiết phải cấp giấy xác nhận khuyết tật, với các lý do như là:
      + Cha mẹ trẻ bị mặc cảm và tổn thương vì họ khó chấp nhận con họ có bệnh;
      + Vô hình chung tạo sự kỳ thị cho trẻ từ bạn bè và láng giềng;
      + Trẻ bị tổn thương vì trẻ nghĩ mình là người có bệnh và cần được ưu ái v.v... và sẽ không cố gắng vươn lên trong học tập.
      Điều quan trong ở đây là làm thế nào để hỗ trợ cho trẻ tự kỷ, tăng động, nhận thức chậm được cải thiện bản thân trong tương lai? Điều này vô cùng quan trọng, để làm được điều này cần sự vào cuộc của cha, mẹ, nhà trường và xã hội.

2.2 Nhu cầu về việc tư vấn sức khỏe và hỗ trợ hòa nhập

      Qua khảo sát, đánh giá về việc chăm sóc con cái trong hòa nhập và nhu cầu hỗ trợ tư vấn trong hòa nhập thì có đến 90% người được hỏi chưa biết cách xây dựng giáo dục cá nhân cho con trong hòa nhập, các cô giáo có trao đổi tình hình học tập của con và có hướng dẫn kèm cặp con, quan tâm con ở nhà. Nhưng để lập được kế hoạch cụ thể thì chưa được hướng dẫn. 100% cha mẹ cần được hướng dẫn xây dựng kế hoạch giáo dục cá nhân cho trẻ và 100% các cha mẹ cần được tư vấn về sức khỏe cho con.

2.3 Những khó khăn và các đề xuất, nhu cầu hỗ trợ từ các gia đình

       Trong số gia đình có trẻ khuyết tật thì có đến 48 gia đình thuộc hộ nghèo, 40 gia đình thuộc hộ cận nghèo, 30 hộ trung bình và 3 hộ khá. Khó khăn nhất của các gia đình là tài chính; thu nhập của các hộ gia đình là từ các sản phẩm nông nghiệp như lúa, ngô, mía; một số gia đình phải đi làm ăn xa để tạo thêm thu nhập. Chính vì vậy 90% các hộ gia đình có trẻ khuyết tật ở thể nặng đều mong muốn được hỗ trợ khám chữa bệnh, 100% các hộ có mong muốn được tư vấn sức khỏe cho trẻ.
       30% số trẻ bị khuyết tật phần lớn do ông bà chăm sóc do bố mẹ đi làm ăn xa, trẻ ít được cha mẹ trực tiếp quan tâm chăm sóc; 70% số trẻ còn lại là do bố mẹ chăm sóc.

2.4. Những mong muốn và ước mơ của trẻ

       Trong 120/155 trẻ được hỏi về ước mơ và mong muốn thì trong đó có 30 trẻ mong muốn được học tập tốt hơn, 20 trẻ ước mơ lớn lên làm bác sĩ, có 15 trẻ muốn lớn lơn kiếm tiền giúp bố mẹ, 3 trẻ muốn trở thành bác sĩ, 5 trẻ yêu thích vẽ, số trẻ còn lại không biết diễn đạt ý muốn của mình. Qua quá trình phỏng vấn trẻ cho thấy, những trẻ không diễn đạt được ý muốn của mình là do nói khó mặc dù đã ở độ tuổi tiểu học và THCS, một số ngại không nói, một số không nói không phải do ngại mà ở lớp những tiết học bình thường cũng không nói. Đa số các trẻ ở tiểu học đều đọc chậm, không biết viết, không biết tính toán (từ lớp 1 đến lớp 5).

V. KHẢO SÁT NHU CẦU TRUYỀN THÔNG

1.       Một số đặc điểm nhân khẩu của người trả lời và các hộ gia đình trong khảo sát

1.1 Giới tính

Trong số những người trả lời, 45% là nam và 56% là nữ.  

1.2 Tuổi

Tuổi trung bình của người trả lời là 41 tuổi, người ít tuổi nhất là 21 và cao tuổi nhất là 63 tuổi. Độ tuổi không có sự khác biệt giữa những người trả lời là nam và những người trả lời là nữ. Người trả lời tập trung nhiều nhất ở độ tuổi 31-58 tuổi. Độ tuổi từ 30 tuổi trở xuống và trên 60 tuổi chỉ chiếm 13,1% số mẫu nghiên cứu.

1.3  Học vấn

Đa số người trả lời có trình độ học vấn dưới Trung học phổ thông, phổ biến nhất là trình độ học vấn THCS. 7,5% số người trả lời không biết chữ, kể cả khả năng đọc và viết của rất nhiều người có học vấn cấp 1 vẫn rất hạn chế (kể cả việc ký tên).

1.4 Nghề nghiệp

Nghề nghiệp chính của đa số người trả lời là nông dân (95,7%), chỉ có 4,3% số người trả lời không phải nông dân. Tuy nhiên, mặc dù tỉ lệ người trả lời làm nông dân khá cao, nhưng ngoài thời gian làm nông nghiệp, những người trong độ tuổi lao động có thể đi làm ăn xa (các công việc lao động phổ thông, tự do và không ổn định) để kiếm thêm thu nhập, phát triển kinh tế.

1.5  Kinh tế hộ gia đình

Trong số các hộ được khảo sát, có 14% số hộ có sổ nghèo. Tuy nhiên, chỉ có 4,2% đánh giá kinh tế gia đình mình ở mức rất nghèo và 12,3% đánh giá ở mức nghèo. Trong khi đó, 14,3% đánh giá kinh tế hộ gia đình mình ở mức khá và gần 69,2% đánh giá kinh tế hộ gia đình mình ở mức cận nghèo và trung bình.

2.  Sự hiểu biết của người dân về về Luật Bình đẳng giới, Luật giáo dục, Luật trẻ em và Luật người khuyết tật.

Chỉ có 9,5% số người được hỏi trả lời đã nghe và biết rõ đến các Luật Bình đẳng giới, Luật trẻ em, Luật người khuyết tật, Luật giáo dục. Trong khi đó, khoảng 80% đã nghe nhưng không rõ các luật đó nói về nội dung gì; hơn 10% cho rằng chưa bao giờ nghe/biết đến và 5% số người không quan tâm đến các luật này. Những con số này phản ánh đúng những thông tin định tính thu thập được. Trong quá trình trao đổi, rất nhiều người trả lời đã từng nghe đến những luật này, thậm chí còn khẳng định “những luật này là cần thiết” nhưng lại không rõ luật đó về nội dung gì và cũng không quan tâm.
Qua phỏng vấn sâu về việc chủ động tìm hiểu các quy định chính sách về người khuyết tật và bảo vệ trẻ em thì 99% số người trả lời là chưa bao giờ chủ động tìm hiểu, mặc dù có nhu cầu nhưng khi có nhu cầu tiếp cận chính sách thì lên UBND xã hỏi, cán bộ xã hướng dẫn như thế nào thì thực hiện theo.
Trong số những người trả lời, chỉ có dưới 46% số người khẳng định đã từng được tuyên truyền về các nội dung Luật Bình đẳng giới, Luật trẻ em, Luật giáo dục và Luật người khuyết tật. Trong đó 37% số người trả lời rằng không nhớ đã được tuyên truyền về những chủ đề này hay chưa. Tương tự tỉ lệ người không nhớ đã được tập huấn về những nội dung này cao hơn rất nhiều tỉ lệ người khẳng định mình đã được tập huấn về những nội dung này, 17% trả lời chưa được tuyên truyền về những nội dung luật này.

3. Cách giải quyết của người dân trong cộng đồng khi bị xâm hại quyền

Mặc dù các vấn đề liên quan đến xâm hại quyền và lợi ích của trẻ khuyết tật không xảy ra phổ biến trong cộng đồng, nhưng chỉ có 42% số người được hỏi nói rằng không biết giải quyết thế nào nếu có trường hợp xảy ra. Đội ngũ gần nhất mà người dân dễ dàng tiếp cận và chia sẻ thông tin là ban quản lý xóm (90%). Trong đó cụ thể là tổ hòa giải của xóm, bao gồm trưởng xóm và đại diện các ban ngành đoàn thể trong xóm. Nếu vấn đề đó không giải quyết được thì sẽ báo tới chính quyền và công an xã.
Trung tâm tư vấn pháp luật thỉnh thoảng cũng về tận xóm để tư vấn và giải đáp pháp luật, nhưng tổ chức theo hình thức tập trung tại xã, khoảng 2 năm một cuộc. Những vấn đề mà người dân quan tâm tại cuộc truyền thông chủ yếu là vấn đề đất đai và quyền lợi kinh tế. Trừ trường hợp có xảy ra trong xóm, như xâm hại tình dục trẻ em, thì nội dung tư vấn pháp luật sẽ tập trung thêm vào luật trẻ em. Còn lại hầu như không có mấy người đề cập đến những nội dung này. Vì thời gian mỗi buổi tư vấn cũng chỉ có 2 tiếng, nên không có thời gian đâu mà trả lời hay trao đổi các vấn đề khác.

4. Nhu cầu truyền thông và tư vấn pháp luật về bình đẳng giới, luật giáo dục, luật người khuyết tật, luật trẻ em.

*Nội dung truyền thông và tư vấn
Do hiểu biết pháp luật vẫn còn hạn chế, hầu hết người dân mới chỉ biết tên luật chứ chưa biết cụ thể nội dung như thế nào, nên cả cán bộ và người dân đều cho rằng việc tuyên truyền pháp pháp luật là những nội dung cần thiết và liên tục phải thực hiện. Tuy nhiên, nội dung các luật rất nhiều, việc tuyên truyền tất cả các nội dung để người dân có thể nhớ được là bất khả thi. Do đó, cần xác định những vấn đề cần được ưu tiên truyền thông trước. Những vấn đề được người trả lời lựa chọn là vấn đề ưu tiên dựa trên căn cứ:
- Người dân trong cộng đồng chưa có hiểu biết đầy đủ về các quy định, chính sách của nhà nước.
- Người dân chưa quan tâm đến các chính sách, quy định mà mình cần tìm hiểu và thực hiện, còn trông chờ vào chính quyền địa phương, chưa chủ động tìm hiểu.
Do vậy qua khảo sát cho thấy 100% người dân được hỏi có mong muốn được tìm hiểu về luật, chính sách liên quan đến người khuyết tật, luật trẻ em và các luật khác.
* Hình thức thực hiện
Các hình thức truyền thông hai chiều được người dân đánh giá là phù hợp hơn khi tuyên truyền về luật bình đẳng giới, luật trẻ em, luật giáo dục, luật người khuyết tật đặc biệt là truyền thông qua các cuộc họp xóm, hình thức sân khấu hóa.
Một trong những lý do mà việc truyền thông về 4 loại luật này cần sử dụng các kênh truyền thông hai chiều bởi lẽ cần phải phân tích, đưa ra ví dụ và giải thích cho từng tình huống cụ thể trong thực tế. Nếu là truyền thông một chiều thì chắc chắn sẽ không giải thích hết được. Tuy nhiên, hình thức truyền thông lại cần được thiết kế một cách sinh động. Việc truyền thông trong cuộc họp không chỉ đơn thuần là các bài phát biểu, đọc mà cần được thiết kế một cách sinh động bằng các câu hỏi với những phương án trả lời trắc nghiệm, hoặc hái hoa dân chủ, hoặc sân khấu hóa thì mới thu hút được người dân tham gia. Để thiết kế những hoạt động này, nhóm cộng đồng sẵn sàng thực hiện nếu họ được cung cấp bộ câu hỏi, hướng dẫn kỹ năng và hỗ trợ một chút kinh phí phần chuẩn bị phụ kiện thi và những món quà tặng cho người/đội trả lời đúng. Với những hình thức như vậy, chắc chắn sẽ hấp dẫn và tăng khả năng ghi nhớ của những người tham gia.
* Thời gian thực hiện
Vì hình thức truyền thông phù hợp là các cuộc họp và tương tác hai chiều nên không thể tổ chức vào bất cứ thời gian nào, mà cần chọn thời gian phù hợp với người dân có thể tham gia. Ví dụ như vào buổi trưa hoặc buổi tối, khi người dân có thời gian rảnh có thể tham gia. Hoặc đối với học sinh có thể vào các ngày nghỉ hoặc dịp nghỉ hè cùng với gia đình.
Với hình thức tư vấn pháp luật thì thời gian vào bất cứ lúc nào đối tượng cần tư vấn có nhu cầu. Bởi lẽ, có rất nhiều tình huống khẩn cấp có thể xảy ra mà người dân không thể “chờ” đến thời gian theo quy định để có thể nhận được tư vấn.

VI. BÀI HỌC KINH NGHIỆM

- Trước khi rà soát, thu thập thông tin cần xây dựng kế hoạch chi tiết và có sự đồng thuận của đối tác địa phương.
- Xây dựng bộ câu hỏi đơn giản, tránh sử dụng nhiều câu hỏi mở, vì rất khó khai thác thông tin từ người dân.-
Đối tác địa phương phải là đầu mối chính thực hiện hoạt động thì việc liên hệ sắp xếp mới thuận lợi và đảm bảo không bỏ sót thông tin.
- Quá trình thu thập thông tin cần thu thập đa chiều, nhằm đối chiếu so sánh thông tin, đảm bảo thông tin thu thập chất lượng và chính xác nhất
- Thu thập thông tin của trẻ từ nhà trường thầy cô giáo vô cùng hữu ích, vì thầy, cô giáo là người tiếp xúc với trẻ nhiều nhất và hiểu trẻ nhiều nhất. Do vậy việc thu thập thông tin từ nhà trường rất quan trọng.

VII. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ

       - Dự án cung cấp kiến thức cơ bản về dấu hiệu nhận biết trẻ có bệnh và phân loại các bệnh cho cha mẹ và giáo viên.
       - Dự án hỗ trợ tư vấn cách chăm sóc sức khỏe cho trẻ tại nhà.
       - Dự án hướng dẫn cách can thiệp tại nhà và nhà trường để cải thiện việc học tập cho con.
        - Dự án cần thiết kế sổ tay hướng dẫn thực hiện truyền thông và tư vấn pháp luật, cách thức can thiệp trẻ khuyết tật trong hòa nhập giáo dục cho cộng đồng, cha mẹ, nhà trường. Cùng với việc tập huấn cho cho tập huấn viên dự án có thể tiếp tục mở rộng mô hình truyền thông cho các địa bàn khác khi cuốn sổ tay đã được ban hành - kể cả đối với các địa bàn không có nhiều nguồn lực hỗ trợ từ dự án. Sổ tay cần thiết kế đơn giản, chi tiết, gần gũi để phù hợp với đối tượng là cán bộ xóm sử dụng.