HỢP TÁC QUỐC TẾ VỀ PHÁP LUẬT VÀ TƯ PHÁP – NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC VÀ ĐỊNH HƯỚNG TRONG KỶ NGUYÊN MỚI
Sign In

HỢP TÁC QUỐC TẾ VỀ PHÁP LUẬT VÀ TƯ PHÁP – NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC VÀ ĐỊNH HƯỚNG TRONG KỶ NGUYÊN MỚI

Trong suốt hành trình 80 năm xây dựng và phát triển, Bộ, ngành Tư pháp luôn thể hiện được vai trò quan trọng trong tham mưu cho Đảng, Nhà nước ban hành các quyết sách trọng đại, giúp đất nước ổn định, phát triển. Bộ, ngành Tư pháp đã không ngừng nỗ lực, thúc đẩy các hoạt động đối ngoại và hợp tác quốc tế nhằm thiết lập, duy trì và phát triển quan hệ hợp tác hữu nghị, tốt đẹp với nhiều bạn bè, đối tác trên khắp năm châu. Hoàn thành sứ mệnh là cầu nối, công tác hợp tác quốc tế đã và đang đưa Bộ Tư pháp Việt Nam vững vàng bước ra thế giới; và trong tương lai, hợp tác quốc tế sẽ tiếp tục cùng Bộ, ngành Tư pháp gặt hái nhiều thành công hơn nữa, tự tin cùng đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình lớn mạnh.

Trong suốt hành trình 80 năm xây dựng và phát triển, Bộ, ngành Tư pháp luôn thể hiện được vai trò quan trọng trong tham mưu cho Đảng, Nhà nước ban hành các quyết sách trọng đại, giúp đất nước ổn định, phát triển. Bộ, ngành Tư pháp đã không ngừng nỗ lực, thúc đẩy các hoạt động đối ngoại và hợp tác quốc tế nhằm thiết lập, duy trì và phát triển quan hệ hợp tác hữu nghị, tốt đẹp với nhiều bạn bè, đối tác trên khắp năm châu. Hoàn thành sứ mệnh là cầu nối, công tác hợp tác quốc tế đã và đang đưa Bộ Tư pháp Việt Nam vững vàng bước ra thế giới; và trong tương lai, hợp tác quốc tế sẽ tiếp tục cùng Bộ, ngành Tư pháp gặt hái nhiều thành công hơn nữa, tự tin cùng đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình lớn mạnh.
1. Những thành tựu đạt được trong công tác hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp của Bộ Tư pháp từ năm 2015 đến nay
1.1. Dấu mốc đầu tiên trong quan hệ hợp tác quốc tế về pháp luật tư pháp giữa Bộ Tư pháp với các đối tác là việc ký Hiệp định giữa Bộ Tư pháp Cộng hòa Dân chủ Đức và Ủy ban pháp chế Việt Nam (tiền thân của Bộ Tư pháp) vào ngày 15/12/1980 dưới sự ủy quyền của nguyên thủ hai quốc gia và sự phê chuẩn của Quốc hội. Trong giai đoạn từ 1980-2015, Bộ Tư pháp đã nỗ lực thiết lập và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp với nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ và một số tổ chức, diễn đàn quốc tế. Kết quả hợp tác quốc tế trong giai đoạn này đã góp phần tích cực hỗ trợ cho việc nghiên cứu, xây dựng hệ thống pháp luật mới phục vụ quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường, chuyển từ nhà nước được tổ chức theo mô hình cũ sang nhà nước pháp quyền XHCN, thiết lập cơ sở pháp lý phục vụ việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật. Kế thừa những kết quả đã đạt được, trong giai đoạn từ năm 2015 đến nay, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban cán sự Đảng và Lãnh đạo Bộ, bám sát đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng và Nhà nước, công tác hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp của Bộ Tư pháp đã được phát triển lên một tầm cao mới với nhiều thành tựu quan trọng trên cả ba bình diện song phương, khu vực và toàn cầu.
Thứ nhất, hợp tác song phương ngày càng được thúc đẩy mạnh mẽ và hiệu quả. Trong 10 năm qua, Bộ Tư pháp đã ký kết được 132 văn kiện hợp tác tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc cho việc thiết lập, tăng cường và mở rộng quan hệ hợp tác với các đối tác tại nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ. Trong đó, điểm nhấn quan trọng là đưa quan hệ hợp tác với các nước láng giềng ngày càng đi vào chiều sâu, hiệu quả và thực chất hơn. Với Lào, quan hệ hợp tác hữu nghị, truyền thống và đặc biệt với Bộ Tư pháp Lào tiếp tục được đẩy mạnh trên tinh thần “vừa là đồng chí, vừa là anh em” thông qua các hoạt động hỗ trợ, chia sẻ kinh nghiệm với Bộ Tư pháp Lào về xây dựng, hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực thi pháp luật, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực pháp luật cho Lào; phối hợp tổ chức thành công 04 kỳ Hội nghị Tư pháp các tỉnh có chung đường biên giới Việt Nam – Lào mở rộng[1] nhằm tạo diễn đàn thúc đẩy hợp tác pháp luật và tư pháp giữa các địa phương của hai nước, tổ chức 02 Lễ Kỷ niệm hợp tác tư pháp Việt Nam – Lào[2]; trình phê duyệt và thực hiện hiệu quả Dự án ODA hỗ trợ Học viện Tư pháp quốc gia Lào – dự án viện trợ đầu tiên trong lĩnh vực pháp luật của Chính phủ Việt Nam dành cho Bộ Tư pháp Lào;.... Với Campuchia, quan hệ hợp tác giữa hai Bộ, ngành Tư pháp hai nước được làm sâu sắc hơn với việc thiết lập và duy trì cơ chế Hội nghị Tư pháp các tỉnh có chung đường biên giới Việt Nam - Campuchia[3]. Đặc biệt, quan hệ hợp tác pháp luật và tư pháp với Trung Quốc đã có bước đột phá quan trọng với việc ký kết Bản ghi nhớ hợp tác giữa hai Bộ Tư pháp vào năm 2022 và tổ chức nhiều sự kiện mang tính lịch sử đối với Bộ, ngành Tư pháp hai nước như: đón Bộ trưởng Bộ Tư pháp Trung Quốc sang thăm và làm việc tại Việt Nam vào tháng 4/2024; phối hợp tổ chức Hội nghị tư pháp các tỉnh có chung đường biên giới Việt Nam-Trung Quốc lần thứ nhất vào tháng 6/2025 tại Trung Quốc, qua đó mở ra một cơ chế hợp tác chưa từng có giữa hai Bên. 
Quan hệ hợp tác giữa Bộ, ngành Tư pháp với các đối tác truyền thống, chiến lược, toàn diện tiếp tục được tăng cường, mở rộng với nhiều hoạt động hợp tác hiệu quả: thành lập và duy trì hoạt động của Tổ công tác hỗn hợp Việt Nam - Nga về các vấn đề pháp lý, tham dự Diễn đàn pháp luật quốc tế Saint-Peterburg thường niên; thắt chặt quan hệ hợp tác với Bộ Tư pháp Cu Ba thông qua trao đổi đoàn công tác cấp Lãnh đạo Bộ, xây dựng Dự án ODA của Chính phủ Việt Nam về tăng cường năng lực xây dựng và thực thi pháp luật hỗ trợ Bộ Tư pháp Cu Ba[4]; tăng cường hợp tác với CHLB Đức với việc ký kết và triển khai Chương trình hợp tác Đối thoại nhà nước pháp quyền với Bộ Tư pháp và bảo vệ người tiêu dùng Liên bang Đức (giai đoạn 3 năm/lần); duy trì quan hệ hợp tác thường xuyên, lâu dài với các đối tác Pháp[5], xúc tiến thành lập Trung tâm pháp luật Pháp tại Trường Đại học Luật Hà Nội trong tương lai gần; tổ chức các Phiên họp Uỷ ban hỗn hợp Việt Nam - Singapore thực hiện Bản Ghi nhớ hợp tác giữa Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và Chính phủ Cộng hòa Singapore về hợp tác trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp. Ngoài ra, Bô Tư pháp không ngừng mở rộng thiết lập và tăng cường quan hệ hợp tác với các đối tác khác (như Hàn Quốc, Canada, Azecbaijan, Italia, Algeria, Ấn Độ, Mông Cổ, Nam Phi, Australia,...).
Thứ hai, hợp tác đa phương khu vực và toàn cầu được quan tâm đẩy mạnh theo phương châm chủ động, trách nhiệm và hiệu quả. Với vai trò là cơ quan đầu mối của Việt Nam trong hợp tác pháp luật và tư pháp ASEAN, Bộ Tư pháp đã tham gia tích cực, hiệu quả tại các kỳ Hội nghị Bộ trưởng Tư pháp ASEAN (ALAWMM), Hội nghị Quan chức Pháp luật cao cấp ASEAN (ASLOM), Hội nghị đặc biệt Bộ trưởng Tư pháp ASEAN - Nhật Bản, Phiên họp Bộ trưởng Tư pháp các nước ASEAN-G7; phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan triển khai thực hiện các Sáng kiến, đề xuất về hợp tác pháp luật và tư pháp trong ASEAN đã được thông qua tại ASLOM và ALAWMM. Trong hợp tác với các thiết chế đa phương toàn cầu về pháp luật và tư pháp, Bộ Tư pháp đã chủ động nghiên cứu, đề xuất gia nhập, thực hiện tốt vai trò cơ quan đầu mối quốc gia thực hiện nghĩa vụ thành viên và từng bước khai thác hiệu quả hoạt động hợp tác trong khuôn khổ Hội nghị La Hay về tư pháp quốc (HccH)[6], Tổ chức quốc tế về Luật phát triển (IDLO)[7], trong đó Bộ Tư pháp đã cử thành công 01 đại diện tham gia vị trí thành viên Hội đồng tư vấn của IDLO từ năm 2021.
Thứ ba, trong bối cảnh Việt Nam đã trở thành quốc gia có mức thu nhập trung bình, nguồn vốn ODA có xu hướng giảm bớt, Bộ Tư pháp vẫn luôn chủ động vận động, đàm phán, ký kết và quản lý thực hiện hiệu quả nhiều chương trình, dự án, phi dự án hợp tác với JICA-Nhật Bản; Chính phủ Canada; USAID Hoa Kỳ, các cơ quan của Liên hợp quốc (UNDP, UNICEF, UNWOMEN, UNODC…), các tổ chức tài chính quốc tế và khu vực (WB, IFC, …), Liên minh châu Âu (EU) nhằm tranh thủ nguồn lực và các hỗ trợ kỹ thuật của đối tác phục vụ việc thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của Bộ, ngành Tư pháp, đồng thời hỗ trợ triển khai nhiệm vụ của một số cơ quan, tổ chức khác như: Bộ Công an, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Công Thương, Văn phòng Chính phủ, Ban Nội chính Trung ương, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Hội Luật gia Việt Nam, một số Sở Tư pháp địa phương…
1.2. Cùng với việc tăng cường quan hệ hợp tác với các đối tác quốc tế, với tinh thần trách nhiệm và cố gắng không ngừng, Bộ Tư pháp đã hoàn thành ngày càng tốt các nhiệm vụ về theo dõi, quản lý hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp trên phạm vi toàn quốc nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp của các Bộ, ngành, địa phương.
Trong thời gian qua, Bộ Tư pháp đã phối hợp với Ban Nội chính Trung ương tổng kết, đánh giá 10 năm thực hiện Chỉ thị số 39-CT/TW về hợp tác với nước ngoài về pháp luật, cải cách hành chính và cải cách tư pháp trên phạm vi toàn quốc và tham mưu Ban Bí thư ban hành Kết luận số 73-KL/TW về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 39-CT/TW, trong đó xác định các định hướng, nhiệm vụ, giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động hợp tác với nước ngoài về pháp luật, cải cách hành chính và cải cách tư pháp, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và hội nhập quốc tế trong tình hình mới. Triển khai thực hiện nhiệm vụ được giao tại Kết luận số 73-KL/TW, Bộ Tư pháp đã thực hiện nghiêm túc việc theo dõi, đôn đốc, kiểm tra tình hình thực hiện Chỉ thị số 39-CT/TW và Kết luận số 73-KL/TW, hàng năm đều tổ chức các đoàn kiểm tra tình hình thực hiện tại một số Bộ, ngành, địa phương.
Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp cũng đã triển khai toàn diện, đồng bộ nhiệm vụ giúp Chính phủ quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực pháp luật trong cả nước; tham mưu với Chính phủ hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực này thông qua việc chủ trì xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định số 113/2014/NĐ-CP ngày 26/11/2014 về quản lý hợp tác với nước ngoài về pháp luật và Nghị định số 26/2024/NĐ-CP ngày 01/3/2024 về quản lý hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp (thay thế Nghị định số 113/2014/NĐ-CP); duy trì hiệu quả hoạt động của Nhóm quan hệ đối tác pháp luật[8] để vận động, thu hút viện trợ trong lĩnh vực pháp luật, cải cách tư với trọng tâm là tổ chức Diễn đàn pháp luật, các Phiên đối thoại chính sách, pháp luật theo từng chủ đề nhằm chia sẻ thông tin về xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật, cải cách tư pháp, thúc đẩy các cơ hội hợp tác với các đối tác quốc tế, góp phần nâng cao hiệu quả công tác hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp, hỗ trợ tích cực cho quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
1.3. Nhìn lại chặng đường hơn 35 năm qua, đặc biệt là trong 1 thập kỷ gần đây, có thể nhận thấy quan hệ hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp của Bộ, ngành Tư pháp đã có bước phát triển mạnh mẽ và hiệu quả. Thông qua các hoạt động hợp tác quốc tế, Bộ, Ngành Tư pháp được tiếp cận với nhiều cơ hội nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc tri thức, tinh hoa và kinh nghiệm quốc tế phù hợp với truyền thống, thực tiễn Việt Nam phục vụ quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật, tổ chức thực thi pháp luật và cải cách tư pháp, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới, phát triển đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đóng góp tích cực vào việc triển khai đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Nhờ sự hỗ trợ hiệu quả của hợp tác quốc tế, chúng ta cũng đã đào tạo được một lực lượng cán bộ có kinh nghiệm, trình độ chuyên môn cao và ngoại ngữ tốt, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ; đồng thời giúp bạn bè quốc tế ngày càng hiểu rõ hơn, ủng hộ những nỗ lực hoàn thiện pháp luật và cải cách tư pháp của Việt Nam. Công tác quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực pháp luật và cải cách tư pháp ngày càng đi vào nền nếp, đáp ứng các yêu cầu đặt ra tại Chỉ thị số 39-CT/TW, Kết luận số 73-KL/TW và nhiều chỉ đạo khác của Đảng đối với công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế.
2. Định hướng hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp của Bộ Tư pháp trong kỷ nguyên mới
2.1. Bối cảnh quốc tế và trong nước tác động đến công tác hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp
Thế giới hiện nay đang trải qua những thay đổi mang tính thời đại, môi trường kinh tế - chính trị - an ninh quốc tế diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo. Toàn cầu hóa, các định chế đa phương và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển, song đứng trước nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt là trong bối cảnh xu hướng đa cực, đa trung tâm, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp và quyết liệt hơn. Các thách thức an ninh truyền thống, phi truyền thống ngày càng trở nên gay gắt, khó kiểm soát, vượt khỏi tầm xử lý của bất cứ quốc gia riêng lẻ nào và đang thách thức cả hệ thống quản trị toàn cầu. Cách mạng công nghệ 4.0 diễn ra mạnh mẽ trên quy mô toàn cầu, tác động sâu rộng, toàn diện đến mọi mặt của đời sống xã hội, nền kinh tế - chính trị và văn minh nhân loại. Khoa học công nghệ và chuyển đổi số thúc đẩy đổi mới phương thức quản trị quốc gia, cải cách quy trình hoạt động hành chính của cơ quan công quyền; thúc đẩy phát triển kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn. Trong bối cảnh này, pháp luật đã vượt ra khỏi khuôn khổ biên giới quốc gia, không chỉ còn là công cụ quản lý nội bộ mà còn trở thành cầu nối thiết yếu giữa các quốc gia, tạo nên một không gian pháp lý chung liên kết toàn cầu. Sự cạnh tranh quốc tế để phát triển giờ đây không chỉ đơn thuần là cạnh tranh về kinh tế, hàng hóa và dịch vụ…, mà còn là sự cạnh tranh về thể chế, chính sách, khuôn khổ pháp luật và tư pháp. Các quốc gia ngày càng nhận ra rằng thể chế pháp luật và tư pháp có vai trò quan trọng trong việc cắt giảm chi phí đầu tư, kinh doanh và tôn trọng, thúc đẩy, bảo vệ quyền con người.
Đối với Việt Nam, sau gần 40 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử và thời đại; thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước được nâng lên, sự ổn định chính trị - xã hội tiếp tục duy trì; môi trường khởi nghiệp, đầu tư, kinh doanh cải thiện, khả năng thích ứng của nền kinh tế được nâng cao; quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu, vị thế và uy tín quốc tế ngày càng lớn mạnh; đất nước ngày càng hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng hơn. Với những thành tựu đạt được, Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định “đây là thời điểm “hội tụ” tổng hòa các lợi thế, sức mạnh để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc tiếp sau kỷ nguyên độc lập, tự do, xây dựng chủ nghĩa xã hội và kỷ nguyên đổi mới[9]. Ngày 09/11/2022, Hội nghị lần thứ Sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, trong đó xác định một trong các nhiệm vụ và giải pháp tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là “Tăng cường, chủ động hội nhập quốc tế đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”. Cuối năm 2024, đầu năm 2025, Bộ Chính trị đã ban hành 04 Nghị quyết đặc biệt quan trọng được biết đến như là "Bộ tứ trụ cột" tạo cơ sở, nền móng, khung chiến lược tổng thể cho đất nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, bao gồm: Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/01/2025; Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới; và Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 về phát triển kinh tế tư nhân, trong đó khẳng định quan điểm xây dựng pháp luật trên cơ sở “tiếp thu có chọn lọc giá trị tinh hoa của nhân loại”, “đưa thể chế, pháp luật trở thành lợi thế cạnh tranh”.
Việc triển khai thực hiện các Nghị quyết, văn bản chỉ đạo của Đảng nêu trên trong bối cảnh thế giới đang thay đổi nhanh chóng hiện nay vừa tạo cơ hội phát triển, đồng thời cũng đặt ra những thách thức không nhỏ, đòi hỏi công tác hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp nói chung và của Bộ, ngành Tư pháp nói riêng cần tiếp tục được thúc đẩy, nâng cao chất lượng, hiệu quả để đồng hành cùng sự phát triển của Bộ, ngành Tư pháp trong kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
2.3. Định hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp của Bộ, ngành Tư pháp trong kỷ nguyên mới
Trong kỷ nguyên mới, công tác đối ngoại, hợp tác quốc tế của Bộ, ngành Tư pháp hướng tới mục tiêu: nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính đồng bộ, toàn diện và bền vững phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, trên cơ sở tuân thủ nghiêm các nguyên tắc, chỉ đạo của Đảng, nhằm huy động và tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài hỗ trợ thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị, chuyên môn được giao, trọng tâm là thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đột phá đã đề ra tại bốn Nghị quyết chiến lược của Đảng, phục vụ quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, góp phần không ngừng nâng cao vị thế, uy tín của Bộ, ngành Tư pháp nói riêng, của Việt Nam nói chung.
Để thực hiện mục tiêu nói trên, công tác hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp của Bộ, ngành Tư pháp thời gian tới sẽ ưu tiên một số định hướng, giải pháp sau đây:
Thứ nhất, phát huy vai trò trọng yếu, thường xuyên của công tác đối ngoại, hợp tác quốc tế phục vụ triển khai các nhiệm vụ chuyên môn của Bộ, ngành Tư pháp, nhất là các nhiệm vụ được giao tại bốn Nghị quyết chiến lược, đảm bảo đúng đường lối, chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Trong đó, quan tâm hợp tác, huy động sự hỗ trợ, tài trợ của các đối tác quốc tế đối với các nội dung để hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, khả thi và bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ pháp luật và tư pháp; tận dụng hiệu quả, linh hoạt các lợi thế từ cam kết của cá điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. 
Thứ hai, đẩy mạnh hơn nữa hợp tác song phương trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp, tiếp tục đưa quan hệ với các nước láng giềng, nước lớn, các đối tác truyền thống, quan trọng đi vào chiều sâu, thực chất, bền vững. Thực hiện hiệu quả các thỏa thuận hợp tác về pháp luật và tư pháp đã ký kết; chủ động nghiên cứu đề xuất ký kết các văn kiện hợp tác với các đối tác mới để tạo cơ sở pháp lý chính thức cho việc thúc đẩy hợp tác, hướng tới mục tiêu thiết lập được quan hệ hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp với hầu hết các nước lớn, quan trọng, có quan hệ ngoại giao thân thiện với Việt Nam. Tiếp tục duy trì và nâng cao hiệu quả cơ chế Hội nghị tư pháp các tỉnh có chung đường biên giới giữa Việt Nam và các nước láng giềng (Lào, Campuchia, Trung Quốc); xây dựng và triển khai thực hiện thành công các dự án hỗ trợ Lào, Cu Ba về các nội dung pháp luật, tư pháp từ nguồn ODA của Chính phủ Việt Nam. Nghiên cứu đẩy mạnh chia sẻ kinh nghiệm cải cách pháp luật và tư pháp của Việt Nam với các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước trong khu vực Đông Nam Á và Châu Phi. Xây dựng, phát triển mạng lưới chuyên gia pháp lý nước ngoài, bao gồm cả người Việt Nam ở nước ngoài để hỗ trợ nghiên cứu, tư vấn các vấn đề mới trong phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Thứ ba, thúc đẩy và nâng tầm hợp tác đa phương theo phương châm “chủ động tham gia, tích cực thúc đẩy các quan tâm, lợi ích của ta”. Chủ động nghiên cứu, đề xuất các sáng kiến hợp tác ASEAN trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp dài hạn, mang lại dấu ấn cho Việt Nam về những chủ đề mà ta có lợi ích cao và phù hợp với quan tâm chung của các nước ASEAN. Thực hiện tốt vai trò thành viên của các tổ chức quốc tế đa phương về pháp luật và tư pháp mà Việt Nam đã tham gia và Bộ Tư pháp được giao là cơ quan đầu mối quốc gia, trong đó có IDLO và HCCH; mở rộng quan hệ với các tổ chức, diễn đàn quốc tế đa phương về pháp luật và tư pháp khác, chủ động nghiên cứu, đề xuất khả năng gia nhập các tổ chức quốc tế đa phương về pháp luật và tư pháp phù hợp với chủ trương, chính sách và nhu cầu của Việt Nam. Chủ động, tích cực tham gia cùng cố, xây dựng, định hình các cơ chế, nguyên tắc cơ bản, chuẩn mực hệ thống luật pháp quốc tế, cải tổ, đổi mới các định chế quản trị khu vực và toàn cầu. Nghiên cứu, tăng cường sự hiện diện của các chuyên gia Việt Nam trong các tổ chức pháp lý quốc tế và cơ quan tài phán quốc tế.
Thứ tư, tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp theo chỉ đạo của Đảng và quy định của pháp luật, trong đó chú trọng công tác hướng dẫn, cho ý kiến, kiểm tra tình hình thực hiện của các cơ quan, tổ chức, địa phương. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, dự báo tình hình khu vực và thế giới tác động đến hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp để kịp thời tham mưu các giải pháp, biện pháp ứng phó, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp của Bộ, Ngành Tư pháp; nghiên cứu, đề xuất phương án và lộ trình phù hợp với bối cảnh nguồn vốn ODA ngày càng giảm và xu hướng chuyển đổi từ hợp tác phát triển sang quan hệ đối tác.
Thứ năm, nâng cao năng lực và bản lĩnh chính trị hội nhập quốc tế, trong đó đề cao công tác chỉ đạo, điều hành sát sao, kịp thời của Đảng uỷ, Lãnh đạo Bộ Tư pháp; phát huy hiệu quả vai trò của Vụ Hợp tác quốc tế trong điều phối công tác hợp tác quốc tế trong phạm vi Bộ, Ngành Tư pháp; thực hiện cơ chế đặc biệt thu hút, xét tuyển, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực có trình độ, kinh nghiệm thực tiễn về hợp tác quốc tế về pháp luật, tạo chuyển biến căn bản về chất lượng nhân lực và năng lực hội nhập quốc tế của đội ngũ cán bộ, công chức Bộ Tư pháp, nhất là bộ phận trực tiếp làm công tác pháp luật quốc tế, hợp tác quốc tế, đảm bảo ngang tầm với trình độ khu vực. Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nhất là đối với thế hệ trẻ, tạo ra “sức đề kháng” để ngăn ngừa mặt trái của hội nhập quốc tế.
Trong thời gian tới, với sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng của các cơ quan, tổ chức ở Trung ương và địa phương, tinh thần trách nhiệm và ứng phó linh hoạt của từng cơ quan, công tác đối ngoại nói chung và hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp nói riêng sẽ ngày càng phát triển, đóng góp hiệu quả, thiết thực vào công cuộc xây dựng hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, khả thi với cơ chế tổ chức thực hiện nghiêm minh, nhất quán, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân, mở đường cho kiến tạo phát triển, huy động mọi người dân và doanh nghiệp tham gia vào phát triển kinh tế - xã hội như mục tiêu mà Bộ Chính trị đã đặt ra tại Nghị quyết số 27-NQ/TW và Nghị quyết số 66-NQ/TW.
 
[1] Hội nghị Tư pháp các tỉnh có chung đường biên giới Việt Nam – Lào mở rộng lần thứ 3 năm 2016 tại Thanh Hóa; lần thứ 4 năm 2018 tại Viêng Chăn, Lào; lần thứ 5 năm 2020 tại Thanh Hóa; lần thứ 6 năm 2024 tại Viêng Chăn, Lào.
[2] Lễ Kỷ niệm 35 năm hợp tác tư pháp Việt Nam – Lào năm 2017 tại Viêng Chăn, Lào; Lễ Kỷ niệm 40 năm hợp tác tư pháp Việt Nam – Lào năm 2022 tại Nghệ An.
[3] Hai Bên đã phối hợp tổ chức thành công Hội nghị Tư pháp các tỉnh có chung đường biên giới Việt Nam – Campuchia lần thứ nhất vào năm 2017 tại Tây Ninh, Việt Nam, Hội nghị lần thứ hai vào năm 2019 tại Siêm Riệp, Campuchia, và hiện nay đang nỗ lực chuẩn bị tổ chức Hội nghị lần thứ ba tại Việt Nam.
[4] Bộ Tư pháp đang khẩn trương hoàn tất các thủ tục pháp lý theo quy định của pháp luật Việt Nam để trình phê duyệt Dự án nhằm sớm đưa Dự án triển khai thực hiện trên thực tế.
[5] Bộ Tư pháp, Tham Chính viện, Hội đồng Công chứng tối cao và Hội đồng Thừa phát lại.
[6] Việt Nam chính thức trở thành thành viên từ ngày 10/4/2013.
[7] Việt Nam chính thức trở thành thành viên từ ngày 29/11/2016
[8] được thành lập năm 2016.
[9] GS. TS. Tô Lâm “Một số nhận thức cơ ban về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”. Tạp chí Cộng sản, số 1.050, tháng 11-2024, tr. 3-11.
 https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/ky-nguyen-moi-ky-nguyen-vuon-minh-cua-dan-toc-ky-nguyen-phat-trien-giau-manh-duoi-su-lanh-dao-cam-quyen-cua-dang-cong-san-xay-dung-thanh-cong-nuoc-vie