Công tác thông tin đối ngoại là một trong những nhiệm vụ trọng yếu của Bộ Tư pháp Việt Nam nhằm góp phần bảo vệ chủ quyền, nâng cao uy tín quốc gia và hỗ trợ các hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực pháp luật. Trong bối cảnh tình hình quốc tế có nhiều biến động phức tạp, việc đánh giá, dự báo tình hình để kịp thời phản ứng và đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ thông tin đối ngoại của Bộ Tư pháp trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Báo cáo này nhằm mục đích đánh giá thực trạng công tác thông tin đối ngoại của Bộ Tư pháp, dự báo các xu hướng ảnh hưởng đến lĩnh vực pháp luật trên trường quốc tế, đồng thời đề xuất các biện pháp cụ thể để tăng cường hiệu quả công tác này trong thời gian tới.
I. BỐI CẢNH VÀ SỰ CẦN THIẾT
Trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng, xu thế hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp giữa các quốc gia đang phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Việt Nam không nằm ngoài dòng chảy này khi ngày càng chủ động tham gia các công ước quốc tế, ký kết nhiều hiệp định song phương và đa phương liên quan đến tư pháp, pháp lý, đầu tư và bảo hộ công dân. Vai trò của Bộ Tư pháp Việt Nam trong việc tham mưu xây dựng thể chế, cung cấp dịch vụ pháp lý công, hợp tác pháp luật quốc tế và đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam ở nước ngoài đang trở nên ngày càng quan trọng. Trong bối cảnh đó, việc xác định đúng và trúng xu hướng quan tâm, nhu cầu thông tin của các đối tác nước ngoài và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là cơ sở thiết yếu để hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, và khẳng định vị thế pháp lý của Việt Nam trên trường quốc tế.
Hiện nay, quá trình hội nhập quốc tế đã mở rộng nhanh chóng trên nhiều lĩnh vực, trong đó lĩnh vực pháp lý và tư pháp chiếm vai trò trọng yếu trong việc đảm bảo môi trường đầu tư – kinh doanh minh bạch, an toàn và bền vững. Với việc ký kết và thực thi các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như EVFTA, CPTPP hay UKVFTA, yêu cầu cải cách pháp luật theo chuẩn mực quốc tế và bảo đảm tương thích pháp lý giữa Việt Nam và các nước đối tác đã đặt ra cấp bách. Trong quá trình đó, các tổ chức, doanh nghiệp, hãng luật nước ngoài có nhu cầu lớn trong việc tiếp cận thông tin pháp luật Việt Nam, đặc biệt là về đầu tư, doanh nghiệp, tố tụng, dân sự, đất đai, sở hữu trí tuệ, và an ninh mạng. Bên cạnh đó, họ cũng quan tâm sâu sắc đến tiến trình xây dựng, sửa đổi luật và tính ổn định của hệ thống pháp luật. Từ góc độ thực tiễn, nhiều cơ quan đại diện ngoại giao và hiệp hội doanh nghiệp quốc tế tại Việt Nam đã chủ động gửi kiến nghị, góp ý đối với các dự thảo luật và đề xuất cải thiện khả năng tiếp cận dữ liệu pháp lý theo hướng minh bạch và thuận tiện hơn.
Song song với đối tác quốc tế, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài – với hơn 5,3 triệu người sinh sống tại hơn 130 quốc gia và vùng lãnh thổ – cũng đang đặt ra nhu cầu ngày càng lớn về tiếp cận pháp luật, dịch vụ pháp lý và bảo hộ pháp lý từ phía nhà nước Việt Nam. Cộng đồng kiều bào hiện nay không chỉ có nhu cầu giữ mối liên hệ văn hóa – tinh thần với quê hương, mà còn mong muốn được bảo vệ quyền lợi pháp lý trong các tình huống cụ thể như tranh chấp dân sự, thủ tục quốc tịch, hộ tịch, thừa kế, đầu tư, hoặc bảo vệ khi xảy ra sự cố pháp lý ở nước ngoài. Đặc biệt, trong điều kiện dịch chuyển toàn cầu mạnh mẽ, vấn đề pháp lý liên quan đến quốc tịch song song, con cái sinh ra ở nước ngoài, tài sản thừa kế tại Việt Nam và quyền hồi hương đang trở thành những chủ đề nhận được nhiều sự quan tâm. Bộ Tư pháp Việt Nam được kỳ vọng sẽ là cơ quan đầu mối trong việc kết nối, giải thích và hỗ trợ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài tiếp cận các thủ tục pháp lý một cách dễ dàng, nhanh chóng và công bằng.
Bên cạnh những kỳ vọng chính đáng đó, vẫn còn không ít rào cản trong việc tiếp cận thông tin pháp luật từ phía các nhóm đối tượng nêu trên. Thực tế cho thấy, nhiều văn bản pháp luật Việt Nam chưa có bản dịch chính thức sang tiếng Anh, hoặc nếu có thì nội dung chưa thống nhất, chưa được cập nhật thường xuyên. Hệ thống dịch vụ công trực tuyến tuy đã được cải thiện nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng từ xa của cộng đồng ở nước ngoài, đặc biệt là về độ ổn định, tính thân thiện với người dùng và khả năng hỗ trợ đa ngôn ngữ. Thêm vào đó, thông tin về đầu mối tiếp nhận hồ sơ, biểu mẫu tiêu chuẩn, thời gian giải quyết và cơ chế phản hồi khiếu nại còn phân tán, gây khó khăn trong quá trình tiếp cận và thực hiện thủ tục. Những bất cập này không chỉ ảnh hưởng đến trải nghiệm người dùng mà còn làm giảm hiệu quả công tác đối ngoại pháp luật và quản lý nhà nước về tư pháp.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu, phân tích xu hướng quan tâm và nhu cầu thông tin cụ thể từ các đối tượng bên ngoài lãnh thổ là hết sức cần thiết. Nó không chỉ giúp Bộ Tư pháp xây dựng chiến lược truyền thông pháp lý hiệu quả, mà còn góp phần hoạch định chính sách pháp luật phù hợp với thực tiễn toàn cầu hóa, đồng thời khẳng định vai trò chủ động, tích cực của Việt Nam trong hợp tác pháp lý quốc tế. Việc đánh giá đúng các nhóm nhu cầu ưu tiên, các kênh truyền tải hiệu quả, cũng như rào cản trong tiếp cận thông tin sẽ là tiền đề quan trọng để Bộ Tư pháp xây dựng các giải pháp cải thiện chất lượng cung cấp thông tin pháp luật, hiện đại hóa nền hành chính tư pháp và tăng cường sự hiện diện pháp lý của Việt Nam trên trường quốc tế trong thời gian tới.
II. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI CỦA BỘ TƯ PHÁP
1. Kết quả triển khai công tác thông tin đối ngoại của Bộ Tư pháp
Bộ Tư pháp Việt Nam giữ vai trò chủ đạo trong việc xây dựng, hoàn thiện và quản lý hệ thống pháp luật quốc gia, đồng thời là đầu mối quan trọng trong việc thực hiện công tác hợp tác pháp luật quốc tế và thông tin đối ngoại liên quan đến lĩnh vực tư pháp. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, công tác thông tin đối ngoại của Bộ Tư pháp không chỉ dừng lại ở việc truyền tải các chính sách, pháp luật của Việt Nam ra nước ngoài mà còn nhằm nâng cao hình ảnh pháp luật Việt Nam, tăng cường sự hiểu biết, hợp tác và tin cậy từ phía các đối tác quốc tế. Thực tế này đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với công tác thông tin đối ngoại của Bộ, đòi hỏi sự đổi mới, sáng tạo và chuyên nghiệp trong phương thức và nội dung truyền tải.
Trải qua nhiều năm, Bộ Tư pháp đã từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống công tác thông tin đối ngoại. Bộ đã chủ động phối hợp với các cơ quan đại diện ngoại giao, các tổ chức quốc tế và các đối tác nước ngoài để tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo chuyên đề về pháp luật nhằm giới thiệu, quảng bá các chính sách, văn bản pháp luật của Việt Nam cũng như cập nhật, trao đổi các thông tin pháp lý quốc tế. Các hoạt động này đã góp phần tạo dựng môi trường hợp tác pháp luật đa phương, hỗ trợ quá trình cải cách pháp luật trong nước phù hợp với các chuẩn mực quốc tế. Việc xuất bản các ấn phẩm, tài liệu pháp luật, xây dựng website, các bản tin điện tử và sử dụng mạng xã hội trong công tác truyền thông cũng được Bộ chú trọng đẩy mạnh nhằm đa dạng hóa kênh thông tin và tăng cường khả năng tiếp cận đối với nhiều đối tượng khác nhau.
Ngay sau khi Chính phủ ban hành Nghị định số 72/2015/NĐ-CP ngày 07/9/2015 về quản lý hoạt động thông tin đối ngoại (sau đây gọi là Nghị định số 72/2015/NĐ-CP), Lãnh đạo Bộ Tư pháp đã kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo công tác phổ biến, quán triệt và tổ chức triển khai nội dung Nghị định số 72/2015/NĐ-CP trong Bộ, ngành Tư pháp nhằm thống nhất nhận thức và thực hiện trong việc nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động thông tin đối ngoại, đảm bảo đáp ứng các mục tiêu đối ngoại của Bộ, ngành Tư pháp, bám sát quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác thông tin đối ngoại trong bối cảnh hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Đồng thời, Lãnh đạo Bộ cũng chỉ đạo các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ chủ động đưa nội dung triển khai Nghị định số 72/2015/NĐ-CP vào chương trình, kế hoạch công tác hàng năm và các hoạt động chuyên môn phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị; giao Vụ Hợp tác quốc tế là đầu mối công tác thông tin đối ngoại tại Bộ Tư pháp, chủ trì, phối hợp với các đơn vị thuộc Bộ thực hiện hoạt động thông tin đối ngoại của Bộ theo quy định tại Nghị định số 72/2015/NĐ-CP để cung cấp thông tin kịp thời, đầy đủ tới cộng động quốc tế và người Việt Nam ở nước ngoài về hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện, tổ chức thi hành pháp luật và tổng hợp, chia sẻ thông tin, kinh nghiệm quốc tế phục vụ hoạt động chuyên môn của cơ quan, đơn vị thuộc Bộ.
Ngoài ra, trong giai đoạn năm 2015 - 2024, Lãnh đạo Bộ Tư pháp đã thường xuyên chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt đến cán bộ, công chức, viên chức thuộc Bộ về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về hoạt động thông tin đối ngoại
[1] nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức, viên chức thuộc Bộ về vai trò của công tác thông tin đối ngoại với việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ trong nâng cao hiệu quả công tác thông tin đối ngoại của Bộ, ngành Tư pháp trong tình hình mới.
Trên cơ sở chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác thông tin đối ngoại, Bộ Tư pháp đã xây dựng và ban hành các chương trình, kế hoạch, đề án trong phạm vi Bộ, ngành Tư pháp liên quan đến công tác thông tin đối ngoại:
+ Thực hiện nhiệm vụ được giao tại Nghị định số 72/2015/NĐ-CP và chương trình, kế hoạch thông tin đối ngoại của Chính phủ, Bộ Tư pháp đã xây dựng, ban hành và tổ chức triển khai Kế hoạch công tác thông tin đối ngoại của Bộ Tư pháp năm 2016 (ban hành kèm theo Quyết định 1376/QĐ-BTP ngày 27/6/2016) và Kế hoạch hoạt động thông tin đối ngoại của ngành Tư pháp giai đoạn 2017-2020 (ban hành kèm theo Quyết định số 928/QĐ-BTP ngày 29/6/2017). Đây là lần đầu tiên Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch để đẩy mạnh công tác thông tin đối ngoại trong toàn ngành, mở rộng phạm vi thực hiện công tác thông tin đối ngoại đến các cơ quan tư pháp địa phương nhằm nâng cao hiệu quả quảng bá hình ảnh và vai trò của ngành Tư pháp, hỗ trợ cho việc thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của Bộ, ngành. Hiện nay, Bộ Tư pháp đang nghiên cứu các văn bản có liên quan để xây dựng dự thảo Kế hoạch thông tin đối ngoại của Bộ Tư pháp giai đoạn năm 2024-2030.
+ Ngày 15/6/2023, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 57-KL/TW về tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới (sau đây gọi là Kết luận số 57-KL/TW). Lãnh đạo Bộ Tư pháp đã tổ chức phổ biến, quán triệt nội dung Kết luận số 57-KL/TW đến cán bộ, công chức, viên chức thuộc Bộ Tư pháp và tham mưu Ban cán sự đảng xây dựng dự thảo Kế hoạch triển khai Kết luận số 57-KL/TW trong Bộ Tư pháp (dự kiến ban hành trong thời gian tới) trên cơ sở rà soát Nghị quyết số 47/NQ-CP ngày 15/4/2024 của Chính phủ về Chương trình hành động của Chính phủ đến năm 2030 thực hiện Kết luận số 57-KL/TW, đồng thời, triển khai xây dựng dự thảo Kế hoạch của Bộ Tư pháp thực hiện Nghị quyết số 47/NQ-CP, dự kiến trình Bộ trưởng Bộ Tư pháp ký ban hành trong thời gian tới.
+ Ngoài ra, Bộ Tư pháp cũng đảm bảo quán triệt đầy đủ nội dung của Nghị định số 72/2015/NĐ-CP và nguyên tắc, định hướng của Đảng, Nhà nước về hoạt động thông tin đối ngoại trong quá trình xây dựng và triển khai các kế hoạch, đề án, quy chế của Bộ Tư pháp có liên quan đến công tác thông tin đối ngoại như Kế hoạch công tác truyền thông về hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp hàng năm, Đề án “Nâng cao hiệu quả công tác truyền thông về hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp giai đoạn 2021-2026” (ban hành kèm theo Quyết định số 1996/QĐ-BTP ngày 31/12/2021), Đề án “Xây dựng Kho dữ liệu truyền thông về hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp” (ban hành kèm theo
Quyết định số 2599/QĐ-BTP ngày 30/12/2022), Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí của Bộ Tư pháp và hệ thống thi hành án dân sự (ban hành kèm theo Quyết định số 27/QĐ-BTP ngày 5/01/2018), Quy chế quản lý hoạt động đối ngoại của Bộ Tư pháp (ban hành kèm theo Quyết định số 2638/QĐ-BTP ngày 30/12/2020)...
Trong quá trình triển khai công tác thông tin đối ngoại của Bộ, ngành Tư pháp, Bộ Tư pháp đảm bảo quán triệt, thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc bảo đảm an ninh chính trị nội bộ, an ninh quốc gia, bảo vệ bí mật quốc gia, giữ vững kỷ luật phát ngôn và thực hiện chế độ báo cáo trong quản lý cán bộ, công chức, viên chức được cử đi học tập, công tác,… tại nước ngoài. Cho đến thời điểm này, chưa phát hiện trường hợp nào vi phạm các quy định của Đảng và Nhà nước liên quan đến việc đi nước ngoài để thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật, cải cách hành chính, cải cách tư pháp.
Bộ Tư pháp tổ chức tuyên truyền, quảng bá hình ảnh Việt Nam, hình ảnh Bộ, ngành Tư pháp thông qua việc cung cấp các thông tin chính thức về thành tựu trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước, kết quả hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và cải cách tư pháp đến cộng đồng quốc tế và người Việt Nam ở nước ngoài (xem nội dung báo cáo về việc cung cấp thông tin chính thức về Việt Nam tại Mục I.4.1). Các hình thức cung cấp thông tin tiêu biểu bao gồm: kết hợp cung cấp thông tin quảng bá trong quá trình triển khai các hoạt động đối ngoại, hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp; tham gia tích cực, có trách nhiệm tại các tổ chức, diễn đàn quốc tế về pháp luật, góp phần xây dựng hình ảnh, vị thế, uy tín của quốc gia trên trường quốc tế; cập nhật, đăng tải thông tin tại chuyên mục Thông tin đối ngoại của Trang thông tin điện tử hợp tác quốc tế về pháp luật; nghiên cứu, sản xuất các ấn phẩm giới thiệu về Bộ, ngành Tư pháp bằng tiếng Việt và tiếng nước ngoài.
2. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác thông tin đối ngoại của Bộ Tư pháp vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến hiệu quả và phạm vi lan tỏa thông tin. Một trong những khó khăn lớn là năng lực dự báo và phân tích các xu hướng pháp luật quốc tế chưa được đầu tư đúng mức, dẫn đến việc phản ứng và điều chỉnh chính sách còn chậm trễ trước những biến động nhanh chóng trên trường quốc tế. Ngoài ra, việc xây dựng nội dung truyền thông vẫn còn đơn điệu, thiếu sự linh hoạt và phù hợp với từng nhóm đối tượng đặc thù, nhất là trong bối cảnh truyền thông số phát triển đa dạng như hiện nay. Việc chưa tận dụng triệt để các nền tảng công nghệ mới và mạng xã hội cũng làm giảm tính hiệu quả và sức lan tỏa của các thông tin đối ngoại.
Một số hạn chế về nguồn nhân lực cũng là trở ngại lớn đối với công tác thông tin đối ngoại của Bộ. Đội ngũ cán bộ phụ trách công tác này còn thiếu kinh nghiệm, chưa được đào tạo bài bản về truyền thông quốc tế, đặc biệt là kỹ năng xử lý các tình huống phức tạp, kỹ năng sử dụng công nghệ số và quản trị các kênh truyền thông hiện đại. Ngoài ra, sự phối hợp giữa các đơn vị trong Bộ và với các bộ, ngành, cơ quan liên quan chưa thật sự chặt chẽ, dẫn đến tình trạng trùng lặp hoặc thiếu đồng bộ trong việc truyền tải thông tin pháp luật ra bên ngoài.
Mặt khác, sự gia tăng các hiện tượng thông tin sai lệch, tin giả và các chiến dịch xuyên tạc, chống phá từ các thế lực thù địch trên không gian mạng cũng tạo áp lực lớn đối với công tác bảo vệ uy tín pháp luật và hình ảnh quốc gia của Bộ Tư pháp. Việc này đòi hỏi Bộ cần có các biện pháp quản lý và kiểm soát thông tin hiệu quả, đồng thời xây dựng các nội dung truyền thông tích cực, minh bạch để tạo dựng lòng tin với cộng đồng quốc tế và trong nước.
Bên cạnh những khó khăn, công tác thông tin đối ngoại của Bộ Tư pháp cũng có những điểm sáng cần được phát huy. Ví dụ, việc chủ động tham gia các diễn đàn pháp luật quốc tế, ký kết các thỏa thuận hợp tác tư pháp song phương và đa phương đã giúp Bộ tiếp cận các nguồn thông tin mới, nâng cao vị thế pháp luật Việt Nam và thúc đẩy hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tư pháp. Các hoạt động trao đổi chuyên môn, đào tạo, hội thảo do Bộ tổ chức hoặc phối hợp tổ chức cũng góp phần nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác pháp luật và thông tin đối ngoại. Đặc biệt, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong một số hoạt động truyền thông đã từng bước giúp Bộ tăng cường khả năng tiếp cận đối tượng và nâng cao hiệu quả truyền tải thông tin.
Tóm lại, công tác thông tin đối ngoại của Bộ Tư pháp Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần nâng cao nhận thức pháp luật quốc tế và hợp tác tư pháp song phương, đa phương. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của tình hình mới, Bộ cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, nâng cao năng lực dự báo, đổi mới công tác truyền thông và tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, đồng bộ và hiệu quả hơn trong công tác thông tin đối ngoại.
III. DỰ BÁO TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ TÁC ĐỘNG ĐẾN CÔNG TÁC THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI
1. Dự báo tình hình
Trong những năm tới, tình hình thế giới dự kiến sẽ tiếp tục biến động với nhiều xu hướng mới và thách thức toàn cầu nổi bật. Cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc lớn như Mỹ, Trung Quốc, Liên minh châu Âu và Nga sẽ còn gay gắt hơn, kéo theo các cuộc tranh chấp thương mại, công nghệ và an ninh mạng ngày càng phức tạp. Các tổ chức quốc tế và khu vực sẽ tăng cường vai trò, nhưng cũng sẽ đối mặt với sự phân hóa và thay đổi trong cơ cấu quyền lực. Điều này đòi hỏi công tác thông tin đối ngoại phải theo sát và phản ứng kịp thời để không bị bỏ lại phía sau.
Xu hướng chuyển đổi số và phát triển công nghệ thông tin sẽ tiếp tục thay đổi cách thức truyền tải thông tin, tạo ra cơ hội cũng như thách thức trong việc kiểm soát và định hướng dư luận quốc tế. Việc lan truyền thông tin sai lệch, tin giả (fake news) và chiến dịch tuyên truyền không chính thống có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến hình ảnh quốc gia, do đó công tác kiểm soát thông tin, chủ động cung cấp thông tin chính xác là hết sức cần thiết.
Mặt khác, các vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, dịch bệnh, khủng hoảng nhân đạo sẽ tạo ra nhiều cơ hội hợp tác quốc tế nhưng cũng đồng thời đặt ra yêu cầu về sự phối hợp liên ngành, liên quốc gia trong truyền thông và xử lý thông tin. Việt Nam cần chú trọng xây dựng các kịch bản thông tin đối ngoại phù hợp, sẵn sàng ứng phó với các tình huống khẩn cấp, bảo đảm sự ổn định và uy tín của đất nước trên trường quốc tế.
Ngoài ra, sự phát triển của các mạng xã hội toàn cầu và nền tảng truyền thông đa phương tiện đòi hỏi công tác thông tin đối ngoại phải nhanh nhạy hơn trong việc thu thập, xử lý và phát đi các thông điệp chính thống. Việc xây dựng các nội dung truyền thông sáng tạo, hấp dẫn, phù hợp với xu hướng tiếp nhận thông tin của giới trẻ và các cộng đồng quốc tế là yếu tố then chốt để nâng cao hiệu quả truyền thông.
2. Thách thức và cơ hội
Một trong những thách thức lớn nhất của công tác thông tin đối ngoại hiện nay là sự đa dạng và phức tạp của môi trường truyền thông quốc tế. Các kênh truyền thông truyền thống ngày càng bị cạnh tranh bởi các nền tảng kỹ thuật số mới, đồng thời xu hướng lan truyền thông tin không qua kiểm duyệt (user-generated content) làm tăng nguy cơ thông tin sai lệch, khó kiểm soát. Ngoài ra, các chiến dịch thông tin mang tính chính trị, kinh tế nhằm làm ảnh hưởng đến uy tín quốc gia ngày càng tinh vi và khó nhận biết.
Thách thức tiếp theo là hạn chế về nguồn lực và kỹ năng của đội ngũ cán bộ làm công tác thông tin đối ngoại. Việc áp dụng công nghệ mới, khai thác dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo trong phân tích xu hướng và dự báo chưa được đầu tư tương xứng. Sự phối hợp liên ngành, liên bộ, giữa trung ương và địa phương còn thiếu đồng bộ, dẫn đến hiệu quả công tác không cao và phản ứng bị động trước các biến cố quốc tế.
Tuy nhiên, bên cạnh các thách thức cũng có nhiều cơ hội đáng kể. Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển kinh tế mạnh mẽ và tăng cường hội nhập quốc tế, điều này tạo điều kiện thuận lợi để quảng bá hình ảnh đất nước, thu hút đầu tư, du lịch và hợp tác quốc tế. Công nghệ số và truyền thông đa phương tiện mở ra nhiều kênh truyền thông mới với chi phí thấp và phạm vi tiếp cận rộng, giúp tăng cường hiệu quả công tác thông tin đối ngoại nếu được khai thác đúng cách.
Sự phát triển của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài cũng là nguồn lực quan trọng để lan tỏa thông tin tích cực về đất nước, hỗ trợ xây dựng hình ảnh quốc gia trên trường quốc tế. Ngoài ra, các diễn đàn quốc tế, tổ chức đa phương và quan hệ đối tác chiến lược ngày càng được mở rộng sẽ tạo thêm nhiều cơ hội hợp tác trong lĩnh vực truyền thông, trao đổi thông tin và xử lý các vấn đề quốc tế.
3. Một số giải pháp
- Xây dựng cổng thông tin điện tử tích hợp các văn bản pháp luật được dịch chính xác sang tiếng Anh và một số ngôn ngữ phổ biến khác, có công cụ tìm kiếm thông minh, dễ truy cập từ nước ngoài. Cung cấp bản tóm tắt, so sánh luật mới – cũ, thông tin dự thảo luật và tiến trình ban hành để các đối tác quốc tế và người Việt ở nước ngoài dễ theo dõi và tham gia góp ý.
- Hoàn thiện các dịch vụ pháp lý trực tuyến (đăng ký hộ tịch, quốc tịch, chứng thực...) theo hướng thân thiện với người dùng nước ngoài, hỗ trợ nộp hồ sơ từ xa, ký số và tra cứu trạng thái hồ sơ.
- Thiết lập trung tâm hỗ trợ pháp lý trực tuyến, qua email, điện thoại, hoặc chatbot đa ngôn ngữ; công bố rõ đầu mối tiếp nhận, quy trình xử lý và thời gian phản hồi cho từng loại thủ tục.
- Tăng cường hợp tác giữa Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài và các tổ chức luật quốc tế để xử lý hiệu quả các vấn đề bảo hộ công dân, tương trợ tư pháp và công nhận văn bản pháp lý./.
[1] Như: Kết luận số 16-KL/TW ngày 14/02/2012 của Bộ Chính trị về Chiến lược phát triển thông tin đối ngoại giai đoạn 2011 – 2020; Kết luận số 57-KL/TW ngay 15/6/2023 của Bộ Chính trị về tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới; Chỉ thị số 21/CT-TTg ngày 6/8/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thực hiện Chiến lược phát triển thông tin đối ngoại giai đoạn 2011-2020; Quyết định số 368/QĐ-TTg ngày 28/02/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hành động của Chính phủ về thông tin đối ngoại giai đoạn 2013 – 2020; Nghị quyết số 47/NQ-CP ngày 15/4/2024 của Chính phủ về Chương trình hành động của Chính phủ đến năm 2030 thực hiện Kết luận số 57-KL/TW ngày 15/6/2023 của Bộ Chính trị về tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới...