NHŨNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHÓM DỄ BỊ TỔN THƯƠNG
Sign In

NHŨNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHÓM DỄ BỊ TỔN THƯƠNG

NHŨNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHÓM DỄ BỊ TỔN THƯƠNG

NHŨNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHÓM DỄ BỊ TỔN THƯƠNG
Nhóm người dễ bị tổn thương là những người có điều kiện đặc biệt, khác với người có điều kiện bình thường. Hiện nay, trên thế giới không có định nghĩa thống nhất về nhóm người dễ bị tổn thương. Cụm từ “nhóm người dễ bị tổn thương” (vulnerable groups) là một khái niệm mở với cách gọi khác nhau như: nhóm yếu thế (weaker groups), nhóm thiệt thòi (disadvantaged groups), nhóm thiểu số (minority groups) … Tuy nhiên, thuật ngữ phổ biến và hay được dùng là “nhóm người dễ bị tổn thương”. Nhìn chung, nhóm người dễ bị tổn thương là những nhóm, cộng đồng người có vị thế thấp hơn, từ đó khiến họ cần được chú ý bảo vệ đặc biệt so với những nhóm, cộng đồng người khác.[1] Nhóm người dễ bị tổn thương có thể bao gồm: người khuyết tật; người dân tộc thiểu số; nạn nhân bạo lực đình. Trong phạm vi bài nghiên cứu này, những vấn đề chung về người khuyết tật sẽ được tập trung phân tích, để từ đó những chủ thể làm công tác pháp luật, nói chung, trợ giúp pháp lý nói riêng căn cứ vào để đưa ra các quy định, hình thức bảo vệ quyền của họ một cách phù hợp.

1. Khái niệm người khuyết tật

Theo Báo cáo toàn cầu về công bằng y tế cho người khuyết tật (Global report on health equity for person with disabilities, năm 2022) của WHO, khuyết tật là một phần của con người và không thể thiếu trong trải nghiệm của con người. Nó là kết quả của sự tương tác giữa tình trạng sức khoẻ và/hoặc sự khiếm khuyết mà một người trải qua, chẳng hạn như mất trí nhớ, mù lòa hoặc tổn thương tủy sống và một loạt các yếu tố khách quan/bối cảnh/ngữ cảnh liên quan đến môi trường khác nhau và các yếu tố cá nhân như quan điểm xã hội, khả năng tiếp cận cơ sở hạ tầng, chính sách phân biệt đối xử, tuổi tác hoặc giới tính.
Có nhiều khái niệm khác nhau về người khuyết tật. Điều 1 Công ước về quyền của người khuyết tật năm 2006, thì người khuyết tật (NKT) bao gồm những người có khiếm khuyết lâu dài về thể chất, tâm thần, trí tuệ hoặc giác quan mà khi tương tác với những rào cản khác nhau có thể phương hại đến sự tham gia hữu hiệu và trọn vẹn của họ vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người khác. Luật người khuyết tật Việt Nam năm 2010 đưa ra khái niệm về người khuyết tật, cụ thể như sau: người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn[2].
          Sự giao thoa giữa khuyết tật với các yếu tố như giới tính, tuổi tác, giới, tôn giáo, chủng tộc, dân tộc và hoàn cảnh kinh tế cũng ảnh hưởng đến trải nghiệm và sự tham gia của người khuyết tật. Mặc dù khuyết tật thường tương quan với những      bất lợi, nhưng không phải người khuyết tật nào cũng đều bị thiệt thòi như nhau. Ví dụ, người khuyết tật là phụ nữ, trẻ em hoặc người cao tuổi thường chịu những bất lợi liên quan đến giới tính, tuổi tác, thể hiện ở sự phân biệt đối xử, hạn chế tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe hoặc các hình thức bạo lực. Người khuyết tật cư trú ở các vùng nông thôn hoặc vùng sâu vùng xa thường có nhiều khó khăn, bất lợi hơn trong việc tiếp cận các dịch vụ và hỗ trợ so với người khuyết tật sống ở khu vực đô thị.
2. Số lượng người khuyết tật và tình trạng kỳ thị người khuyết tật
          2.1. Số lượng người khuyết tật
          Tính đến năm 2021, trên thế giới có khoảng 1,3 tỷ người khuyết tật (khoảng 16% dân số). Con số này đã tăng đáng kể trong thập kỷ qua do những biến đổi về nhân khẩu học và dịch tễ học như dân số tăng và sự gia tăng số lượng người mắc bệnh không lây nhiễm hoặc sự già hóa dân số[3].
          Tại Việt Nam, tính đến năm 2023, cả nước có khoảng 7 triệu người khuyết tật, chiếm hơn 7,06% dân số[4], trong đó NKT nặng và đặc biệt nặng là 1,6 triệu người (chiếm 28,9%); NKT thuộc hộ nghèo (10%); 342.329 gia đình, cá nhân nhận chăm sóc đối tượng bảo trợ xã hội tại cộng đồng được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng[5]. Tính đến cuối năm 2023, có trên 3 triệu NKT được cấp giấy chứng nhận khuyết tật[6].

2.2. Kỳ thị và phân biệt đối xử NKT

Người khuyết tật cũng có những nhu cầu và quyền lợi giống như những người không khuyết tật, được thể hiện ở các quyền thuộc lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa. Mặc dù vậy, không ít người khuyết tật phải chịu nhiều hành vi vi phạm quyền của họ, bao gồm các hành vi bạo lực, lạm dụng, định kiến và thiếu tôn trọng, cùng với các hình thức phân biệt đối xử khác dựa trên tuổi tác và giới tính. Người khuyết tật cũng phải đối mặt với các rào cản, kỳ thị và phân biệt đối xử khi tiếp cận các chính sách, dịch vụ y tế liên quan đến sức khỏe.
Kỳ thị người khuyết tật là thái độ khinh thường hoặc thiếu tôn trọng người khuyết tật vì lý do khuyết tật của người đó. Kỳ thị người khuyết tật là hành vi bị pháp luật nghiêm cấm.
 Phân biệt đối xử người khuyết tật là hành vi xa lánh, từ chối, ngược đãi, phỉ báng, có thành kiến hoặc hạn chế quyền của người khuyết tật vì lý do khuyết tật của người đó.
Dưới đây là một số biểu hiện phổ biến của phân biệt đối xử[7]:
  • Từ ngữ phân biệt: sử dụng ngôn ngữ hoặc từ ngữ phân biệt, xúc phạm đối với một người khác dựa trên các đặc điểm cá nhân của họ. Ví dụ: “người tàn tật”, “người bỏ đi”, “què”, “mù”…
  • Từ chối tiếp cận: từ chối cung cấp dịch vụ cơ hội việc làm, giáo dục, nhà ở hoặc các quyền lợi khác cho một cá nhân hoặc một nhóm người dựa trên đặc điểm cá nhân của họ. Ví dụ từ chối tuyển dụng, bổ nhiệm một người vì lý do là người khuyết tật.
  • Giới hạn tiếp cận: thiết lập các chính sách quy định hoặc hành động có chủ đích để hạn chế hoặc ngăn chặn quyền lợi cơ hội và tiếp cận của một nhóm người so với những người khác. Ví dụ thiết lập quy định tuyển dụng có tính chất phân biệt hoặc hạn chế quyền hưởng lợi xã hội vì là người khuyết tật.
  • Xử lý không công bằng: đối xử không công bằng, không công lý hoặc bất công đối với một nhóm người dựa trên đặc điểm của họ. Ví dụ trả lương thấp hơn trong cùng một công việc, không khen thưởng hoặc đối xử không công bằng trong quá trình xét duyệt vay vốn hay phân chia các nguồn lực không công bằng vì họ là người khuyết tật.
  • Bắt nạt và kỳ thị: hành vi bắt nạt lăng mạ đe dọa hoặc phân biệt đối xử  đối với một người hoặc nhóm người dựa trên các đặc điểm cá nhân của họ.
Phụ nữ và trẻ em gái khuyết tật đang phải đối mặt với nhiều rào cản. Nghiên cứu cho thấy, phụ nữ khuyết tật cũng bị bạo lực thể chất và tình dục ở mức độ cao hơn phụ nữ không khuyết tật, với tỉ lệ tương ứng là 33% so với 25,3%[8].
 
 
 
Text Box: Kỳ thị và phân biệt đối xử với   người khuyết tật  Viện Nghiên cứu Phát triển Xã hội đã công bố một điều tra xã hội trên quy mô lớn về tình trạng của NKT tại bốn địa phương có tỷ lệ NKT cao là Thái Bình, Ðà Nẵng, Quảng Nam, Ðồng Nai.   Qua điều tra 8.000 hộ gia đình được chọn ngẫu nhiên ở 49 phường, xã của bốn tỉnh, cho thấy sự thật đáng báo động về sự kỳ thị và thái độ phân biệt đối xử đối với NKT 98% số người được hỏi cho rằng, NKT là những người "đáng thương"; 40% số người cho rằng, NKT có thói quen ỷ lại vào người khác; 66% cho rằng NKT không thể có cuộc sống "bình thường"; 76% cho rằng nên gửi NKT vào các Trung tâm bảo trợ xã hội. NKT phải đối mặt với sự kỳ thị ở nhiều hoàn cảnh khác nhau: gia đình, cộng đồng, trường học, bệnh viện, nơi làm việc...   (Nguồn: https://nhandan.vn/chong-ky-thi-va-phan-biet-doi-xu-voi-nguoi-khuyet-tat-post602237.html)
Text Box: “Hùng nói rằng những năm đầu đời, cậu không ý thức được khiếm khuyết của mình. Tới lớp 2, những ánh mắt tò mò, trêu ghẹo ác ý mới làm phiền cậu. Nhiều lần cậu tự hỏi tại sao điều tồi tệ lại xảy ra với mình? Tại sao mình lại trở nên khác biệt? Tại sao mình không thể như những đứa trẻ bình thường?”    (Nguồn: https://tienphong.vn/vdv-khuyet-tat-cao-ngoc-hung-bien-dieu-khong-the-thanh-co-the-post1554131.tpo)
 
 
 

3. Mức độ khuyết tật

Tại Việt Nam, người khuyết tật được phân định thành các mức độ khuyết tật khác nhau (theo quy định tại Điều 3 Nghị định số 28/2012/NĐ-CP ngày 10/4/2012 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật người khuyết tật), theo đó, mức độ khuyết tật gồm:
1. Người khuyết tật đặc biệt nặng;
 2. Người khuyết tật nặng;
 3. Người khuyết tật nhẹ.
Cụ thể như sau:
 
 
 
Text Box: Mức trợ cấp xã hội là hàng tháng của người khuyết tật theo   Nghị định số 76/2024/NĐ-CP là:  - 1.000.000 đồng đối với người khuyết tật đặc biệt nặng. Ngoài ra, người nhận nuôi dưỡng, chăm sóc NKT đặc biệt nặng sẽ được hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng tuỳ từng trường hợp.  - 1.250.000 đồng đối với trẻ em khuyết tật đặc biệt nặng hoặc người cao tuổi là người khuyết tật đặc biệt nặng;  - 750.000 đồng đối với người khuyết tật nặng;  - 1.000.000 đồng đối với trẻ em khuyết tật nặng hoặc người cao tuổi là người khuyết tật nặng.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
4. Dạng tật
Người khuyết tật được phân định thành các dạng khuyết tật khác nhau (theo quy định tại Điều 2 Nghị định số 28/2012/NĐ-CP ngày 10/4/2012 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật người khuyết tật), gồm: 1. Khuyết tật vận động; 2. Khuyết tật nghe, nói; 3. Khuyết tật nhìn; 4. Khuyết tật trí tuệ; 5. Khuyết tật thần kinh, tâm thần; 6. Khuyết tật khác. Cụ thể như sau:

 
* Đặc điểm, dấu hiệu của từng dạng tật:
Khuyết tật nhìn
Đặc điểm: Đây là những người có tật về mắt làm cho họ không nhìn thấy hoặc nhìn không rõ ràng. NKT nhìn thường có hai giác quan rất phát triển đó là thính giác và xúc giác. Đối với người KT nhìn thì công cụ hỗ trợ di chuyển là chiếc gậy trắng hoặc có thể là gậy thông thường, chữ nổi Braille, các dụng cụ hỗ trợ thông minh, lối đi thuận tiện và dễ nhận biết,.. Những người nhìn kém thì môi trường cần thiết với họ là đảm bảo đủ ánh sáng, dùng những màu tương phản, hợp lý trong sinh hoạt và các hoạt động khác, cung cấp thiết bị phóng đại hình ảnh.
 
 
Dấu hiệu: NKT nhìn có một trong các dấu hiệu sau[9]: mù một hoặc hai mắt; thiếu một hoặc hai mắt; khó khăn khi nhìn hoặc không nhìn thấy các đồ vật; khó khăn khi phân biệt màu sắc; rung, giật nhãn thị, đục nhân mắt hoặc sẹo loét giác mạc; bị dị tật, biến dạng ở vùng mắt; có kết luận của cơ sở y tế cấp tỉnh trở lên về suy giảm chức năng nhìn.
 
Khuyết tật nghe, nói
Đặc điểm: người khuyết tật nghe, nói là người có khó khăn đáng kể về nói và nghe, dẫn đến hạn chế về đọc, viết, từ đó dẫn đến những hạn chế trong sinh hoạt, làm việc, học tập, hoà nhập cộng đồng. Để giúp quá trình giao tiếp, tiếp nhận thông tin từ cộng đồng trở nên dễ dàng hơn, họ cần dùng phương tiện trợ giúp (máy trợ thính), ngôn ngữ ký      hiệu trong giao tiếp tổng hợp. Tuy nhiên, việc sử dụng ngôn ngữ ký      hiệu cũng chỉ giúp đỡ họ một phần nào, bởi lẽ không phải ai cũng biết ngôn ngữ ký      hiệu và chức năng diễn đạt của ngôn ngữ ký      hiệu vẫn còn nhiều hạn chế, không thể phản ánh được đầy đủ tính chất, mức độ các hoạt động của cuộc sống như tiếng nói hay chữ viết. Điều này khiến quá trình hướng dẫn người khuyết tật nghe, nói sử dụng chữ viết thông thường gặp nhiều khó khăn.
Dấu hiệu: không phát ra âm thanh, lời nói; phát ra âm thanh, lời nói nhưng không rõ tiếng, rõ câu; không nghe được; khiếm khuyết hoặc dị dạng cơ quan phát âm ảnh hưởng đến việc phát âm; khiếm khuyết hoặc dị dạng vành tai hoặc ống tai ngoài ảnh hưởng đến nghe; có kết luận của cơ sở y tế cấp tỉnh trở lên về suy giảm chức năng nghe, nói.
 
Khuyết tật trí tuệ
Đặc điểm[10]:
– Chức năng trí tuệ dưới mức trung bình (chỉ số thông minh đạt gần 70 hoặc thấp hơn 70 trên một lần thực hiện trắc nghiệm cá nhân);
– Bị thiếu hụt hoặc khiếm khuyết ít nhất là hai trong số những hành vi thích ứng sau: giao tiếp, tự chăm sóc, sống tại gia đình, kỹ năng xã hội/ cá nhân, sử dụng các tiện ích trong cộng đồng, tự định hướng, kỹ năng học đường, làm việc, giải trí, sức khỏe và an toàn;
– Tật xuất hiện trước 18 tuổi.
Dấu hiệu [11]:
  • Khó khăn trong việc nhận biết người thân trong gia đình hoặc khó khăn trong giao tiếp với những người xung quanh so với người cùng lứa tuổi.
  • Chậm chạp, ngờ nghệch hoặc không thể làm được một việc đơn giản (so với tuổi) dù đã được hướng dẫn.
  • Khó khăn trong việc đọc, viết, tính toán và kỹ năng học tập khác so với người cùng tuổi do chậm phát triển trí tuệ.
  • Hoặc có kết luận cơ sở y tế cấp tỉnh trở lên về chậm phát triển trí tuệ.
Khuyết tật thần kinh, tâm thần
Đặc điểm: Những người bị khuyết tật thần kinh, tâm thần có thể là những người bị mất, hạn chế năng lực hành vi dân  sự. Phần lớn trường hợp họ không thể nhận thức được hành vi của mình và cũng không kiểm soát được nó. Tuy nhiên, trong một số thời điểm, NKT bị mất năng lực hành vi dân sự một phần vẫn tỉnh táo và nhận thức được hành vi của mình.
 
 
 
Dấu hiệu:
  • Đối với trẻ dưới 6 tuổi[12]: dạng tật tâm thần được xác định khi trẻ có một trong các biểu hiện co giật thường xuyên (có thể do động kinh hoặc không phải động kinh); các hành vi chống đối (không vâng lời, đập phá đồ đạc, chạy ra khỏi nhà, tấn công người khác, móc miệng cho nôn ra…); các hành vi tự hủy hoại: tự cào cấu bản thân, tự đập đầu, bứt tóc, cắn tay…; các hành vi tự kích thích: đưa tay vào miệng, móc lỗ tai, la hét lớn tiếng, gật gù, lắc lư thân thể, ….; trẻ hay cáu gắt hoặc đã có kết luận của cơ sở y tế cấp tỉnh trở lên về bệnh thần kinh, tâm thần, tâm thần phân liệt.
  • Đối với người đủ 6 tuổi trở lên, Hội đồng xác định dạng tật thần kinh, tâm thần khi có một trong những biểu hiện: thường ngồi một mình, chơi một mình, không bao giờ nói chuyện hoặc quan tâm tới bất kỳ ai; có những hành vi bất thường như kích động, cáu giận hoặc sợ hãi vô cớ gây ảnh hưởng đến sức khỏe, sự an toàn của bản thân và người khác; bất ngờ dừng mọi hoạt động, mắt mở trừng trừng không chớp, co giật chân tay, môi, mặt hoặc bất thình lình ngã xuống, co giật, sùi bọt mép, gọi hỏi không biết; bị mất trí nhớ, bỏ nhà đi lang thang; có kết luận của cơ sở y tế cấp tỉnh trở lên về suy giảm thần kinh, tâm thần, tâm thần phân liệt.
 
Người khuyết tật vận động
Đặc điểm: NTK vận động là những người có cơ quan vận động bị tổn thương. Biểu hiện dễ thấy là khó khăn trong đi, đứng, nằm, ngồi, cầm, nắm đồ vật…. Họ gặp nhiều khó khăn trong sinh hoạt cá nhân, vui chơi, học tập và lao động. Do đó, NKT vận động cần được sự hỗ trợ về phương tiện đi lại và đặc biệt là không gian cần thiết, thuận tiện, phù hợp để di chuyển.
Dấu hiệu:
  • Trẻ nhỏ có thể không bú được vì không thực hiện được động tác mút; khi bế đầu trẻ ưỡn ra sau, lưỡi thè ra khi mẹ đặt núm vú vào miệng, thường quấy khóc, không chịu chơi. Trẻ ít hoặc không sử dụng tay, ít hoặc không di chuyển từ chỗ này sang chỗ khác, ít chịu vận động, không chịu chơi, hay ngồi một mình, không tự chăm sóc mình được. Đặc biệt đối với trẻ bị co cứng các khớp, chi hoặc toàn thân; trẻ bị mềm nhẽo một hay nhiều nhóm cơ hoặc toàn thân, trẻ bị trật khớp háng; trẻ có bàn chân nghịch (một hay hai chân)…
  • Người lớn thường ít vận động, ít hoặc không sử dụng tay chân, di chuyển khó khăn, đau khớp, không tự ăn, uống, tắm, rửa, đại tiểu tiện, vệ sinh cá nhân; không tham gia được những công việc trong sinh hoạt hàng ngày của gia đình, cộng đồng và xã hội.
Khuyết tật khác
Các dạng khuyết tật khác như: người rối loạn hành vi cảm xúc, người mắc hội chứng tự kỷ, người bị rối loạn ngôn ngữ…
Dấu hiệu:
  • Có kết luận của cơ sở y tế cấp tỉnh trở lên về bệnh tê bì, mất cảm giác ở tay, chân hoặc sự bất thường của cơ thể làm giảm khả năng thực hiện các hoạt động; lao động; đọc, viết, tính toán và kỹ năng học tập khác; sinh hoạt hoặc giao tiếp;
  • Có kết luận của cơ sở y tế cấp tỉnh trở lên về bệnh hô hấp hoặc do bệnh tim mạch hoặc do rối loạn đại, tiểu tiện mặc dù đã được điều trị liên tục trên 3 tháng, làm giảm khả năng thực hiện các hoạt động; lao động; đọc, viết, tính toán và kỹ năng học tập khác; sinh hoạt hoặc giao tiếp;
  • Có kết luận của cơ sở y tế cấp tỉnh trở lên về rối loạn phổ tự kỷ hoặc các loại bệnh hiếm.
 
 
 
[1] Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội (2010), Luật quốc tế về quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.23.
[2] Khoản 1 Điều 2 Luật người khuyết tật Việt Nam năm 2011.
[3] Theo Báo cáo toàn cầu về công bằng y tế cho người khuyết tật (Global report on health equity for person with disabilities, năm 2022) của WHO
[8] Báo cáo tóm tắt tổng quan về bình đẳng gới ở Việt Nam 2021.
[9] Căn cứ Mẫu số 02,03 ban hành kèm theo Thông tư 01/2019/TT-BLĐTBXH
[10] Theo tiêu chí chẩn đoán chậm phát triển trí tuệ theo bảng phân loại DSM-IV (DSM-IV, 1994)
[11] Theo Mẫu số 02,03 ban hành kèm theo Thông tư 01/2019/TT-BLĐTBXH
[12] Hội đồng xác định cấp xã xác định dạng khuyết tật thần kinh, tâm thần căn cứ vào Mẫu số 02,03 ban hành kèm theo Thông tư 01/2019/TT-BLĐTXH.