KỸ NĂNG TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CHO NHÓM DỄ BỊ TỔN THƯƠNG
1. Kỹ năng tiếp xúc ban đầu với người được TGPL
Dù có thời gian chuẩn bị trước hay không thì người thực hiện TGPL vẫn cần có những chuẩn bị nội dung nhất định cho buổi gặp gỡ đầu tiên với người được TGPL:
|
Kiểm tra, đánh giá yêu cầu
|
- Người thực hiện TGPL cần có thái độ, tác phong, cử chỉ, lời nói lịch sự, nhã nhặn, bình tĩnh, khiêm tốn, đúng mực ngay từ khi tiếp xúc ban đầu với người được TGPL, cũng như trong quá trình thực hiện TGPL.
- Quy trình trao đổi và giới hạn về mặt thời gian: Giúp định hướng buổi làm việc không đi vào các vấn đề ngoài lề và không kéo dài quá lâu.
- Nội dung chủ yếu của vụ việc và phạm vi yêu cầu của người được TGPL.
- Cung cấp cho người được TGPL quyền và nghĩa vụ của người thực hiện TGPL và người được TGPL.
- Cung cấp cho người được TGPL các danh mục văn bản pháp lý điều chỉnh về vụ việc đang được thụ lý, giải quyết để người được TGPL có thể tham khảo.
- Cung cấp cho người được TGPL sơ bộ các phương án giải quyết vụ việc để người được TGPL xác định phạm vi yêu cầu nếu vụ việc có nhiều phương án giải quyết.
- Thống nhất cách thức làm việc và phương thức liên lạc cho các lần tiếp theo và hẹn thời gian làm việc lần sau.
- Đảm bảo về địa điểm gặp gỡ, tác phong trang phục của người được TGPL (nhất là đối với Trợ giúp viên pháp lý).
- Không được cam kết chắc chắn kết quả cuối cùng của vụ việc.
a. Tiếp xúc qua điện thoại hoặc thư điện tử
- Người thực hiện TGPL phải giới thiệu tên mình, nơi công tác của mình dù người dân đã biết họ đang gọi đến đâu.
- Cần hỏi những thông tin về người đang nói chuyện với mình, xem họ có phải là người yêu cầu và người có liên quan đến nội dung công việc yêu cầu hay không. (
Có những trường hợp, người đang nói chuyện với người thực hiện TGPL không phải là người yêu cầu và cũng không có liên quan gì đến công việc. Ví dụ, một yêu cầu tư vấn về hợp đồng lao động, nhưng người gọi điện đến cho Trung tâm TGPL nhà nước không phải là người lao động, mà là vợ hoặc con của người đó để hỏi hộ thông tin). Do vậy người thực hiện TGPL phải hỏi rất rõ về tư cách người đang nói chuyện với mình, thông tin tóm tắt nội dung công việc và người yêu cầu mình.
- Giải thích quyền được TGPL.
- Đặt các câu hỏi để tìm hiểu họ có đáp ứng điều kiện được TGPL miễn phi
- Qua câu hỏi sơ bộ, nếu có thể xác định họ thuộc diện được TGPL thì người thực hiện TGPL ước lượng thời gian tìm hiểu các văn bản pháp luật liên quan để đưa ra một cuộc hẹn trực tiếp với người yêu cầu, cũng như hỏi số điện thoại và các phương thức liên lạc với họ..
b. Tiếp xúc trực tiếp
- Tiếp xúc trực tiếp với người được TGPL trong trường hợp đã tiếp xúc trước qua điện thoại, email với người được TGPL
|
- Chuẩn bị cho buổi tiếp người được TGPL:
|
|
Hệ thống lại nội dung công việc, những yêu cầu của người được TGPL thông qua thông tin mà được cung cấp, từ đó dự kiến những tình huống có thể phát sinh, những phương án để tư vấn cho người được TGPL lựa chọn.
Cần chuẩn bị một số câu hỏi dự kiến hỏi người được TGPL để làm rõ vụ việc.
Cần tìm những văn bản pháp luật điều chỉnh nội dung vụ việc, chuẩn bị để đưa một danh mục cho người được TGPL tìm hiểu, nếu cần thiết có thể cung cấp luôn văn bản cho người được TGPL. Tuy đây không phải là nghĩa vụ bắt buộc, nhưng cung cấp cho người được TGPL văn bản để họ hiểu biết hơn thì sẽ dễ dàng cho người thực hiện TGPL hơn khi tư vấn các vấn đề liên quan.
Một số chuẩn bị khác như chuẩn bị về địa điểm giao tiếp, chuẩn bị sổ sách ghi chép, chuẩn bị card để đưa cho người được TGPL…
|
|
Trước tiên, người thực hiện TGPL chào hỏi giới thiệu. Có thể đưa ra cho người được TGPL chương trình của buổi giao tiếp, quy trình và phương thức trao đổi, thời gian có thể tiếp. Những thống nhất ngay từ đầu này sẽ giúp cho buổi là việc đi đúng hướng, người được TGPL sẽ lựa chọn những thông tin cần cung cấp và trao đổi, không quá sa đà vào những nội dung ngoài lề.
Thứ hai, giải thích về quyền được TGPL và yêu cầu cung cấp giấy tờ chứng minh người được TGPL.
Thứ ba, đề nghị người yêu cầu TGPL trình bày tổng quan nội dung vụ việc.
|
- Tiếp xúc trực tiếp với người được TGPL trong trường hợp chưa tiếp xúc trước qua điện thoại, email với người được TGPL
|
Trước tiên, người thực hiện TGPL chào hỏi giới thiệu về mình. Có thể đưa ra cho người được TGPL chương trình của buổi giao tiếp, quy trình và phương thức trao đổi, thời gian có thể tiếp. Việc thống nhất ngay từ đầu này sẽ giúp cho buổi làm việc đi đúng hướng, người được TGPL sẽ lựa chọn những thông tin cần cung cấp và trao đổi, không quá sa đà vào những nội dung ngoài lề.
Thứ hai, giải thích về quyền được TGPL và yêu cầu cung cấp giấy tờ chứng minh người được TGPL.
Thứ ba, đề nghị người yêu cầu TGPL trình bày tổng quan nội dung vụ việc.
|
Một số lưu ý:
- Trong những trường hợp nói trên, người thực hiện TGPL không có điều kiện chuẩn bị trước về mặt chuyên môn, tất cả phụ thuộc vào khả năng và kiến thức có sẵn của mỗi người thực hiện TGPL.
- Qua những tiếp xúc ban đầu, người thực hiện TGPL phải tạo cho người được TGPL ấn tượng về tác phong chững chạc, lịch sự, thân thiết, cở mở nhiệt tình và khả năng kiến thức vững vàng.
- Do chưa có bất kì thông tin gì nên người thực hiện TGPL không biết vấn đề nào trong những vấn đề người được TGPL trình bày là chủ yếu. Đây là lúc người thực hiện TGPL cần vận dụng kinh nghiệm của mình để phán đoán loại việc người được TGPL yêu cầu, từ đó đưa ra những câu hỏi dẫn dắt sự trình bày của người được TGPL ngắn gọn, súc tích và đúng trọng tâm.
2. Kỹ năng thực hiện vụ việc
2.1. Kỹ năng tư vấn pháp luật
Người thực hiện TGPL tư vấn cho người được TGPL bằng việc hướng dẫn, đưa ra ý kiến, giúp soạn thảo văn bản liên quan đến tranh chấp, khiếu nại, vướng mắc pháp luật; hướng dẫn giúp các bên hoà giải, thương lượng, thống nhất hướng giải quyết vụ việc
[1].
Hoạt động tư vấn pháp luật gồm các bước sau:
- Thiết lập giao tiếp với người được TGPL, tạo tâm lý tích cực cho họ.
- Nghe người được TGPL trình bày vấn đề và yêu cầu của họ. Xác định vấn đề pháp lý.
- Nghiên cứu, thu thập và đối chiếu các văn bản pháp luật liên quan đến vấn đề.
- Đánh giá các giải pháp (ưu và nhược điểm).
- Đưa ra các giải pháp và hướng dẫn đối với người được TGPL.
Các kỹ năng tư vấn pháp luật:
2.1.1. Một số kỹ năng chung
a. Kỹ năng xây dựng mối quan hệ, niềm tin với người được TGPL.
Cần tạo ra mối quan hệ tốt đẹp giữa người thực hiện TGPL và người được TGPL, tôn trọng lợi ích cộng đồng, sự tuân thủ pháp luật. Kỹ năng xây dựng mối quan hệ với người được TGPL gồm:
- Kỹ năng thể hiện sự tôn trọng.
- Kỹ năng thể hiện sự trung thực.
- Kỹ năng thể hiện sự tận tâm.
b. Kỹ năng nghiên cứu, thu thập thông tin trong tư vấn pháp luật
Thu thập thông tin để hiểu bản chất sự việc; hiểu mong muốn, yêu cầu của người được TGPL, hiểu cơ sở để giải quyết vấn đề.
Các kỹ năng thu thập thông tin trong tư vấn pháp luật gồm:
- Kỹ năng đặt câu hỏi: xác định đầy đủ nội dung hỏi; biết sử dụng các loại câu hỏi hợp lý; biết sử dụng ngôn ngữ và biểu cảm phi ngôn ngữ khi đặt câu hỏi.
- Kỹ năng lắng nghe: biết thu thập, phân tích, đánh giá thông tin; biết ghi chép lại thông tin; biết quan sát tinh tế để hiểu tâm lý khách hàng; biết phản hồi bằng hành vi và ngôn ngữ.
- Kỹ năng huy động các nguồn thông tin, tài liệu có liên quan đến vấn đề tư vấn: biết kiểm tra, xem xét các tài liệu có liên quan đến sự việc; biết tìm kiếm các văn bản pháp luật tương ứng làm cơ sở giải quyết vấn đề; biết tham khảo thông tin hồ trợ.
c. Đánh giá các giải pháp
Người thực hiện TGPL cần có đánh giá ưu điểm và nhược điểm của từng giải pháp để người được TGPL lựa chọn giải pháp tối ưu hoặc phòng ngừa, lường được các rủi ro có thể xảy ra khi thực hiện giải pháp được lựa chọn.
Sau khi đánh giá được ưu điểm và nhược điểm của từng giải pháp, người thực hiện TGPL sẽ tư vấn cho người được TGPL giải pháp pháp lý phù hợp nhất theo quan điểm của người thực hiện TGPL.
Khi lựa chọn giải pháp, người thực hiện TGPL cũng cần phân tích cho người được TGPL về thực trạng pháp lý của vấn đề mà người được TGPL cần giải quyết, vị trí của người được TGPL trong mối quan hệ pháp lý đó…
d. Kỹ năng cung cấp giải pháp trong tư vấn pháp luật
Giúp người được TGPL hiểu được các quy định của pháp luật đối với vấn đề, giải đáp được những vướng mắc về mặt pháp lý của vấn đề và tự quyết định được cách hành động tốt nhất. Các kỹ năng cung cấp giải pháp trong tư vấn pháp luật:
- Kỹ năng mô tả, phân tích và đánh giá thông tin: biết mô tả toàn bộ sự việc; biết nêu các cơ sở pháp lý được sử dụng để giải quyết sự việc; biết trình bày, phân tích các giải pháp; biết đưa ra lời khuyên và ý kiến cho khách hàng; biết hướng dẫn thực hiện giải pháp.
- Kỹ năng sử dụng ngôn ngữ để truyền đạt thông tin: biết sử dụng ngôn ngữ phù hợp với trình độ, đặc điểm của mỗi nhóm người được TGPL; biết sử dụng ngôn ngữ chính xác; biết sử dụng ngôn ngữ văn học; biết sử dụng ngôn ngữ khoa học.
- Kỹ năng sử dụng biểu cảm phi ngôn ngữ khi trình bày vấn đề. Bao gồm: biết sử dụng động tác biểu đạt thông tin; biết thể hiện ánh mắt; biết thể hiện tư thế, điệu bộ cử chỉ phù hợp với nội dung thông tin.
Văn bản tư vấn cần bảo đảm các nội dung chính sau:
- Tóm tung chính saêu cầu, câu hỏi của người được TGPL.
- Danh mng chính saêu cầu, câu hỏi của người được TGPL biết thể hiện ánh mắt; biết thể hiện tư thế, điệu bộ cử chỉ phù hợp với nội dung thông tin học; biết sử dụng ngôn ngữ khoa họcng; biết hướng dẫn thực hiện giải phápkhác chưa được liệt kê để có thể tìm kiếm thêm các giải pháp pháp lý khác.
- Phân tích hinh saêu cầu, câu hỏi của người được TGPL biết thể hiện ánh mắt.
2.1.2. Một số kỹ năng tư vấn pháp luật cho nhóm dễ bị tổn thương
a. Một số kỹ năng tư vấn cho NKT
- Nắm vững các qui định của pháp luật, các chính sách dành cho NKT.
- Có kỹ năng giao tiếp với từng dạng tật của khách hàng (như đã nêu ở trên).
- Phải chủ động tìm đến NKT: người thực hiện TGPL đến tận nơi ở (gia đình, trung tâm bảo trợ...) của người khuyết tật (đối với người khuyết tật nặng không thể đi lại) để giúp đỡ họ hoàn thành hồ sơ, tìm hiểu, thực hiện tư vấn.
- Cộng tác với các thành viên của tổ chức, hội, nhóm NKT.
- Có mối liên hệ với các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội trong việc TGPL miễn phí cho NKT
b. Một số kỹ năng tư vấn pháp luật cho người dân tộc thiểu số
- Nắm bắt được tâm lý của người dân tộc thiểu số, đặc biệt là phụ nữ: vừa là phụ nữ, vừa là người dân tộc thiểu số.
- Nội dung tư vấn phải đơn giản, dễ hiểu, dễ nhớ; có trọng tâm, trọng điểm; Gắn liền với cuộc sống sinh hoạt hằng ngày; những phong tục tập quán;
- Chú trọng sử dụng tiếng dân tộc thiểu số trong trường hợp người dân tộc thiểu số không sử dụng được tiếng phổ thông.
c. Một số kỹ năng tư vấn pháp luật cho nạn nhân bạo lực gia đình
- Phân nhóm các nhóm đối tượng bị bạo lực để hiểu tâm lý, nhận thức, đặc điểm của họ để có các tiếp cận phù hợp
- Nhận diện rõ những rào cản, tâm lý tác động đến nạn nhân bị bạo lực giới
- Tìm hiểu được lý do vì sao nạn nhân thường vẫn chấp nhận bạo lực
- Nhận diện, phân nhóm nạn nhân bị bạo lực gia đình theo độ tuổi để có các giải pháp phù hợp: Tuổi chưa thành niên; tuổi thành niên; người cao tuổi.
2.2. Kỹ năng tham gia tố tụng
Lưu ý: áp dụng đầy đủ các yêu cầu cơ bản khi thực hiện TGPL cho nhóm dễ bị tổn thương như: nắm vững các quyền con người, thấu hiểu và cảm thông, lấy người được TGPL làm trung tâm, bảo đảm bí mật và an toàn thông tin, thể hiện hình ảnh người thực hiện TGPL tận tâm vì công việc.
Kỹ năng: Tùy theo từng lĩnh vực cụ thể (hình sự, dân sự, hành chính,…) trong từng vụ việc cụ thể và trong mỗi giai đoạn của vụ án tố tụng khác nhau thì kỹ năng của người thực hiện TGPL cũng có những điểm khác nhau.
Chẳng hạn trong vụ án hình sự thì cần các kỹ năng đặc thù trong từng giai đoạn tố tụng khác nhau, giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Đối với mỗi loại tội danh thì lại có thêm các kỹ năng đặc thù.
2.2.1. Một số kỹ năng cơ bản người thực hiện TGPL cần có
- Kỹ năng nắm bắt tâm lý người bị buộc tội hoặc bị hại, đương sự trong mỗi vụ án hình sự, dân sự, hành chính.
- Kỹ năng tiếp xúc trao đổi với người được TGPL.
- Kỹ năng thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ.
- Kỹ năng tham gia một số hoạt động tổ tụng của mỗi vụ án và làm việc với người tiến hành tố tụng.
- Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ.
- Kỹ năng chuẩn bị các công việc trước khi tham gia phiên tòa.
- Kỹ năng soạn thảo bản bào chữa, bản bảo vệ.
- Kỹ năng tranh tụng tại phiên tòa.
- Kỹ năng nghe tuyên án và thực hiện các công việc sau khi kết thúc phiên tòa.
Phần dưới đây sẽ đề cập sâu hơn về các kỹ năng cơ bản khi tham gia tố tụng hình sự.
- Một số kỹ năng cơ bản khi tham gia tố tụng hình sự
a. Lưu ý một số quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự về quyền và trách nhiệm của nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự
- Đối với người khuyết tật
(i) pháp luật hình sự Việt Nam quy định người trong tình trạng mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi không bị coi là tội phạm và không phải chịu trách nhiệm hình sự (Điều 21 Bộ luật hình sự năm 2015).
(ii) người trong tình trạng mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thực hiện hành vi phạm tội bị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh (Điều 49 bộ luật hình sự năm 2015).
(iii) người khuyết tật phạm tội được bộ luật hình sự năm 2015 quy định là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cụ thể tại Điều 51 của bộ luật hình sự quy định “Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng” và “người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình”.
(iv) NKT bị cáo buộc phạm tội có quyền bào chữa; trong trường hợp họ từ chối quyền bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng vẫn phải có trách nhiệm chỉ định người bào chữa cho họ (Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự).
(v) trong quá trình tố tụng giải quyết vụ án, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải cử người phiên dịch cho người bị khuyết tật khi họ không sử dụng được tiếng Việt.
- Đối với người dân tộc thiểu số:
(i) cần chú ý đến tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 51 của bộ luật hình sự như: “Phạm tội do lạc hậu”; “Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra”; “Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra”.
(ii) quyền được sử dụng ngôn ngữ của dân tộc mình: Điều 29 BLTTHS 2015 quy định “Người tham gia tố tụng có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình, trường hợp này phải có phiên dịch.”.
- Đối với nạn nhân bị bạo lực gia đình:
(i) nạn nhân bị bạo lực gia đình là bị can, bị cáo trong vụ án, cần chú ý đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết; phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra...
(ii) nạn nhân bị bạo lực gia đình là bị hại trong vụ án, cần khai thác các quy định của pháp luật hình sự sau:
+ Bạo lực thể chất: Giết người (Điều 123), tội giết con mới đẻ (Điều 124), tội bức tử (Điều 130), tội đe dọa giết người (Điều 133), tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 134), tội hành hạ người khác (Điều 140).
+ Bạo lực tình dục: tội hiếp dâm (Điều 141), tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142), tội cưỡng dâm (Điều 143), tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144), tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145), tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146), tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147).
+ Bạo lực tinh thần: Tội làm nhục người khác (Điều 155); Tội cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, cản trở ly hôn tự nguyện (Điều 181); Tội tổ chức tảo hôn (Điều 183); Tội vi phạm chế độ một vợ một chồng (Điều 182), nếu làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát sẽ là một trong những tình tiết tăng nặng hình phạt; Tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình (Điều 185); Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng (Điều 186).
+ Bạo lực kinh tế: Tội cưỡng đoạt tài sản theo Điều 170); tội hủy hoại tài sản (Điều 178)
b. Tiếp xúc người được TGPL
Tùy thuộc vào yêu cầu của người được TGPL (NKT, người DTTST, nạn nhân BLGĐ), người thực hiện TGPL có thể bắt đầu tham gia ngay từ giai đoạn có giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng xác minh tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố. Khi thực hiện quyền bào chữa, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nhóm dễ bị tổn thương, người thực hiện TGPL cần chú ý một số kỹ năng sau đây:
Thứ nhất, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của người được TGPL một cách thấu đáo, lắng nghe họ trình bày, xem xét những tài liệu ban đầu (đơn từ, các tài liệu liên quan, giấy tờ cá nhân, v.v.), đồng thời phải chỉ rõ giới hạn trách nhiệm của người thực hiện TGPL với người được TGPL, trách nhiệm trước pháp luật và kiên quyết không thực hiện những yêu cầu trái pháp luật.
Thứ hai, người thực hiện TGPL cần phải biết rõ khả năng chuyên môn của mình khi tiếp nhận một vụ án. Trong thực tiễn xét xử hình sự, có những trường hợp người thực hiện TGPL này có khả năng chuyên môn và kinh nghiệm tốt trong các vụ án với người khuyết tật, v.v., nhưng lại có thể có ít kinh nghiệm giải quyết vụ án liên quan tới nạn nhân bị bạo lực gia đình, v.v...
Thứ ba, xác định rõ mối quan hệ giữa người thực hiện TGPL và người được TGPL trong vụ án hình sự: quan hệ trong phạm vi tham gia bào chữa trong các giai đoạn tố tụng; quan hệ với tư cách con người trong đời sống xã hội.
Thứ tư, hướng dẫn người được TGPL thực hiện các thủ tục cần thiết như điền vào mẫu đơn yêu cầu TGPL và các giấy tờ cần thiết khác. Tùy theo tính chất của từng vụ án, người thực hiện TGPL có thể điều chỉnh thay đổi bổ sung cho phù hợp với điều kiện, phân loại các mẫu đăng ký cho bị can, thân nhân bị can, người bị hại, v.v.
Tóm lại, việc tiếp xúc người được TGPL là người dễ bị tổn thương có thể diễn ra nhiều lần theo tiến độ giải quyết vụ án hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, người thực hiện TGPL luôn phải chú ý giữ thái độ, tác phong, nguyên tắc làm việc tận tâm, trung thực và đúng quy định pháp luật, phù hợp với đạo đức nghề nghiệp trong các lần trao đổi, tiếp xúc với người được TGPL.
c. Thủ tục đăng ký bào chữa, bảo vệ quyền lợi
Một số điểm cần lưu ý khi tiến hành thủ tục đăng ký bào chữa theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:
Thứ nhất, “trong mọi trường hợp tham gia tố tụng, người bào chữa phải đăng ký bào chữa” (Khoản 1 Điều 78 BLTTHS).
Thứ hai, hồ sơ đăng ký bào chữa đố với trợ giúp viên pháp lý/luật sư tham gia TGPL đã được BLTTHS quy định rõ:
+ Trường hợp được yêu cầu bào chữa: Điểm d khoản 2 Điều 78 quy định người thực hiện TGPL xuất trình văn bản cử người thực hiện TGPL của tổ chức thực hiện TGPL và Thẻ trợ giúp viên pháp lý hoặc Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực.
+
Trường hợp chỉ định bào chữa: trợ giúp viên pháp lý/luật sư thực hiện TGPL xuất trình Thẻ trợ giúp viên pháp lý hoặc Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực và văn bản cử người thực hiện TGPL của Trung tâm TGPL nhà nước.
+
Thời hạn đăng ký bào chữa: Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận đủ giấy tờ theo quy định, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kiểm tra giấy tờ và thấy không thuộc trường hợp từ chối việc đăng ký bào chữa thì vào sổ đăng ký bào chữa, gửi ngay văn bản thông báo người bào chữa cho người đăng ký bào chữa, cơ sở giam giữ và lưu giấy tờ liên quan đến việc đăng ký bào chữa vào hồ sơ vụ án; nếu xét thấy không đủ điều kiện thì từ chối việc đăng ký bào chữa và phải nêu rõ lý do bằng văn bản
[2].
+ Trong trường hợp tham gia bào chữa cho nhiều bị can khác nhau trong cùng một vụ án thì trợ giúp viên pháp lý/luật sư thực hiện TGPL cần chuẩn bị đầy đủ các hồ sơ đăng ký thủ tục bào chữa rồi mới thực hiện thủ tục này với cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Thứ ba, quyền lựa chọn người bào chữa: nhằm bảo đảm cho người bị buộc tội đang bị tạm giữ, tạm giam có cơ hội tiếp cận với người bào chữa, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: người bào chữa do người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ lựa chọn. Người thân thích của người tham gia tố tụng, bao gồm: vợ, chồng, bố đẻ, mẹ đẻ, bố chồng, mẹ chồng, bố vợ, mẹ vợ, bố nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi; ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột; cụ nội, cụ ngoại, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, cháu ruột.
Trong trường hợp người bị buộc tội đang bị tạm giam có văn bản từ chối người bào chữa do thân nhân, gia đình lựa chọn, trợ giúp viên pháp lý/luật sư thực hiện TGPL có thể xử lý tình huống này bằng cách yêu cầu được cùng Điều tra viên gặp trực tiếp người đang bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam đó để xác nhận việc từ chối theo quy định tại khoản 2 Điều 77 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
d. Một số kỹ năng khi trao đổi, gặp gỡ người được TGPL là người bị bắt, bị tạm giam, bị can, bị cáo, đương sự
- Trao đổi, gặp gỡ người được TGPL là bị can, bị cáo tại ngoại, đương sự:
Sau lần gặp đầu tiên, trợ giúp viên pháp lý/luật sư thực hiện TGPL cần thông báo định kỳ hoặc đột xuất cho người được TGPL biết diễn tiến, kết quả công việc thông qua việc sử dụng các phương tiện liên lạc phù hợp như (điện thoại, fax, e-mail, v.v.). Người thực hiện TGPL nên trao đổi thường xuyên để có được sự hiểu và đồng cảm của người được TGPL trước những khó khăn, thách thức khi giải quyết vụ án.
Người thực hiện TGPL cần dự đoán và thông báo cho người được TGPL những khả năng có thể xảy ra trong tiến trình giải quyết vụ án, hướng dẫn những chi tiết cần thiết của việc ghi biên bản hỏi cung, biên bản lấy lời khai. Cần trao đổi với họ những vấn đề dự kiến sẽ được Điều tra viên tập trung làm rõ và hướng dẫn người được TGPL trả lời một cách trung thực, đúng với bản chất vụ việc. Bên cạnh đó, cần có những phương án, bước đi thích hợp trong việc chứng minh việc không phạm tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thông qua các chứng cứ, tài liệu thu thập được như: Lời khai của các nhân chứng, diễn biến thời gian (hành động hoặc không hành động) vào thời điểm xảy ra vụ án, các vật chứng, tài liệu khác.
- Gặp, trao đổi với người được TGPL là bị can trong nhà tạm giữ, trại tạm giam:
+ Cuộc gặp, hỏi giữa người bào chữa với người bị buộc tội: Có thể hiểu, cuộc gặp này do người bào chữa chủ động tiến hành trong bất cứ giai đoạn tố tụng nào và không hạn chế số lần, thời gian gặp; được hỏi, được trao đổi hoàn toàn riêng tư với bị can trong điều kiện giám sát của cơ sở giam giữ mà không bắt buộc phải có mặt của những người tiến hành tố tụng.
- Buổi hỏi cung, phúc cung do Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên chủ động tiến hành với sự tham gia của người bào chữa: Cuộc gặp này của người bào chữa phụ thuộc vào kế hoạch đã được chuẩn bị trước nhằm lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Do đó, trong cuộc gặp này, người bào chữa chỉ được hỏi người bị bắt, bị tạm giữ, bị can khi được người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, bị tạm giữ, bị can (điểm b khoản 1 Điều 73). Người bào chữa có quyền xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa (điểm d và đ khoản 1 Điều 73).
Trước khi tiến hành hỏi cung bị can, Điều tra viên phải thông báo cho Kiểm sát viên và người bào chữa thời gian, địa điểm hỏi cung
[3]. Trường hợp hỏi cung có mặt người bào chữa, người đại diện của bị can thì Điều tra viên, cán bộ điều tra phải giải thích cho những người này biết quyền và nghĩa vụ của họ trong khi hỏi cung bị can. Bị can, người bào chữa, người đại diện cùng ký vào biên bản hỏi cung. Trường hợp người bào chữa được hỏi bị can thì trong biên bản phải ghi đầy đủ câu hỏi của người bào chữa và trả lời của bị can.
[4]
Buổi tiếp xúc đầu tiên có ý nghĩa rất quan trọng cả về phương diện tâm lý và nhận thức, có ảnh hưởng đáng kể đến quá trình tham gia tố tụng của người thực hiện TGPL. Do đó, người thực hiện TGPL cần chuẩn bị chu đáo về các tài liệu đã được nghiên cứu, chuẩn bị một số ý kiến để sẵn sàng trao đổi, giải đáp vướng mắc, định hướng tìm kiếm, thu thập và đánh giá chứng cứ gỡ tội, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; hỏi thêm những sự kiện chưa rõ ràng, còn mâu thuẫn; tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng, thái độ của người được TGPL là người khuyết tật, người dân tộc thiểu số, nạn nhân bị bạo lực gia đình, v.v.. Thủ tục tiếp xúc ban đầu với bị can trong nhà tạm giữ, trại tạm giam ở mỗi địa phương là khác nhau, vì vậy, người thực hiện TGPL nên chuẩn bị sẵn những giấy tờ để đối chiếu khi cần thiết.
Trong buổi tiếp xúc ban đầu, sau khi lắng nghe ý kiến trình bày của bị can, bị cáo, người thực hiện TGPL cần đặt những câu hỏi để tìm hiểu thêm nguyên nhân, bối cảnh, bản chất hành vi và các tình tiết cần làm rõ. Trong trường hợp người thực hiện TGPL phát hiện những lời khai trong hồ sơ mâu thuẫn với những thông tin do bị can, bị cáo trực tiếp trao đổi với mình thì phải làm rõ từng điểm mâu thuẫn và tìm ra lý do dẫn đến những mâu thuẫn đó.
e. Tham gia hoạt động điều tra
Để việc tham gia của Trợ giúp viên pháp lý/luật sư thực hiện TGPL trong các buổi hỏi cung của Điều tra viên với bị can có hiệu quả, tuân thủ quy định của pháp luật, Trợ giúp viên pháp lý/luật sư thực hiện TGPL cần chú ý một số nội dung và hoạt động dưới đây:
- Cần có văn bản xác định yêu cầu, nội dung và phạm vi đề nghị tham dự các buổi lấy lời khai, hỏi cung bị can, thông báo về thời gian, lịch trình có thể thu xếp tham dự các buổi hỏi cung này;
- Về biên bản làm việc với sự có mặt của người bào chữa;
- Không nên mang theo, sử dụng điện thoại, phương tiện liên lạc khác trong quá trình làm việc trong nhà tạm giữ, trại tạm giam. Không tạo điều kiện cho người bị buộc tội nói chuyện, liên lạc với gia đình; không mang theo đồ dùng gia đình yêu cầu để đưa cho người bị buội tội;
- Không nên làm người bị buộc tội ảo tưởng về việc người thực hiện TGPL có thể tháo gỡ mọi việc. Không nên có thái độ ứng xử không đúng, thiếu tôn trọng đối với Điều tra viên, Kiểm sát viên;
- Tuyệt đối không đưa và nhận thư của người bị buộc tội và gia đình họ.
- Sau các buổi làm việc với người bị buộc tội trong nhà tạm giữ, trại tạm giam, thông thường, người thân của họ thường đề nghị người thực hiện TGPL cho biết tình trạng giam giữ, sức khỏe và nhất là những việc Điều tra viên đã hỏi. người thực hiện TGPL nên tránh trả lời những câu hỏi đi sâu vào tình tiết vụ án vì đây là những bí mật điều tra cần được tôn trọng. người thực hiện TGPL chỉ nên thông qua nắm bắt tình hình, dự kiến cùng gia đình thực hiện một số nội dung cần điều tra, xác minh, cung cấp tài liệu, vật chứng để làm rõ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội.
- Thu thập, kiểm tra, sử dụng và đánh giá chứng cứ
Trong một vụ án hình sự, để thực hiện tốt nhất vai trò của mình, người thực hiện TGPL cần quan tâm đến kỹ năng thu thập chứng cứ, bởi càng tìm ra được nhiều chứng cứ có lợi thì khả năng gỡ tội, giảm nhẹ tội hoặc bảo vệ được quyền lợi cho người được TGPL càng cao.
Liên quan đến vấn đề này, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ghi nhận 3 quyền của người bào chữa, bao gồm:
(h) Thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
(i) Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tố tụng kiểm tra, đánh giá;
(k) Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản.
Để thu thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, người bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi và nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa.
[5]
Người thực hiện TGPL cũng không nên thụ động, dựa dẫm vào các tài liệu, chứng cứ sao chụp được từ cơ quan tiến hành tố tụng để phục vụ cho việc nghiên cứu, đánh giá của mình, mà cần phải triệt để tận dụng những quyền mà pháp luật trao cho để thu thập, phát hiện những yếu tố, chứng cứ cần thiết phục vụ cho việc bào chữa cho thân chủ. Nên thu thập, tìm kiếm những chứng cứ có lợi cho người được TGPL. Bởi ngoài nghĩa vụ làm rõ các tình tiết khách quan của vụ án, thì trách nhiệm của người thực hiện TGPL trước hết là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL. Như vậy, những chứng cứ mà người thực hiện TGPL có thể sử dụng phải là những chứng cứ có lợi cho người bị buộc tội và không làm xấu đi tình trạng của người bị buộc tội, ví dụ như chứng cứ chứng minh sự vô tội của bị can nếu bị can thực sự vô tội, chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị can không đến mức nguy hiểm như tài liệu trong hồ sơ thể hiện và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can mà cơ quan điều tra chưa thể hiện trong hồ sơ.
Nghiên cứu hồ sơ vụ án
Để chuẩn bị cho việc nghiên cứu hồ sơ được chu đáo, thuận lợi, người thực hiện TGPL cần quan tâm những vấn đề sau:
Thứ nhất, chủ động liên hệ với Kiểm sát viên sau khi được xác nhận tư cách người bào chữa để sắp xếp lịch và địa điểm nghiên cứu hồ sơ.
Thứ hai, về phương pháp trình và nghiên cứu hồ sơ, người thực hiện TGPL cần quan tâm các vấn đề liên quan tới thủ tục tố tụng được thể hiện trong hồ sơ.
Thứ ba, về phạm vi nghiên cứu hồ sơ, người thực hiện TGPL cần chú ý những vấn đề cụ thể sau đây:
- Kiểm tra, đối chiếu lại nội dung giữa cáo trạng và kết luận điều tra, kết luận điều tra bổ sung; xác định tội danh, các hành vi bị coi là tội phạm, khung hình phạt, v.v;
- Nghiên cứu các văn bản trao đổi giữa cơ quan điều tra và viện kiểm sát, với các cơ quan khác về việc đánh giá ban đầu hành vi của bị can, cơ sở của việc đề nghị phê chuẩn bắt tạm giam (trong một số trường hợp, những nhận định ban đầu này không chính xác, nên sau đó cơ quan điều tra phải thay đổi quyết định khởi tố bị can);
- Nghiên cứu các kết luận giám định (tài sản, tài chính - kế toán, tỷ lệ thương tật, nguyên nhân gây ra cái chết hoặc bị thương,v.v.), các biên bản khám nghiệm hiện trường, nhận dạng, đối chất, thực nghiệm điều tra;
- Nghiên cứu lời khai của bị can mà mình bào chữa và các bị can khác, nhân chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự;
- Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; trích lục tiền án, tiền sự.
Thứ tư, người thực hiện TGPL cần tuân thủ các nguyên tắc trong xử lý thông tin, trong đó có việc bảo đảm những thông tin về bí mật điều tra, cách thức trao đổi thông tin, tài liệu với người được TGPL.
Xây dựng đề cương xét hỏi
Người thực hiện TGPL cần quan tâm xây dựng kế hoạch thẩm vấn tại phiên tòa. Trọng tâm kế hoạch thẩm vấn chủ yếu liên quan đến những đối tượng có mối quan hệ trực tiếp, có lời khai ảnh hưởng đến việc xác định sự thật của vụ án, đến việc xác định trách nhiệm hình sự đối với bị cáo được bào chữa. Trường hợp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự thì tùy thuộc vào yêu cầu bảo vệ mà xác định đối tượng thẩm vấn, có thể khai thác những thông tin phục vụ cho yêu cầu bồi thường thiệt hại, xác định trách nhiệm hình sự, v.v..
Xác định nội dung các câu hỏi thẩm vấn: Chuẩn bị nội dung các câu hỏi thẩm vấn là khâu quan trọng nhất của kế hoạch thẩm vấn. Cần tập trung vào những câu hỏi liên quan trực tiếp đến việc xác định trách nhiệm hình sự, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ, trách nhiệm dân sự của bị cáo trong vụ án hình sự (nếu có). Các câu hỏi phải ngắn gọn, dễ hiểu, tránh việc có thể hiểu theo nhiều nghĩa khiến người bị hỏi lúng túng, đôi khi không đạt được hiệu quả thẩm vấn, tránh trùng lặp khi tham gia xét hỏi.
Chuẩn bị luận cứ bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
Bản luận cứ cần có những nội dung chủ yếu sau:
-
Phần mở đầu: Nêu cơ sở của việc nhận trách nhiệm bào chữa cho bị cáo, tóm tắt nội dung luận tội của Cáo trạng, nhấn mạnh điều khoản Bộ luật hình sự được áp dụng, tên của tội danh.
Đối với văn bản bảo vệ quyền lợi cho bị hại, tóm tắt hành vi mà bị cáo thực hiện và những thiệt hại của bị hại do hành vi phạm tội gây ra, xác định những điều khoản pháp lý là căn cứ cho việc xử lý hành vi hoặc trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bị cáo. Đặc biệt đối với nhóm người dễ bị tổn thương (NKT, người DTTS, nạn nhân BLGĐ) cần nhấn mạnh sự thiệt hại mà nhóm người phải chịu.
-
Phần đánh giá về nguyên nhân, bối cảnh, những yếu tố tác động đến quá trình giải quyết vụ án: Việc đánh giá các yếu tố này cho phép người thực hiện TGPL nhìn thấu đáo, toàn diện các khía cạnh, vấn đề có thể ảnh hưởng tới việc đánh giá bản chất vụ án, bao gồm:
+ Nguyên nhân phát sinh vụ án (nguyên nhân trực tiếp, nguyên nhân khách quan và chủ quan),
+ Bối cảnh và các yếu tố tác động ảnh hưởng đến việc xem xét, đánh giá bản chất vụ án.
-
Phần đánh giá về chứng cứ liên quan việc xác định các dấu hiệu cấu thành tội phạm: Đây là phần quan trọng nhất của văn bản thể hiện quan điểm pháp lý của người thực hiện TGPL. Cấu trúc của phần này gồm:
+ Bám sát các dấu hiệu cấu thành tội phạm và những vấn đề pháp lý phải thỏa mãn khi muốn xác định trách nhiệm hình sự của bị can.
+ Sử dụng phương pháp phân tích, chứng minh, so sánh, đối chiếu, diễn giải, quy nạp nhằm hướng tới việc chứng minh tính không có căn cứ trong việc truy tố tội danh với bị cáo hoặc trong trường hợp bị cáo nhận tội, những tình tiết giảm nhẹ cần được lưu tâm khi giải quyết vụ án, v.v. và ngược lại đối với trường hợp bảo vệ quyền lợi cho đương sự.
+ Trong các vụ án phức tạp, đòi hỏi phải có sự đối chiếu, căn cứ vào kết quả giám định tư pháp (pháp y, giám định tài chính - kế toán, v.v.), người thực hiện TGPL cần có ý kiến đánh giá về thủ tục trưng cầu và tiến hành giám định, nhận xét xem phương pháp, nội dung kết luận giám định có căn cứ hay không, có giá trị pháp lý hay không.
-
Phần kết luận và kiến nghị: Nội dung của phần này có thể tóm tắt, nêu ngắn gọn những nhận xét, kết luận từ phần đánh giá nội dung, khẳng định các căn cứ pháp lý cho việc chứng minh bị cáo không phạm tội hoặc các tình tiết về hoàn cảnh, nhân thân của bị cáo có thể làm căn cứ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Từ đó, đề xuất các kiến nghị pháp lý thích hợp như đề nghị tuyên bố bị cáo không phạm tội, tuyên trả tự do tại phiên tòa, hoặc vận dụng các điều luật xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ, tình tiết xác định áp dụng dưới khung hình phạt, áp dụng chế định án treo (án không giam giữ),v.v.
Trường hợp bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự thì cần có những kết luận và kiến nghị trong việc yêu cầu xử lý công bằng đối với bị cáo và yêu cầu bị cáo bồi thường các thiệt hại đối với người bị hại hoặc thực hiện trách nhiệm dân sự đối với đương sự mà mình bảo vệ.
Kỹ năng tranh tụng tại phiên tòa
- Nội dung phần đối đáp phải mang tính mới, bao gồm các vấn đề chưa được đề cập trong phần bào chữa.
- Phân tích, phát hiện những mâu thuẫn trong phần luận tội và tranh luận của Kiểm sát viên, chỉ ra những điểm thiếu căn cứ, thiếu tính thuyết phục, từ đó, nhấn mạnh tính hợp lý, có căn cứ trong lập luận của mình;
- Nội dung đối đáp phải ngắn gọn, ngôn ngữ chuẩn mực, thể hiện thái độ ứng xử có văn hóa, không được có những thái độ không chừng mực dẫn đến xúc phạm những người tiến hành và những người tham gia tố tụng khác.
Nội dung của phần đối đáp cần bao gồm 3 phần chính:
+ Phân tích, đánh giá những điểm mới, cần ghi nhận trong phần tranh luận trở lại của Kiểm sát viên, so sánh với phần đã phát biểu trong bài luận tội;
+ Nhắc lại một cách tổng quát những luận điểm chính mà người bào chữa đã phát biểu trong phần bào chữa, nhấn mạnh những chứng cứ quan trọng cần lưu ý trong đối đáp;
+ Từ đó, phân tích làm rõ thêm các tình tiết, chứng cứ liên quan đến việc xác định mức độ vi phạm, phạm vi giới hạn áp dụng Bộ luật hình sự, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đề xuất quan điểm giải quyết, xử lý đối với bị cáo.
2.3. Kỹ năng đại diện ngoài tố tụng
Trợ giúp viên pháp lý, luật sư thực hiện TGPL đại diện ngoài tố tụng cho người được TGPL trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền
[6].
Một số kỹ năng đại diện ngoài tố tụng:
- Nghiên cứu các quy định pháp luật và tài liệu có liên quan tới công việc đại diện.
- Phân tích yêu cầu đại diện của người được TGPL thành từng yếu tố có căn cứ hợp pháp, hợp lý.
- Thu thập thông tin, tài liệu có liên quan.
- Lập phương án thực hiện và thống nhất với người được TGPL.
- Tiền hành xác lập, thực hiện công việc được ủy quyền, thường xuyên thông báo diễn tiến và đề xuất các ý kiến mới (lưu ý: nếu có điểu chỉnh, bổ sung nội dung ủy quyền thì phải lập thành văn bản mới).
- Kết thúc thành công công việc được ủy quyền.
- Việc ủy quyền phải được lập thành văn bản. Việc cử người đại diện ngoài tố tụng phải được lập thành văn bản và gửi cho người được TGPL .
- Chủ động thực hiện công việc trong phạm vi ủy quyền.
- Báo cho bên thứ 3 về thời gian và phạm vi được ủy quyền;
- Thực hiện công việc được ủy quyền một cách tốt nhất và thường xuyên thông báo với bên ủy quyền. Bảo quản, giữ gìn tài liệu được giao, giữ bí mật biết được từ công việc ủy quyền;
- Bồi thường thiệt hại nếu có lỗi;
- Giao lại tài sản phát sinh cho bên ủy quyền.
[1] Khoản 1 Điều 32 Luật Trợ giúp pháp lý
[2] khoản 4 Điều 78 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
[3] khoản 1 điều 183 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
[4] khoản 3 Điều 184 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
[5] Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
[6] khoản 1 Điều 33 Luật Trợ giúp pháp lý