NHŨNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
Sign In

NHŨNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ

Nhóm người dễ bị tổn thương là những nhóm, cộng đồng người có vị thế thấp hơn, từ đó khiến họ cần được chú ý bảo vệ đặc biệt so với những nhóm, cộng đồng người khác. Trong đó có nhóm người dân tộc thiểu số và nạn nhân bạo lực gia đình. Trong tài liệu này, những vấn đề chung về người dân tộc thiểu số và nạn nhân bạo lực gia đình sẽ được nghiên cứu, làm rõ, từ đó làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách, pháp luật phù hợp, bảo vệ cao nhất quyền và lợi ích hợp pháp của nhóm đối tượng này trên thực tế.

NHŨNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
 
Nhóm người dễ bị tổn thương là những nhóm, cộng đồng người có vị thế thấp hơn, từ đó khiến họ cần được chú ý bảo vệ đặc biệt so với những nhóm, cộng đồng người khác.[1] Trong đó có nhóm người dân tộc thiểu số và nạn nhân bạo lực gia đình. Trong tài liệu này, những vấn đề chung về người dân tộc thiểu số và nạn nhân bạo lực gia đình sẽ được nghiên cứu, làm rõ, từ đó làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách, pháp luật phù hợp, bảo vệ cao nhất quyền và lợi ích hợp pháp của nhóm đối tượng này trên thực tế.

Mục 1. Người dân tộc thiểu số

1. Khái niệm

Dân tộc thiểu số” là những dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam. “Dân tộc thiểu số rất ít người” là dân tộc có số dân dưới 10.000 người. Như vậy, hiện nay dân tộc Kinh chiếm 85,3% dân số, còn lại là người DTTS.
Dân tộc thiểu số có khó khăn đặc biệt” là những dân tộc có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo ba tiêu chí sau:
a) Tỷ lệ hộ nghèo trong đơn vị thôn, bản chiếm trên 50% so với tỷ lệ hộ nghèo của cả nước;
b) Các chỉ số phát triển về giáo dục đào tạo, sức khoẻ cộng đồng và chất lượng dân số đạt dưới 30% so với mức trung bình của cả nước;
c) Cơ sở hạ tầng kỹ thuật thiết yếu chất lượng thấp, mới đáp ứng mức tối thiểu phục vụ đời sống dân cư. [2].
2. Thực trạng số lượng người dân tộc thiểu số
Theo số liệu điều tra các dân tộc thiểu số năm 2019 do Tổng Cục Thống kê phối hợp Ủy ban dân tộc thực hiện thì tính đến thời điểm ngày 01/4/2019, dân số của 53 dân tộc thiểu số (DTTS) là 14.119.256 người, chiếm 14,7% tổng dân số cả nước. Số hộ DTTS là 3.680.943 hộ, chiếm 13,7% tổng số hộ của cả nước.
Số hộ DTTS nghèo và cận nghèo chiếm 35,5 %. Phần lớn các hộ DTTS sống ở khu vực nông thôn, chiếm 86,2%. Các dân tộc thiểu số thường cư trú ở vùng trung du và núi cao ở miền Bắc (7.037.246 người), Tây Nguyên (2.199.784 người), Bắc trung Bộ và duyên hải miền Trung (2.075.922 người). Về quy mô dân số, có một số tộc người có quy mô dân số trên 1 triệu người như: Tày, Thái, Mường, Khmer, Hmông. Có 14 dân tộc có quy mô dân số trên 100.000 người; 34 dân tộc có quy mô dân số dưới 100.000.
Phụ nữ dân tộc thiểu số có 7.045.349 người, chiếm 49,6% người dân tộc thiểu số trong toàn quốc.
 Tỷ lệ tảo hôn của phụ nữ dân tộc thiểu số là 23,5%, cao hơn nam giới dân tộc thiểu số (20,1%). Tỷ lệ phụ nữ dân tộc thiểu số biết đọc biết viết chữ phổ thông chiếm 75,1%, thấp hơn nam dân tộc thiểu số (86,7%).
Hiện nay, không ít người dân thuộc các DTTS, trong đó có phụ nữ tiếp cận và hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản ở mức thấp hơn so với bình quân chung cả nước: số liệu cho thấy, còn hơn 21% người DTTS trên 15 tuổi chưa đọc thông viết thạo tiếng Việt; khoảng 30% học sinh DTTS chưa được đi học đúng độ tuổi; Mức độ tiếp cận các dịch vụ y tế còn nhiều khó khăn, tỷ lệ được cấp thẻ bảo hiểm y tế cao nhưng tỷ lệ khám, chữa bệnh còn thấp, tỷ lệ sinh con tại nhà là 36,3%, trẻ em suy dinh dưỡng là 32%.[3]

3. Một số đặc điểm chung của người DTTS

- Người DTTS ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thường chịu ảnh hưởng và ứng xử, giải quyết các quan hệ xã hội chủ yếu theo truyền thống văn hóa, phong tục tập quán của từng dân tộc, từng vùng, miền;
- Một số người chưa được thụ hưởng đầy đủ quyền được thông tin về pháp luật; chưa chủ động tìm hiểu, học tập pháp luật; khả năng nhận thức và hiểu biết pháp luật không đồng đều;
- Tính đoàn kết cộng đồng cao, lao động cần cù và lạc quan trong cuộc sống. Lối sống coi trọng con người, trọng tình cảm, trọng đạo đức, gia đình, trọng danh dự, trọng danh tiếng, trọng người cao tuổi.
- Địa bàn sinh sống chủ yếu tập trung vào các vùng núi và vùng sâu, vùng xa và phần lớn sống ở khu vực nông thôn, miền núi, biên giới. Vị trí địa lý sinh sống nhiều cách trở nên cơ sở hạ tầng và các dịch vụ công cơ bản như giáo dục, y tế còn nhiều hạn chế gây ảnh hưởng tới đời sống kinh tế - xã hội của bà con vùng dân tộc thiểu số cũng như trình độ dân trí và hiểu biết pháp luật của người dân. 
- Có mối quan hệ họ hàng dòng tộc rộng rãi ảnh hưởng đến giao tiếp, ứng xử và tuân thủ pháp luật của người DTTS.
- Vai trò của già làng, trưởng bản, trưởng dòng họ, người có uy tín trong cộng đồng dân cư được coi trọng và tôn sùng.
- Tại các khu vực biên giới, người DTTS giữa hai quốc gia khu vực biên giới thường có quan hệ gần gũi, thân tình thông qua quan hệ hôn nhân, dòng tộc nên bị ảnh hưởng bởi một số phong tục tập quán và pháp luật của hai quốc gia.
- Đời sống KTXH của người dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn còn nhiều khó khăn; tình trạng đói nghèo cao nên ảnh hưởng đến việc phát huy hiệu quả của việc tuân thủ pháp luật của người dân.

Mục 2. Nạn nhân bạo lực gia đình

1. Khái niệm

Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, tình dục, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình”[4].
Bạo lực gia đình thường được chia thành 04 loại: bạo lực thể chất, bạo lực tinh thần, bạo lực kinh tế và bạo lục tình dục.

2. Đặc điểm và thực trạng bạo lực gia đình

2.1. Một số đặc điểm của bạo lực gia đình

Một là, bạo lực gia đình xảy ra giữa các thành viên gia đình hoặc những người đã từng có quan hệ gia đình trên cơ sở mối quan hệ về huyết thống, hôn nhân hoặc nuôi dưỡng. Cụ thể, đó là quan hệ giữa ông, bà và cháu; cha, mẹ và con; vợ và chồng; anh, chị và em;..
Hai là, bạo lực gia đình khó bị phát hiện. Những nạn nhân của bạo lực gia đình, chủ yếu là phụ nữ, trẻ em, người thường có thái độ cam chịu, không muốn tố cáo, không muốn “vạch áo cho người xem lưng”, xem vấn đề này là chuyện riêng của gia đình.
Ba là, bạo lực gia đình xảy ra dưới nhiều dạng thức khác nhau, có thể là bạo lực thể chất, bạo lực tình dục, bạo lực tinh thần hoặc bạo lực kinh tế. Hành vi bạo lực  được thực hiện trong một thời gian dài, lặp đi lặp lại với những mức độ khác nhau.
Bốn là, hậu quả của hành vi bạo lực gia đình gây ra hoặc đe dọa gây ra khá đa dạng, có thể là thiệt hại về vật chất (tính mạng, sức khỏe, tài sản, thu nhập...) nhưng cũng có thể là thiệt hại về tinh thần (nhân phẩm, danh dự, tình cảm, tổn thương tâm lý...).
Năm là, các hành vi bạo lực gia đình ít khi được quy định thành các tội danh độc lập mà thường được quy định chung trong cấu thành của nhiều tội phạm, ví dụ: trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người hoặc các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình... trừ hành vi “ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình” cấu thành tội danh được quy định tại Điều 185 Bộ Luật hình sự năm 2015.

2.2. Thực trạng

Báo cáo do Tổ chức Y tế thế giới (WHO) công bố đã chỉ ra một thực tế đáng quan ngại rằng, nạn bạo lực đối với phụ nữ vẫn còn phổ biến trên thế giới. Theo kết quả khảo sát năm 2017, có tới 30% phụ nữ đã từng bị bạo lực thể xác hoặc tình dục do chính chồng hoặc bạn tình gây ra; 7% phụ nữ đã từng bị người khác tấn công tình dục, khoảng 10 triệu trẻ em bị bạo hành mỗi ngày[5]. Đại dịch COVID-19 đã khiến bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em càng trở nên nghiêm trọng hơn do các biện pháp phong thỏa và các dịch vụ hỗ trợ thiết yếu bị ngắt quãng.[6]
Theo báo cáo nghiên cứu về tình hình bạo lực năm 2019 ở Việt Nam, cứ ba phụ nữ thì có hai phụ nữ (63%) bị một hoặc hơn một loại hình bạo lực do chồng (hoặc bạn tình) gây ra trong đời và 32% bị bạo lực hiện thời (trong 12 tháng qua), đó là: bạo lực thể xác, bạo lực tình dục, bạo lực tâm lý (gồm bạo lực tinh thần và kiểm soát hành vi) và bạo lực kinh tế. Phụ nữ có nguy cơ bị chồng bạo lực nhiều hơn so với việc bị người khác bạo lực. Phụ nữ khuyết tật bị bạo lực do chồng gây ra cao hơn so với phụ nữ không khuyết tật. Cũng theo báo cáo này, một nửa số phụ nữ bị bạo lực thể xác và/hoặc tình dục do chồng/bạn tình gây ra, nhưng không kể với ai về chuyện đó và hầu hết phụ nữ (90,4%) từng bị chồng/bạn tình bạo lực không tìm kiếm bất cứ sự giúp đỡ nào. Chỉ có một phần 10 phụ nữ (9,6%) tìm kiếm sự trợ giúp của các cơ quan cung cấp dịch vụ chính thức hoặc chính quyền và chỉ có 4,8% tìm kiếm sự giúp đỡ của công an.
Theo điều tra của Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội cho thấy: trong quãng thời gian dịch Covid-19 xảy ra, khi cả nước thực hiện cách ly xã hội, tổng đài ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới đã tiếp nhận 347 cuộc gọi của những phụ nữ cần hỗ trợ, tăng 7 lần so với cùng kỳ năm 2019. Phòng tham vấn tiếp nhận 511 người đến tham vấn trực tiếp, tăng 48%; 72 phụ nữ đến các "ngôi nhà bình yên" ở Hà Nội và Cần Thơ trong thời gian này, tăng 80% so với cùng kỳ năm 2019.[7]

3. Nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình và hậu quả của hành vi bạo lực gia đình

3.1. Nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình

- Bạo lực gia đình do rượu và ma túy: ví dụ người chồng nghiện rượu, say rượu chiếm tới 60%[8].Text Box: Nguồn ảnh: https://baothaibinh.com.vn
- Điều kiện kinh tế gia đình khó khăn: Những cặp vợ chồng phải vật lộn với cuộc sống mưu sinh thường có sự căng thẳng về mặt thần kinh, giữa họ rất dễ xảy ra mâu thuẫn, xung đột, làm nảy sinh bạo lực gia đình và thường gánh nặng kinh tế đè lên vai 1 người, họ bạo lực với người bạn đời như một cách để giải tỏa.
- Ảnh hưởng từ tư tưởng phong kiến: Nhiều người hiện nay vẫn mang nặng định kiến giới, tư tưởng trọng nam khinh nữ. Nhiều người ngại ngùng, không dám đấu tranh sự bất bình đẳng giới, bạo hành gia đình, sợ bạn bè, hàng xóm, dư luận chê cười, nên thường có suy nghĩ 'đóng cửa bảo nhau'.
- Do trình độ học vấn thấp, kém hiểu biết: Trình độ văn hóa, dân trí còn thấp, sự hiểu biết về pháp luật còn hạn chế của một số người dân ở các vùng sâu vùng xa, vùng nông thôn còn nghèo khó… khiến cho vấn đề bạo lực thường xuyên xảy ra.
- Sự tác động của xã hội bên ngoài: Sự can thiệp, tác động, lên án, đấu tranh của cộng đồng, làng xóm, chính quyền địa phương về vấn đề bạo lực gia đình chưa thường xuyên. Nhiều người coi đó là “chuyện riêng trong gia đình”, “không phải là chuyện của mình”.

3.2. Hậu quả của hành vi bạo lực gia đình

Hành vi bạo lực gia đình là hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm sức khỏe, tính mạng của các thành viên trong gia đình. Hậu quả của hành vi bạo lực gia đình thường thấy như sau:
Thứ nhất, bạo lực gia đình dưới bất kỳ hình thức nào cũng để lại những tác động tiêu cực đến sức khỏe về thể chất, tinh thần không chỉ của nạn nhân mà còn cả các thành viên khác trong gia đình.
Thứ hai, bạo lực gia đình có tác động tiêu cực đến lực lượng lao động và do đó cũng tác động đến các hoạt động kinh tế ở địa phương nói riêng và xã hội nói chung.
 Thứ ba, bạo lực gia đình thường dồn gánh nặng lên hệ thống bảo trợ xã hội: Bạo lực gia đình  đặt ra yêu cầu trợ giúp và bảo vệ những nạn nhân, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em với hệ thống bảo trợ xã hội của quốc gia. Ví dụ, để bảo vệ các nạn nhân, cần phải xây dựng hệ thống các cơ sở tạm lánh cho họ, cung cấp các đồ dùng thiết yếu cho họ….
Thứ tư, bạo lực gia đình dồn gánh nặng lên hệ thống giáo dục. Chẳng hạn những học sinh – những nạn nhân trực tiếp hoặc phải chứng kiến cảnh người thân trong gia đình là nạn nhân của bạo lực gia đình – sẽ ảnh hưởng tâm lý và kết quả trong học tập, thậm chí có trường hợp bỏ học.
 Thứ năm, bạo lực gia đình cũng chất gánh nặng lên hệ thống các cơ quan tư pháp. Bởi lẽ pháp luật của hầu hết quốc gia trên thế giới hiện đã xếp các hình thức bạo lực gia đình (ở những phạm vi, mức độ khác nhau) là những hành vi vi phạm pháp luật và vì vậy, mỗi khi các hành vi bạo lực gia đình xảy ra, các cơ quan tư pháp sẽ phải “vào cuộc” để điều tra, truy tố, xét xử hoặc xử lý hành chính theo thẩm quyền.

4. Tính cách đặc trưng của nạn nhân bị bạo lực và của những người gây ra bạo lực trong gia đình
Tính cách đặc trưng của
nạn nhân bị bạo lực
Đặc điểm tính cách chung của những người gây ra bạo lực
trong gia đình
1. Hay lo sợ nhưng không có nguyên nhân cụ thể, cảm thấy không thoải mái trong cuộc sống, rón rén hay sợ sệt và không có lý do, luôn có trạng thái như “đi trên vỏ trứng”. 1. Thường sử dụng bạo lực hoặc có ý nghĩ sử dụng bạo lực khi giải quyết các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống.
 
2. Khó kết bạn, ít có bạn bè, có các mối quan hệ không lành mạnh hoặc rất ít mối quan hệ, không tham gia được vào một tổ chức, nhóm nào. 2. Không thừa nhận điều mình đã làm: Đổ lỗi cho người khác, giảm nhẹ lỗi của mình, hoặc không thừa nhận lỗi lầm, chối bỏ động cơ và hành động thực sự của mình. Hay nói dối, cư xử như trẻ con.
3. Ít vui vẻ, hay buồn không có lý do. 3. Muốn kiểm soát, kiềm chế người khác. Luôn tính toán và chuẩn bị trước khi hành động.
4. Cam chịu, chấp nhận những điều không hợp lý. 4. Thiếu sự tự tin vào bản thân, sợ người khác nhìn nhận và đánh giá bản thân mình.
5. Không tự tin, không trân trọng và yêu quý bản thân. 5. Độc đoán, gia trưởng, áp đặt, bảo thủ, không tiếp thu ý kiến của người khác. Cảm thấy luôn luôn cần bảo vệ vị trí của mình, bất kể là bằng cách nào.
6. Không thừa nhận, hay trách mình, đổ lỗi cho bản thân một cách không chính đáng về những hành động của người khác, không thừa nhận thực tế vấn đề. Hay nói dối. 6. Dễ nổi nóng, không quản lí được cảm xúc của mình, tính tình thất thường, hay chỉ trích, ra yêu sách với người khác.
7. Có nhu cầu lệ thuộc vào người khác, sợ bị bỏ rơi.
 
7. Có vấn đề về tâm lý, tinh thần hoặc phải chịu đựng một vài tổn thương nào đó trong quá khứ. Những người bị tổn thương sẽ làm tổn thương người khác. Bản thân người gây bạo lực có những vết thương thể chất, tinh thần. 
8. Có tiền sử bị bạo lực hoặc đã từng bạo lực người khác.
 
 
 
[1] Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội (2010), Luật quốc tế về quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.23.
[2] Nghị định 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 về công tác dân tộc.
[3] Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn kèm theo Tờ trình số 473/TTr-CP ngày 11/10/2019 của Chính phủ
 
[4] Khoản 1 Điều 2 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình 2022.
[5] Báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới về bạo lực với phụ nữ năm 2017

[7] Một số giải pháp phòng chống bạo lực trên cơ sở giới trong đại dịch COVID-19: https://thuviensuckhoe.org/mot-so-giai-phap-phong-chong-bao-luc-tren-co-so-gioi-trong-dai-dich-covid-19-20210814173837.html.