Tình hình thực hiện công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế về pháp luật Quý II năm 2016 của Bộ Tư pháp
Sáu (06) tháng đầu năm 2016 diễn ra nhiều sự kiện có ý nghĩa quan trọng của đất nước, là thời điểm tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, bầu cử đại biểu Quốc hội XIV, thay đổi bộ máy cán bộ lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Chính phủ nói chung và Bộ Tư pháp nói riêng. Cùng với đó, trong bối cảnh đất nước ngày càng hội nhập quốc tế sâu rộng, sáu tháng đầu năm 2016 cũng đánh dấu nhiều sự kiện quan trọng của đất nước trong công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế, trong đó có triển khai Cộng đồng ASEAN, các hiệp định thương mại tự do với các đối tác quan trọng. Tình hình trên đòi hỏi Bộ Tư pháp, với vai trò, trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về pháp luật và tư pháp, phải tiếp tục tích cực triển khai các nhiệm vụ công tác đối ngoại, hợp tác quốc tế theo yêu cầu của Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế và Chỉ thị số 15/CT-TTg ngày 07/7/2015 của Thủ tướng Chính phủ về tiếp tục triển khai Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế, Quyết định số 40/2016/QĐ-TTg ngày 07/01/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
Trên cơ sở yêu cầu nhiệm vụ công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế được xác định tại Nghị quyết số 01/2016/NQ-CP ngày 07/01/2016 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chỉ đạo, điều hành thực hiện phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách năm 2016, Bộ Tư pháp đã chú trọng đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, hợp tác quốc tế trên cả 2 bình diện song phương và đa phương.
Trong lĩnh vực hợp tác song phương, Bộ Tư pháp đã chủ động thiết lập quan hệ và ký kết Thỏa thuận hợp tác với đối tác mới như Adecbagian, làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác với các đối tác truyền thống như Nga, Hungary, Angeri, các nước láng giềng (Lào và Campuchia) và các nước đối tác chiến lược, đối tác toàn diện (Thái Lan, Pháp, Đức, Italia, Bỉ, Nhật Bản, Ôt-xtrâylia…).
Trong lĩnh vực hợp tác đa phương, Bộ Tư pháp đã chủ động đẩy mạnh hợp tác trong khu vực và tiếp cận hợp tác đa phương toàn cầu như chủ động, tích cực thực hiện các nghĩa vụ của quốc gia thành viên trong Hội nghị Lahay về tư pháp quốc tế, Công ước Lahay số 33 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế, hoàn tất thủ tục để gia nhập Công ước năm 1965 về tống đạt ra nước ngoài giấy tờ tư pháp và ngoài tư pháp trong lĩnh vực dân sự hoặc thương mại (dự kiến Việt Nam sẽ trở thành thành viên của Công ước này vào ngày 01/10/2016), tích cực tham gia các hoạt động trong khuôn khổ ASEAN, hoàn thành hồ sơ trình Chính phủ gia nhập Tổ chức quốc tế về phát triển luật (IDLO), phối hợp với Bộ Ngoại giao xây dựng hồ sơ gia nhập Tổ chức tham vấn pháp luật Á Phi (AALCO), xây dựng Kế hoạch triển khai thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng tại Công văn số 10668/VPCP-QHQT ngày 22/12/2015 phê duyệt Đề án nghiên cứu khả năng gia nhập tổ chức nhất thể hóa pháp luật tư (UNIDROIT). Việc Việt Nam tham gia tích cực vào các hoạt động của các tổ chức quốc tế nói trên đã đánh dấu sự hội nhập sâu rộng vào đời sống pháp lý quốc tế, là minh chứng thể hiện sự sẵn sàng hợp tác của Việt Nam với các nước trong khu vực nói riêng và trên thế giới nói chung trong việc cùng hỗ trợ nhau giải quyết những yêu cầu pháp lý quốc tế.
Trong công tác quản lý hoạt động đối ngoại, căn cứ Nghị định số 113/2014/NĐ-CP, Nghị định số 16/2016/NĐ-CP và các văn bản có liên quan, công tác quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế về pháp luật của Bộ đã được tăng cường. Cụ thể, Bộ đã ban hành các văn bản pháp luật nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật, đồng thời góp phần quản lý hiệu quả các hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật như: Chỉ thị số 02/CT-BTP ngày 08/4/2016 về việc tăng cường công tác quản lý hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật của Ngành Tư pháp, Quyết định số 954/QĐ-BTP ngày 25/4/2016 về Đề án thành lập Nhóm quan hệ đối tác pháp luật nhằm triển khai thực hiện Nghị định số 113/2014/NĐ-CP, Quyết định số 464/QĐ-BTP ngày 22/3/2016 về việc công bố thủ tục hành chính trong lĩnh vực quản lý hợp tác quốc tế về pháp luật thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp, Quyết định số 1068/QĐ-BTP ngày 16/5/2016 về Đề án tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế của Bộ Tư pháp giai đoạn 2016-2020. Đặc biệt, triển khai tinh thần của Quyết định số 272-QĐ/TW ngày 21/01/2015 về việc ban hành Quy chế quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại (sau đây gọi là Quyết định số 272-QĐ/TW), Bộ đang khẩn trương hoàn thiện dự thảo Quyết định thay thế Quyết định số 406/QĐ-BTP ngày 29/11/2011 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quy chế quản lý hoạt động đối ngoại của Bộ Tư pháp.
Trong công tác thông tin đối ngoại, Bộ đã đẩy mạnh công tác thông tin đối ngoại việc thông qua việc ban hành Kế hoạch công tác thông tin đối ngoại của Bộ Tư pháp năm 2016. Trên cơ sở kế hoạch đã được xác định, Bộ cũng đã tăng cường việc cung cấp thông tin đối ngoại đến cán bộ, công chức của Bộ thông qua việc xây dựng và cung cấp Báo cáo thông tin đối ngoại quý. Nội dung Báo cáo thông tin đối ngoại không chỉ các thông tin đối ngoại chung của Đảng và Nhà nước mà còn tập trung thông tin toàn diện về hoạt động đối ngoại của Bộ Tư pháp. Bên cạnh đó, Bộ cũng chủ động phối hợp với Bộ Ngoại giao và các Bộ, ngành trong việc xây dựng và ký Quy chế phối hợp cung cấp thông tin đối ngoại với các cơ quan lãnh sự và hiện đang cùng với các cơ quan xác định cụ thể kế hoạch thực hiện Quy chế đã được ký.
Xét một cách tổng thể, 06 tháng đầu năm 2016 đã ghi nhận sự chủ động, nỗ lực của Bộ Tư pháp trong việc thực hiện và hoàn thành các nhiệm vụ được giao trong công tác đối ngoại. Đến nay, về cơ bản các công việc được đặt ra trong Kế hoạch công tác đối ngoại 06 tháng đầu năm của Bộ Tư pháp đã được thực hiện hoặc điều chỉnh hợp lý. Bên cạnh đó, Bộ còn triển khai nhiều hoạt động phát sinh ngoài kế hoạch với những kết quả đạt được rất đáng ghi nhận. Các hoạt động đối ngoại của Bộ được thực hiện trong 06 tháng đầu năm 2016 đều hướng đến mục tiêu tăng cường quan hệ hợp tác về pháp luật và tư pháp toàn cầu, khu vực và song phương, phục vụ cho việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước và các nhiệm vụ chính trị, trọng tâm của Bộ, Ngành Tư pháp trong năm 2016; đồng thời cho thấy sự lớn mạnh rõ nét trong quan hệ hợp tác về pháp luật và tư pháp giữa Bộ Tư pháp Việt Nam với các đối tác quốc tế.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đáng ghi nhận, công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế về pháp luật của Bộ Tư pháp còn gặp phải một số những khó khăn, vướng mắc như sau:
- Mặc dù công tác xây dựng Kế hoạch đối ngoại năm 2016 đã được Bộ Tư pháp chú trọng, bám sát các nội dung công tác chuyên môn của Bộ. Song do có những thay đổi, kiện toàn Lãnh đạo Bộ trong 06 tháng đầu năm nên một số hoạt động đối ngoại của Bộ Tư pháp theo kế hoạch được duyệt đã phải điều chỉnh. Bên cạnh đó, việc xây dựng, thẩm định, phê duyệt Đề án tổ chức Đoàn đi cũng còn gặp nhiều lúng túng, đặc biệt về hình thức của Đề án và tiêu chí đánh giá chất lượng của Đề án.
- Một số đối tác nước ngoài có thiện chí hợp tác với Bộ Tư pháp Việt Nam, tuy nhiên do cách thức hoạt động, trình tự, thủ tục nội bộ có sự khác biệt nên việc xây dựng, đàm phán và ký kết các Kế hoạch hợp tác năm bị chậm, ảnh hưởng đến việc triển khai các hoạt động cụ thể trong Kế hoạch.
- Vẫn còn có một số trường hợp việc gửi báo cáo chưa đúng thời hạn, nội dung của báo cáo còn mang tính hành chính, chưa đi sâu vào đánh giá nội dung chuyên môn, do vậy việc chia sẻ, khai thác kết quả hoạt động còn chưa hiệu quả.
Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế:
- Về thể chế: Việc xây dựng và ban hành Quy chế sửa đổi, bổ sung Quy chế quản lý hoạt động đối ngoại của Bộ hiện hành hoàn thành chậm hơn so với tiến độ đề ra, do vậy chưa cụ thể hóa kịp thời quy trình chung phù hợp với thực tiễn hoạt động của Bộ nên dẫn đến những lúng túng khó khăn trong thực hiện.
- Về cán bộ : Đội ngũ cán bộ thực hiện công tác đối ngoại còn thiếu, số lượng công chức trẻ chiếm tỷ lệ khá cao, trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giải quyết công việc, trong đó có kỹ năng thực hiện các hoạt động đối ngoại cũng còn hạn chế nhất định. Một số cán bộ đầu mối thực hiện hoạt động hợp tác quốc tế của các đơn vị cũng hoạt động chưa hiệu quả và chưa có cơ chế tạo sự gắn kết giữa Vụ Hợp tác quốc tế với đội ngũ cán bộ này.
- Về cơ chế phối hợp: Sự phối hợp giữa đơn vị đầu mối về công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế của Bộ Tư pháp và các đơn vị thực hiện hoạt động chưa thực sự tốt, đặc biệt trong việc xây dựng và phê duyệt Đề án Đoàn đi, tổ chức Đoàn hay đàm phán hình thành các chương trình, dự án hợp tác mới...
Trên cơ sở những khó khăn, hạn chế nêu trên, một số giải pháp đối với Bộ Tư pháp và kiến nghị đối với Bộ ngoại giao nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật trong thời gian tới bao gồm:
1. Giải pháp đối với Bộ Tư pháp
- Khẩn trương rà soát, hoàn thiện và ban hành Quy chế quản lý hoạt động đối ngoại của Bộ Tư pháp, đảm bảo các quy định của Quy chế cụ thể hóa đầy đủ, toàn diện và phù hợp với các nội dung tại Quyết định số 272-QĐ/TW, Nghị định số 113/2014/NĐ-CP và các văn bản khác về đối ngoại và hợp tác quốc tế có liên quan.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Ban Cán sự Đảng, Lãnh đạo Bộ trong việc thực hiện công tác đối ngoại và quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế về pháp luật; chỉ đạo sát sao và phối hợp đồng bộ giữa các đơn vị thuộc Bộ trong việc triển khai thực hiện các hoạt động đã được đề ra trong Kế hoạch hoạt động đối ngoại năm 2016 (cấp Bộ và cấp Vụ) đã được phê duyệt.
- Tổ chức các tập huấn về kỹ năng đối ngoại, phổ biến những chính sách mới của Đảng và Nhà nước, các quy định của pháp luật cho đội ngũ cán bộ đầu mối về hợp tác quốc tế của các đơn vị thuộc Bộ nhằm nâng cao nhận thức, kỹ năng, tính chuyên nghiệp, năng động cho đội ngũ này.
- Chủ động trao đổi, làm việc với các đối tác nước ngoài nhằm xây dựng cơ chế phối hợp linh hoạt, chủ động và phù hợp với quy định của hai bên, tránh tình trạng do sự khác biệt trong quy định nội bộ làm ảnh hưởng đến việc triển khai thực hiện hoạt động của các chương trình, dự án, hoạt động phi dự án.
2. Kiến nghị đối với Bộ Ngoại giao
- Trên cơ sở báo cáo tổng kết từ các Bộ, ngành, khẩn trương rà soát, ban hành Quyết định thay thế Quyết định số 76/2010/QĐ-TTg, để bảo đảm sự thống nhất với các quy định của các văn bản có liên quan như Quyết định số 272-QĐ/TW, Nghị định số 16/2016/NĐ-CP, Nghị định số 93/2009/NĐ-CP, Nghị định số 113/2014/NĐ-CP, bảo đảm sự phù hợp với thực tiễn công tác quản lý nhà nước đối với việc tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế. Bộ Tư pháp cũng đã có Báo cáo số 1056/BTP-HTQT ngày 05/4/2016 gửi Bộ Ngoại giao về việc báo cáo tổng kết 05 năm thực hiện Quyết định số 76/2010/QĐ-TTg về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam, trong đó đưa ra các kiến nghị và đề xuất cụ thể cho việc sửa đổi Quyết định số 76/2010/QĐ-TTg.
- Tập huấn các quy định mới của Đảng và Nhà nước về quản lý, thực hiện hoạt động đối ngoại và hợp tác quốc tế, mở rộng các đối tượng tham gia theo nhiều hình thức phù hợp như: tổ chức hội thảo phổ biến, quán triệt biên soạn và cung cấp các tài liệu hướng dẫn, tổ chức các lớp tập huấn, lồng ghép vào đoàn kiểm tra đột xuất hoặc định kỳ…
- Chủ động, tích cực tìm kiếm, vận động, đàm phán với các đối tác nước ngoài, bao gồm các quốc gia, các vùng lãnh thổ và các tổ chức quốc tế nhằm huy động sự hỗ trợ về tài chính và chuyên gia để thực hiện các chương trình, dự án hợp tác quốc tế hỗ trợ thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của cơ quan, tổ chức.
- Chú trọng đến công tác theo dõi, hướng dẫn, tổng kết, chia sẻ thông tin về hoạt động đối ngoại và hợp tác quốc tế; định kỳ hàng năm tổ chức các Đoàn kiểm tra tại các Bộ, ngành ở Trung ương, các cơ quan ở địa phương, các tổ chức xã hội nhằm nắm bắt những thông tin chính xác, kịp thời về tình hình thực hiện hoạt động đối ngoại và hợp tác quốc tế; đồng thời kịp thời phát hiện những sai phạm để đưa ra những biện pháp phù hợp nhằm chấn chỉnh và đảm bảo cho các hoạt động nói trên tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật.