Tình hình thực hiện công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế về pháp luật năm 2016 của Bộ Tư pháp
Sign In

Tình hình thực hiện công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế về pháp luật năm 2016 của Bộ Tư pháp

Đánh giá những kết quả đạt được, những khó khăn, vướng mắc trong công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế của Bộ Tư pháp, từ đó đề xuất những kiến nghị, giải pháp giải quyết những vướng mắc, khó khăn và nâng cao hiệu quả hoạt động của công tác này trong thời gian tới

Năm 2016 là năm diễn ra nhiều sự kiện có ý nghĩa quan trọng, năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2016 - 2020 với những định hướng, chính sách cho giai đoạn phát triển tiếp theo; bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV; thay đổi bộ máy lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Chính phủ nói chung và Bộ Tư pháp nói riêng. Trong lĩnh vực đối ngoại và hội nhập quốc tế, năm 2016 cũng là thời điểm Việt Nam tích cực thúc đẩy thực hiện các cam kết trong cộng đồng ASEAN và WTO, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và hội nhập quốc tế với tầm mức sâu rộng. Cùng với những bước tiến quan trọng trong quá trình đối nội và đối ngoại của đất nước, Bộ Tư pháp, với vai trò là cơ quan giúp Chính phủ trong việc thực hiện quản lý nhà nước về hợp tác pháp luật và tư pháp, đã tích cực tham gia các hoạt động đối ngoại và hợp tác quốc tế theo yêu cầu của Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế, Chỉ thị số 15/CT-TTg ngày 07/7/2015 của Thủ tướng Chính phủ về tiếp tục triển khai Nghị quyết số 22-NQ/TW và Quyết định số 40/2016/QĐ-TTg ngày 07/01/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. 
Trên cơ sở yêu cầu nhiệm vụ công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế được xác định tại Nghị quyết số 01/2016/NQ-CP ngày 07/01/2016 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chỉ đạo, điều hành thực hiện phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách năm 2016, Bộ Tư pháp đã chú trọng đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, hợp tác quốc tế trên cả hai bình diện song phương và đa phương và đã đạt được một số kết quả nổi bật sau đây:
- Về hợp tác song phương, trong năm 2016, Bộ Tư pháp đã đàm phán thành công và ký 08 Chương trình hợp tác nhằm triển khai thực hiện các Thỏa thuận hợp tác do Bộ Tư pháp đã ký trước đó. Thông qua việc thực hiện các Thỏa thuận, kế hoạch, chương trình hợp tác, Bộ Tư pháp đã thúc đẩy các quan hệ hợp tác quốc tế với các đối tác theo hướng thắt chặt hơn nữa tình đoàn kết hữu nghị anh em Việt – Lào, tiếp tục làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác với một số nước xã hội chủ nghĩa trước đây (như LB Nga, Hungary), thúc đẩy quan hệ hợp tác với các đối tác truyền thống, chiến lược, toàn diện (như Pháp, Đức, Nhật Bản, Singapore, Thái Lan, Campuchia), thiết lập và tăng cường quan hệ hợp tác với các đối tác mới (như Cộng hòa A-déc-bai-gian, Cộng hòa Italia, Algeria...). Bộ cũng đã quyết định thành lập Nhóm chuyên gia Việt Nam của Tổ công tác hỗn hơp Việt Nam - Liên bang Nga để tăng cường sự giao lưu, hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm về kết quả, thành tựu trong xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật của hai nước.
Năm 2016 là năm đánh dấu bước đột phá trong hợp tác pháp luật và tư pháp Việt – Lào, đưa quan hệ hợp tác ngày càng đi vào chiều sâu và thực chất. Chỉ trong vòng 01 năm, hai bên đã tiến hành trao đổi 08 đoàn công tác và 09 lượt cán bộ được cử sang thăm và làm việc tại Lào và Việt Nam. Nổi bật nhất là việc Bộ Tư pháp hai nước đã phối hợp tổ chức Hội nghị Tư pháp các tỉnh có chung đường biên giới Việt – Lào mở rộng lần thứ ba tại Thanh Hóa trong ngày 27/9/2016. Sự kiện thu hút sự tham gia của 130 cán bộ của hai Bộ Tư pháp Việt Nam và Lào, các Sở Tư pháp và cơ quan thi hành án 13 tỉnh của Việt Nam và 18 tỉnh của Lào cùng đại diện một số Bộ, ngành hữu quan của Việt Nam. Hội nghị đã đánh giá tương đối toàn diện, sâu sắc về kết quả hợp tác thời gian qua và đề ra phương hướng hợp tác thiết thực, khả thi, đi vào chiều sâu trong thời gian tới giữa hai Bộ Tư pháp, giữa các cơ quan tư pháp, thi hành án địa phương hai nước, nhất là hợp tác giữa các tỉnh có chung đường biên giới, góp phần nâng cao hiệu quả công tác tư pháp, hiểu biết pháp luật của người dân khu vực biên giới.
Bên lề Hội nghị nêu trên, Bộ trưởng Tư pháp Việt Nam Lê Thành Long và Bộ trưởng Tư pháp Lào Xay-xỉ Xẳn-ti-vông đã ký kết Biên bản Thỏa thuận giữa hai Bộ Tư pháp về việc triển khai Dự án Hỗ trợ Học viện Tư pháp Lào sử dụng nguồn vốn viện trợ của Chính phủ Việt Nam dành cho Lào trong khuôn khổ Thỏa thuận về Kế hoạch hợp tác năm 2016 giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Lào ký ngày 27/12/2015. Đây là dự án cung cấp viện trợ đầu tiên trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp của Việt Nam được chính thức xây dựng và triển khai, thể hiện sự chủ động, sáng tạo, sự quyết tâm của Bộ Tư pháp trong việc thúc đẩy hơn nữa quan hệ hợp tác pháp luật và tư pháp với Lào – đối tác truyền thống đặc biệt quan trọng trong chiến lược đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Dự án này sẽ là “cú hích” quan trọng nhằm tăng cường năng lực, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực pháp luật cho Lào, góp phần tích cực hỗ trợ thực hiện thành công một trong ba trụ cột của Chiến lược xây dựng hệ thống pháp luật và tư pháp của Lào, đóng góp chung vào việc củng cố quốc phòng, an ninh và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh quan hệ quốc tế có nhiều biến động.
- Về hợp tác đa phương toàn cầu, năm 2016 đánh đấu bước phát triển mạnh mẽ trong hợp tác đa phương toàn cầu trong lĩnh vực pháp luật. Bộ Tư pháp đã hoàn thành việc nghiên cứu và trình Chính phủ thông qua Nghị quyết số 77/NQ-CP về việc Việt Nam gia nhập Tổ chức quốc tế về luật phát triển (IDLO) và ngày 29/11/2016, Hội nghị thường niên của IDLO đã chính thức thông qua việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của IDLO. Cũng trong năm 2016, Bộ Tư pháp đã hoàn thành việc gia nhập Công ước năm 1965 về tống đạt ra nước ngoài giấy tờ tư pháp và ngoài tư pháp trong lĩnh vực dân sự hoặc thương mại (Công ước chính thức có hiệu lực đối với Việt Nam kể từ ngày 1/10/2016). Đồng thời, Bộ cũng tiếp tục duy trì sự tham gia tích cực trong thực hiện các nghĩa vụ của quốc gia thành viên trong Hội nghị Lahay về tư pháp quốc tế, Công ước Lahay số 33 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế; thiết lập khuôn khổ hợp tác với các đối tác mới như OECD, các thiết chế giải quyết tranh chấp quốc tế (PCA, ICSID; xây dựng Kế hoạch triển khai thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng tại Công văn số 10668/VPCP-QHQT ngày 22/12/2015 phê duyệt Đề án nghiên cứu khả năng gia nhập tổ chức nhất thể hóa pháp luật tư (UNIDROIT) và tăng cường các hoạt động hợp tác với các định chế tài chính như WB, IFC. Với Liên hợp quốc, Bộ Tư pháp đã phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng Liên hợp quốc xây dựng Kế hoạch Chiến lược chung giai đoạn 2017-2021 giữa Chính phủ Việt Nam và các tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp quốc (Kế hoạch Một Liên hợp quốc); phối hợp cùng với UNDP, UNICEF, UNWOMEN xây dựng các Chương trình quốc gia hợp tác giai đoạn 2017 – 2021 với các đối tác này, trong đó xác định trọng tâm nội dung hợp tác pháp luật và tư pháp.
- Về hợp tác đa phương khu vực, trong hợp tác với ASEAN, Bộ Tư pháp đã phối hợp với Bộ Ngoại giao và các Bộ, ngành liên quan xây dựng và trình phê duyệt Đề án về Phương hướng và biện pháp Việt Nam tham gia đến năm 2025 và Đề án Việt Nam tham gia hoạt động ASEAN năm 2016, trong đó có định hướng về hợp tác pháp luật; tích cực triển khai các sáng kiến của Hội nghị Bộ trưởng Tư pháp các nước ASEAN (ALAWMMM). Bên cạnh đó, Bộ cũng đã ban hành Kế hoạch tuyên truyền, quảng bá pháp luật và tư pháp trong ASEAN của ngành Tư pháp năm 2015 - 2016 và đang dự thảo Kế hoạch hành động của Bộ Tư pháp tham gia hợp tác ASEAN đến năm 2025; phối hợp với các nước trong khu vực chuẩn bị tổ chức Hội thảo quốc tế về trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm gia nhập, thực thi các Công ước của Hội nghị Lahay về Tư pháp quốc tế ở Việt Nam. Các hoạt động hợp tác với EU tiếp tục được triển khai, Bộ Tư pháp đang cùng với EU hoàn thiện văn kiện Dự án “Tăng cường pháp luật và tư pháp tại Việt Nam” và triển khai hoạt động của Tiểu ban EU-Việt Nam hợp tác về xây dựng thể chế, cải cách hành chính, quản trị và nhân quyền trong bối cảnh Hiệp định Đối tác và Hợp tác toàn diện Việt Nam – EU (PCA) 2012.
Bên cạnh đó, trong lĩnh vực quản lý hoạt động đối ngoại, thực hiện yêu cầu của Quyết định số 272-QĐ/TW ngày 21/01/2015 về việc ban hành Quy chế quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại và Hướng dẫn số 01-HD/BĐNTW hướng dẫn Quyết định số 272-QĐ/TW, Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 1486/QĐ-BTP ngày 12/7/2016 ban hành Quy chế quản lý hoạt động đối ngoại của Bộ Tư pháp nhằm cụ thể hóa các quy định của Quyết định số 272-QĐ/TW và Hướng dẫn số 01-HD/BĐNTW, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình thực hiện các hoạt động đối ngoại của Bộ Tư pháp. Bên cạnh đó, công tác quản lý hợp tác quốc tế về pháp luật cũng được Bộ Tư pháp chú trọng thông qua triển khai có hiệu quả các nhiệm vụ được quy định tại Nghị định số 113/2014/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý hợp tác quốc tế về pháp luật như thiết lập và duy trì hoạt động của Nhóm quan hệ đối tác pháp luật; thẩm định, cho ý kiến dự thảo văn kiện chương trình, dự án hợp tác pháp luật; tổ chức tập huấn công tác hợp tác quốc tế về pháp luật; thành lập Đoàn kiểm tra liên ngành về công tác hợp tác quốc tế về pháp luật…
Nhìn chung, công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế về pháp luật trong năm 2016 đã cơ bản hoàn thành theo kế hoạch đề ra, quán triệt nguyên tắc thiết thực, hiệu quả, tiết kiệm. Các hoạt động đối ngoại của Bộ được thực hiện trong năm 2016 đều hướng đến mục tiêu tăng cường quan hệ hợp tác về pháp luật và tư pháp toàn cầu, khu vực và song phương, phục vụ cho việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước và các nhiệm vụ chính trị, trọng tâm của Bộ, Ngành Tư pháp trong năm 2016; đồng thời cho thấy sự lớn mạnh rõ nét trong quan hệ hợp tác về pháp luật và tư pháp giữa Bộ Tư pháp Việt Nam với các đối tác quốc tế.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đáng khích lệ đã đạt được trong năm 2016, công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế về pháp luật của Bộ Tư pháp cũng gặp phải một số những khó khăn, vướng mắc như sau:
- Mặc dù công tác xây dựng Kế hoạch đối ngoại năm 2016 đã được Bộ Tư pháp chú trọng, bám sát các nội dung công tác chuyên môn của Bộ, song do có những thay đổi, kiện toàn Lãnh đạo Bộ nên một số hoạt động đối ngoại của Bộ Tư pháp theo kế hoạch được duyệt đã phải điều chỉnh.
- Một số đối tác nước ngoài có thiện chí hợp tác với Bộ Tư pháp Việt Nam, tuy nhiên do cách thức hoạt động, trình tự, thủ tục nội bộ có sự khác biệt nên việc xây dựng, đàm phán và ký kết các Kế hoạch hợp tác năm bị chậm, có trường hợp phải dừng đàm phán, dẫn đến nhiều hoạt động trong khuôn khổ chương trình, dự án chậm được triển khai theo Kế hoạch đã được phê duyệt và tập trung thực hiện nhiều vào thời điểm kết thúc năm Kế hoạch của Dự án. Mặt khác, khi Việt Nam trở thành quốc gia có thu nhập trung bình, chính sách của các đối tác phát triển có nhiều thay đổi, tác động lớn đến định hướng và phương thức hợp tác, trong đó có hợp tác trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp. 
- Công tác chia sẻ thông tin, kết quả hợp tác quốc tế về pháp luật chưa thực sự phát huy hiệu quả do các báo cáo kết quả hoạt động hợp tác còn mang tính hành chính, chưa đi sâu vào đánh giá nội dung chuyên môn.
Trên cơ sở những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện hoạt động đối ngoại và hợp tác quốc tế, có thể đưa ra một số đề xuất, kiến nghị nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế nêu trên và góp phần tăng cường hiệu quả công tác này trong thời gian tới, đó là:
1. Tăng cường sự lãnh đạo của Lãnh đạo Bộ Tư pháp trong việc thực hiện công tác đối ngoại và quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế về pháp luật; chỉ đạo sát sao và phối hợp đồng bộ giữa các đơn vị thuộc Bộ trong việc triển khai thực hiện các hoạt động đã được đề ra trong Kế hoạch hoạt động đã được phê duyệt.
2. Tổ chức các tập huấn về kỹ năng đối ngoại, phổ biến những chính sách mới của Đảng và Nhà nước, các quy định của pháp luật cho đội ngũ cán bộ đầu mối về hợp tác quốc tế của các đơn vị thuộc Bộ nhằm nâng cao nhận thức, kỹ năng, tính chuyên nghiệp, năng động cho đội ngũ này.
3. Chủ động trao đổi, làm việc với các đối tác nước ngoài nhằm xây dựng cơ chế phối hợp linh hoạt, chủ động và phù hợp với quy định của hai bên, tránh tình trạng do sự khác biệt trong quy định nội bộ làm ảnh hưởng đến việc triển khai thực hiện hoạt động của các chương trình, dự án, hoạt động phi dự án.
4. Tích hợp phối hợp với Bộ Ngoại giao trong quá trình xây dựng Quyết định thay thế Quyết định số 76/2010/QĐ-TTg, để bảo đảm sự thống nhất với các quy định của các văn bản có liên quan như Quyết định số 272-QĐ/TW, Nghị định số 16/2016/NĐ-CP, Nghị định số 93/2009/NĐ-CP, Nghị định số 113/2014/NĐ-CP, bảo đảm sự phù hợp với thực tiễn công tác quản lý nhà nước đối với việc tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế; đồng thời cập nhật cập nhật thường xuyên tình hình và quan điểm chỉ đạo mới của Đảng và Nhà nước về công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế.