Công tác hợp tác quốc tế Bộ Tư pháp - Chặng đường phát triển 35 năm qua
Sign In

Công tác hợp tác quốc tế Bộ Tư pháp - Chặng đường phát triển 35 năm qua

I. SƠ LƯỢC ĐẶC ĐIỂM, TÌNH HÌNH VỤ HỢP TÁC QUỐC TẾ
1. Đặc điểm, tình hình
a) Quá trình thành lập và cơ cấu đơn vị
Cơ sở ban đầu về sự cần thiết thành lập một đơn vị chuyên trách về hợp tác quốc tế về pháp luật được đặt ra từ đầu những năm 1980, khi đoàn đại biểu Ủy ban Pháp chế (thuộc Hội đồng Chính phủ) tham dự Hội nghị Bộ trưởng Tư pháp các nước XHCN lần thứ VI được tổ chức tại Praha (Tiệp Khắc). Sau đó, vào năm 1981, Ủy ban Pháp chế đã trình Bộ Chính trị và Thường vụ Hội đồng Chính phủ “Đề án tổ chức Bộ Tư pháp”, trong đó 1 trong 10 chức năng chính của Bộ Tư pháp là “thực hiện việc hợp tác quốc tế về các vấn đề tư pháp”. Ngày 20/11/1981, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quyết định số 261/QĐ-TC về việc thành lập Phòng Pháp luật quốc tế và Hợp tác quốc tếtrực thuộc Bộ trưởng nhằm tham mưu, giúp Bộ trưởng trong việc thực hiện việc hợp tác quốc tế về tư pháp và pháp lý theo đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Trước yêu cầu đặt ra ngày càng cao về công tác quan hệ quốc tế của Bộ, Ngành Tư pháp, ngày 25/4/1987, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã có Quyết định số 117/QĐ.TC thành lập Vụ Pháp luật quốc tế và Hợp tác quốc tế và đổi tên thành Vụ Hợp tác quốc tế từ năm 1993 đến nay (theo Nghị định số 38-CP ngày 4/6/1993). Trải qua 35 năm xây dựng và phát triển, Vụ Hợp tác quốc tế được xác định là đơn vị thuộc Bộ Tư pháp, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế về pháp luật trong phạm vi cả nước; quản lý và tổ chức thực hiện hoạt động đối ngoại của Bộ theo quy định của pháp luật và Quy chế quản lý hoạt động đối ngoại của Bộ Tư pháp.
Cơ cấu tổ chức và biên chế của Vụ hiện nay bao gồm:
- Lãnh đạo Vụ: Vụ trưởng và 03 Phó Vụ trưởng;
- Phòng Tổng hợp, hành chính và quản lý hợp tác quốc tế về pháp luật;
- Phòng Hợp tác quốc tế khu vực châu Âu, châu Mỹ;
- Phòng Hợp tác quốc tế khu vực châu Á, châu Phi, châu Đại dương.
Ngoài ra, Vụ Hợp tác quốc tế được giao giúp Bộ trưởng quản lý Ban Quản lý dự án chuyên trách của Bộ Tư pháp(Ban này quản lý các chương trình, dự án ODA do Bộ Tư pháp là cơ quan chủ quản). Các thành viên trong Ban gồm công chức Vụ Hợp tác quốc tế, Cục Kế hoạch Tài chính và có thể có đại diện cơ quan ngoài Bộ Tư pháp (tùy từng Dự án cụ thể Ban được giao quản lý) và hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm.
Vụ được giao 25 biên chế (thực tế đang sử dụng 17 biên chế) trong đó có 02 tiến sĩ, 10 thạc sĩ và các công chức đều có trình độ đại học chuyên ngành phù hợp với vị trí công việc đảm nhận.
Về các tổ chức đoàn thể, sau khi Vụ Hợp tác quốc tế được thành lập, các tổ chức đoàn thể của Vụ cũng được quan tâm kiện toàn kịp thời, bao gồm Chi bộ, Công đoàn, Nữ công, Chi đoàn thanh niên. Hiện tại các tổ chức đoàn thể đều hoạt động có hiệu quả và đã đạt được nhiều thành tích, như: Chi bộ trong sạch vững mạnh, Công đoàn cơ sở vững mạnh, xuất sắc; Chi đoàn hoàn thành xuất sắc công tác đoàn và phong trào thanh niên.
b) Cơ sở vật chất
          Hiện nay, Vụ được bố trí trong trụ sở Bộ tại 58 - 60 Trần Phú, Ba Đình, Hà Nội và được trang cấp như đối với các đơn vị thuộc Bộ. Mặc dù điều kiện làm việc và trang thiết bị vẫn còn bất cập, nhưng Vụ đã và đang tích cực nỗ lực phấn đấu, khắc phục các khó khăn để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
  2. Chức năng, nhiệm vụ được giao
Theo Quyết định số368/QĐ-BTP ngày 16/3/2018 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Vụ Hợp tác quốc tế, Vụ Hợp tác quốc tế là đơn vị thuộc Bộ có chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế về pháp luật; quản lý và tổ chức thực hiện hoạt động đối ngoại của Bộ theo quy định của pháp luật và Quy chế quản lý hoạt động đối ngoại của Bộ Tư pháp.
Triển khai thực hiện chức năng này, Vụ Hợp tác quốc tế có các nhiệm vụ chính sau đây:
1. Xây dựng, trình Bộ trưởng kế hoạch công tác dài hạn, 5 năm và hàng năm của Vụ; tham gia xây dựng chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển dài hạn, 5 năm và hàng năm của ngành Tư pháp.
            2. Đề xuất, xây dựng chiến lược, đề án, văn bản về hợp tác quốc tế về pháp luật của Bộ Tư pháp để Bộ trưởng trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền.
3.Chủ trì xây dựng các dự thảo điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế về hợp tác với nước ngoài về pháp luật của Bộ (bao gồm cả điều ước quốc tế, thỏa thuận về vốn ODA và vốn vay ưu đãi) để Bộ trưởng trình cơ quan có thẩm quyền quyết định đàm phán, ký kết hoặc quyết định đàm phán, ký kết theo thẩm quyền.
4. Đề xuất gia nhập các tổ chức quốc tế, diễn đàn quốc tế trong lĩnh vực pháp luật; giúp Bộ trưởng thực hiện nhiệm vụ là cơ quan đầu mối quốc gia trong quan hệ với Tổ chức quốc tế về Luật phát triển (IDLO) và các quốc gia thành viên IDLO; tham gia hoạt động của các tổ chức quốc tế, diễn đàn quốc tế theo sự phân công của Bộ trưởng.
5.Thẩm định, góp ý xây dựng dự thảo điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế.
6. Tổ chức triển khai thực hiện chiến lược, chương trình, kế hoạch, dự án và văn bản quy phạm pháp luật, điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế thuộc phạm vi chức năng của Vụ.
7. Rà soát, hệ thống hóa, hợp nhất các văn bản quy phạm pháp luật thuộc phạm vi chức năng của Vụ.
8.Quản lý hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật trong phạm vi cả nước.
9. Thực hiện nhiệm vụ cơ quan đầu mối về công tác thỏa thuận quốc tế của Bộ Tư pháp.
10.Xây dựng và quản lý chương trình, dự án, phi dự án của Bộ Tư pháp.
11. Quản lý các hội nghị, hội thảo quốc tế của Bộ Tư pháp.
12. Xây dựng và thực hiện Kế hoạch đối ngoại (đoàn ra, đoàn vào) của Bộ Tư pháp.
13. Quản lý và tổ chức thực hiện các hoạt động thông tin đối ngoại trong phạm vi, lĩnh vực quản lý nhà nước được giao theo quy định của pháp luật về thông tin đối ngoại:
14.Quản lý và điều phối hoạt động của Nhóm biên, phiên dịch của Bộ Tư pháp, tham gia xây dựng và đào tạo, bồi dưỡng Nhóm biên, phiên dịch và đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại của Bộ thuộc phạm vi chức năng của Vụ theo quy định của pháp luật và phân cấp của Bộ.
15.Tổ chức thực hiện công tác lễ tân đối ngoại theo quy định của Quy chế quản lý hoạt động đối ngoại của Bộ.
16. Theo dõi tình hình thi hành pháp luật, đề xuất sửa đổi, hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực công tác được giao.
17. Tham gia nghiên cứu khoa học, phổ biến, giáo dục pháp luật thuộc phạm vi chức năng của Vụ theo quy định của pháp luật và phân cấp của Bộ.
18. Tổ chức sơ kết, tổng kết, thực hiện chế độ báo cáo, thống kê về lĩnh vực, nhiệm vụ thuộc phạm vi chức năng của Vụ theo quy định của pháp luật.
19. Tổ chức kiểm tra, tham gia thanh tra việc chấp hành các quy định của pháp luật trong lĩnh vực thuộc phạm vi chức năng của Vụ; phát hiện và đề nghị cấp có thẩm quyền xử lý đối với cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật; giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật và phân cấp của Bộ.
20. Thực hiện công tác thi đua - khen thưởng và quản lý đội ngũ công chức, tài sản của Vụ theo quy định của pháp luật và phân cấp của Bộ.
          21. Thực hiện các nhiệm vụ khác do Bộ trưởng giao hoặc theo quy định của pháp luật.
II. THÀNH TÍCH ĐẠT ĐƯỢC
Trong 35 năm qua, được sự quan tâm chỉ đạo sát sao, kịp thời của Ban Cán sự đảng, Lãnh đạo Bộ Tư pháp, sự phối hợp công tác có hiệu quả của các cơ quan, đơn vị trong và ngoài Bộ, cùng với sự nỗ lực, phấn đấu hết mình của tập thể lãnh đạo, công chức trong đơn vị, Vụ Hợp tác quốc tế đã liên tục hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao, đảm nhận thành công vai trò giúp Đảng, Chính phủ và Lãnh đạo Bộ Tư pháp thực hiện quản lý nhà nước đối với các hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp trong phạm vi cả nước; tạo điều kiện và không ngừng vun đắp và thúc đẩy quan hệ hợp tác với các đối tác quốc tế trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp, đưa công tác pháp luật và tư pháp Việt Nam từng bước hội nhập sâu, rộng, hiệu quả trên sân chơi quốc tế.Với những cố gắng không ngừng, năm 2002, Vụ Hợp tác quốc tế đã được Chủ tịch nước trao tặng Huân chương lao động hạng ba vì đã có thành tích xuất sắc trong công tác từ năm 1997 đến năm 2001 góp phần vào sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc; liên tục nhiều năm sau đó, Vụ Hợp tác quốc tế được công nhận là Tập thể lao động xuất sắc; năm 2018, Vụ được tặng Cờ thi đua Ngành Tư pháp, tập thể điển hình tiên tiến ngành Tư pháp giai đoạn 2015-2020. Năm 2019, Vụ Hợp tác quốc tế cũng được Bộ trưởng Bộ Công an tặng Bằng khen về đã có thành tích xuất sắc trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc năm 2019. Với vai trò là cầu nối thiết lập, duy trì và phát triển các mối quan hệ hợp tác quốc tế phục vụ các yêu cầu, nhiệm vụ chuyên môn, Vụ Hợp tác quốc tế còn được nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị ghi nhận những đóng góp tích cực trong quá trình phát triển của các ngành, lĩnh vực chuyên môn thông qua việc đề xuất và trao Bằng khen của Bộ trưởng cho Vụ Hợp tác quốc tế. Các đối tác quốc tế cũng đánh giá rất cao vai trò và những nỗ lực của Vụ Hợp tác quốc tế, đặc biệt Chủ tịch nước CHDCND Lào trong năm 2017 đã quyết định trao tặng Vụ Hợp tác quốc tế Huân chương Lao động hạng Hai vì thành tích trong việc thúc đẩy quan hệ tư pháp Việt Nam-Lào.
Khái quát thành tích nổi bật Vụ Hợp tác quốc tế đã đạt được trong thời gian qua như sau:
1. Tăng cường quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực pháp luật, cải cách tư pháp, đảm bảo giữ vững nguyên tắc độc lập, chủ quyền quốc gia, không để nước ngoài áp đặt hoặc lợi dụng quan hệ hợp tác để can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam
- Quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực pháp luật và cải cách tư pháp là nhiệm vụ đặc thù của Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Tư pháp. Nhiệm vụ này bắt đầu được Ban Bí thư giao cho Bộ Tư pháp từ năm 1995 khi Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 57-CT/TW ngày 08/8/1995 về hợp tác với nước ngoài về pháp luật và cải cách hành chính. Thể chế hóa các yêu cầu quản lý đối với hoạt động hợp tác quốc tế tại Chỉ thị số 57-CT/TW, ngày 26/12/1998, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 103/1998/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý hợp tác với nước ngoài về pháp luật. Theo đó, Vụ Hợp tác quốc tế có nhiệm vụ tham mưu giúp Bộ trưởng thực hiện công tác quản lý thống nhất các hoạt động hợp tác với nước ngoài về pháp luật. Công tác quản lý nhà nước được thực hiện trên cơ sở tuân thủ nghiêm các nguyên tắc, nhiệm vụ và giải pháp đối với công tác hợp tác với nước ngoài về pháp luật và cải cách hành chính của Chỉ thị 57-CT/TW. Mặc dù là nhiệm vụ mới, nhưng ngay từ những ngày đầu được giao, Vụ Hợp tác quốc tế đã cố gắng để thực hiện vai trò quản lý nhà nước đối với các hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật, không để xảy ra sơ suất trong quá trình hợp tác, góp phần giúp cho các hoạt động hợp tác trong lĩnh vực này đạt được những kết quả tích cực, nội dung, hình thức hợp tác ngày càng đa dạng, hợp lý, đối tác ngày càng mở rộng. Thông qua đó ta đã thu nhận được những thông tin pháp lý và kinh nghiệm cần thiết cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật, cải cách hành chính, cải cách tư pháp; đồng thời giới thiệu cho cộng đồng quốc tế hiểu rõ hơn về hệ thống pháp luật về cải cách hành chính và cải cách tư pháp của Việt Nam theo đường lối đổi mới của Đảng.
- Tham mưu Lãnh đạo Bộ phối hợp với Văn phòng Trung ương Đảng trong việc tổng kết tình hình thực hiện Chỉ thị số 57-CT/TW và trình Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 39-CT/TW ngày 09/12/2009 về hợp tác với nước ngoài về pháp luật, cải cách hành chính và cải cách tư pháp. Tại Chỉ thị số 39-CT/TW, Ban Bí thư đã giao Bộ Tư pháp có nhiệm vụ giúp Chính phủ quản lý nhà nước đối với các hoạt động hợp tác với nước ngoài về pháp luật và đồng thời bổ sung nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với với lĩnh vực cải cách tư pháp. Để triển khai nhiệm vụ được giao, Vụ Hợp tác quốc tế đã tham mưu Lãnh đạo Bộ:
+ Sơ kết, đánh giá tình hình thực hiện Nghị định số 78/20018/NĐ-CP và tham mưu với Chính phủ ban hành Nghị định số 113/2014/NĐ-CP thay thế Nghị định số 78/2008/NĐ-CP và Thông tư số 07/2015/TT-BTP ngày 15/6/2015 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết và biện pháp thi hành một số quy định của Nghị định số 113/2014/NĐ-CP, trong đó quy định cụ thể về các nguyên tắc, nội dung hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật cũng như quy trình, thủ tục và nhiệm vụ quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, các bộ, ngành liên quan và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
+ Tổ chức các hội nghị tập huấn thực hiện công tác hợp tác quốc tế pháp luật trong các năm 2012, 2015, 2016 và phối hợp với Bộ Công an tổ chức tập huấn  về công tác bảo đảm an ninh chính trị trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật năm 2018 cho khoảng hơn 600 lượt cán bộ của các Bộ, ngành, cơ quan, tổ chức ở trung ương, các Sở Tư pháp, một số Đoàn luật sư, Hội luật gia có tham gia thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật
+ Hàng năm, thực hiện cho ý kiến đối với việc tiếp nhận nhiều dự án, phi dự án; thẩm định, cho phép hoặc cho ý kiến đối với việc tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo quốc tế về pháp luật theo đề nghị của các cơ quan, tổ chức.
+ Trong giai đoạn 2015-2021, phối hợp với các cơ quan (Ban Đối ngoại Trung ương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Công an) tổ chức kiểm tra liên ngành tình hình thực hiện hợp tác quốc tế về pháp luật đối với khoảng 30 cơ quan, tổ chức ở Trung ương và các địa phương, góp phần đảm bảo thực hiện nghiêm các quy định về hợp tác quốc tế nói chung và hợp tác quốc tế về pháp luật nói riêng.
+ Hàng năm, thực hiện việc tổng hợp tình hình hợp tác quốc tế về pháp luật của các cơ quan, tổ chức ở Trung ương và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để xây dựng báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tình hình hợp tác quốc tế về pháp luật trong phạm cả nước, trong đó đề xuất, kiến nghị các giải pháp nhằm bảo đảm triển khai thực hiện hiệu quả hơn công tác này.
+ Triển khai xây dựng cơ sở dữ liệu hợp tác quốc tế về pháp luật gồm thông tin về các thỏa thuận, chương trình, dự án hợp tác quốc tế về pháp luật, các sản phẩm nghiên cứu, chia sẻ kinh nghiệm trong lĩnh vực pháp luật, kết quả các hội thảo... Cơ sở dữ liệu khi được hoàn thành sẽ hỗ trợ cho việc chia sẻ thông tin, kinh nghiệm có được từ hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật phục vụ cho thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.
+ Thành lập Nhóm quan hệ đối tác pháp luật từ năm 2016[1] theo quy định của Nghị định số 113/2014/NĐ-CP và hàng năm duy trì hoạt động của Nhóm với các hoạt động chính như tổ chức các Diễn đàn pháp luật, Diễn đàn đối tác pháp luật, Phiên đối thoại chính sách để chia sẻ tình hình thực hiện các nhiệm vụ xây dựng pháp luật, cải cách hành chính, cải cách tư pháp; tìm hiểu, tổng hợp nhu cầu hợp tác quốc tế về pháp luật của các cơ quan, tổ chức Việt Nam và đối tác quốc tế để trao đổi giữa các bên, tìm kiếm các khả năng, cơ hội hợp tác trong các nội dung, lĩnh vực hai bên cùng quan tâm.
- Năm 2019,Vụ Hợp tác quốc tế đã tham mưu, giúp Lãnh đạo Bộ Tư pháp triển khai tổng kết, đánh giá 10 năm việc thực hiện Chỉ thị số 39-CT/TW theo phân công của Ban cán sự đảng Chính phủ. Trên cơ sở kết quả tổng kết, Ban Bí thư đã ban hành Kết luận 73-KL/TW về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 39-CT/TW, trong đó xác định các định hướng, nhiệm vụ, giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động hợp tác với nước ngoài về pháp luật, cải cách hành chính và cải cách tư pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và hội nhập quốc tế trong tình hình mới. Theo Kết luận 73-KL/TW, Bộ Tư pháp tiếp tục được giao thêm nhiệm vụ giúp Ban Bí thư theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện Chỉ thị 39-CT/TW và Kết luận này. Đây là trách nhiệm và cũng là vinh dự của Bộ Tư pháp, thể hiện được vai trò của Bộ Tư pháp trong quản lý các hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp. Thực hiện nhiệm vụ được giao, Vụ Hợp tác quốc tế đã tham mưu Lãnh đạo Bộ triển khai và hoàn thành tốt các nhiệm vụ quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế về pháp luật trên phạm vi toàn quốc; tổ chức triển khai Kết luận số 73-KL/TW và tiếp tục nghiêm túc thực hiện các giải pháp để hạn chế sự tác động, can thiệp của đối tác nước ngoài thông qua các hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp. Cụ thể:
+ Tham mưu Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 84/QĐ-TTg về Kế hoạch thực hiện Kết luận 73-KL/TW; trình Bộ trưởng ban hành Quyết định số 686/QĐ-BTP ngày 30/11/2020 về Kế hoạch của Bộ Tư pháp về triển khai thực hiện Kết luận số 73-KL/TW.
+ Tổ chức Hội nghị quán triệt thực hiện Kết luận số 73-KL/TW về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 39-CT/TW của Ban Bí thư khóa X về hợp tác với nước ngoài trong lĩnh vực pháp luật, cải cách hành chính, cải cách tư pháp vào ngày 26/10/2021với sự tham gia của khoảng 100 đại biểu là đại diện của Văn phòng Trung ương Đảng, Ban Nội chính Trung ương, Ban Đối ngoại Trung ương, các Ban cán sự đảng, Lãnh đạo các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Lãnh đạo các cơ quan trung ương của các tổ chức, đoàn thể, UBND thành phố Hà Nội.
+ Tổ chức rà soát, đánh giá tình hình 7 năm thực hiện Nghị định 113/2014/NĐ-CP. Vụ HTQT đã có Báo cáo đánh giá và đề xuất các nội dung sửa đổi Nghị định 13/2014/NĐ-CP để đảm bảo phù hợp với các văn bản chỉ đạo của Đảng, các văn bản quy phạm pháp luậtcao hơn cũng như đáp ứng yêu cầu đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp trong giai đoạn tới. Trên cơ sở đề nghị của Bộ Tư pháp, Phó Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý với đề xuất nghiên cứu xây dựng Nghị định sửa đổi Nghị định số 113/2014/NĐ-CP để trình Chính phủ xem xét trong năm 2022.
+ Tổng kết, đánh giá Đề án tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về hợp tác pháp luật giai đoạn 2016-2020; xây dựng và trình Lãnh đạo Bộ ban hành Đề án đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp đối với hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp giai đoạn 2022-2026.
+ Phối hợp chặt chẽ với các đơn vị chức năng của Bộ Công an trong triển khai thực hiện các biện pháp pháp luật bảo đảm an ninh chính trị trong hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao, đặc biệt là phối hợp trong quá trình xây dựng các chương trình, dự án, phi dự án, các điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế, tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế về pháp luật; hướng dẫn, đôn đốc việc thực hiện Chỉ thị số 39-CT/TW, Kết luận số 73-KL/TW, kiểm tra và xử lý các vấn đề phát sinh trong quản lý nhà nước đối với công tác hợp tác quốc tế trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp.
Đánh giá chung, trong thời gian qua,Vụ Hợp tác quốc tế đã tham mưu giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp triển khai toàn diện, đồng bộ các nhiệm vụ quản lý nhà nước về các hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật theo các quy định về quản lý hợp tác pháp luật, quy định chung về quản lý thực hiện hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ. Nội dung và hình thức hợp tác có những chuyển hướng theo chiều sâu, thiết thực hơn, tiếp tục khai thác có hiệu quả lợi thế, kinh nghiệm của các đối tác nước ngoài cho hoạt động xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ pháp luật. Trách nhiệm của các cơ quan trong thực hiện hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật được cải thiện, bảo đảm thực hiện tốt hơn quy trình, thủ tục trong quản lý thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật, trực tiếp là quy định của Nghị định số 113/2014/NĐ-CP, cơ bản không để xảy ra những sai sót, vi phạm về an ninh, đối ngoại trong hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật. Việc phối hợp giữa Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Bộ Công an, Văn phòng Chính phủ trong quản lý thực hiện hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật được bảo đảm. Kết quả thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước đã góp phần góp phần nâng cao hiệu quả các hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật nói chung và của Bộ, ngành Tư pháp nói riêng, hỗ trợ tích cực cho việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và hội nhập quốc tế.
2. Không ngừng vun đắp và thúc đẩy quan hệ hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp qua từng giai đoạn theo phương châm đa dạng hóa, đa phương hóa, phục vụ ngày càng hiệu quả các nhiệm vụ cải cách pháp luật, cải cách tư pháp,xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
- Giai đoạn 1987 -1992: Quá trình thành lập và phát triển của Vụ Hợp tác quốc tế gắn liền với công cuộc Đổi mới và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Trong thời kỳ đầu mới thành lập, mặc dù còn rất non trẻ nhưng Vụ Hợp tác quốc tế đã có nhiều đóng góp và phục vụ hiệu quả cho yêu cầu tham khảo kinh nghiệm quốc tế nhằm nghiên cứu, xây dựng hệ thống pháp luật mới phục vụ quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường, chuyển từ nhà nước được tổ chức theo mô hình cũ sang nhà nước pháp quyền XHCN. Giai đoạn này, Vụ Hợp tác quốc tế đã chú trọng tới việc thể chế hóa những quy định liên quan đến điều ước quốc tế, hợp tác quốc tế, con nuôi quốc tế, tương trợ tư pháp...; tham gia thường xuyên vào các sự kiện pháp lý quốc tế của khối XHCN như Hội nghị Bộ trưởng Tư pháp các nước XHCN, Phiên họp thường kỳ của Ban Thường trực Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) về vấn đề pháp luật; thúc đẩy các quan hệ hợp tác song phương với Bộ Tư pháp các nước; cho ý kiến về pháp lý đối với các hiệp định của Chính phủ vay vốn nước ngoài và các dự thảo Điều ước quốc tế…
- Giai đoạn 1993 - 2007: đây là giai đoạn chức năng nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Vụ Hợp tác quốc tế có sự điều chỉnh, được bổ sung chức năng quản lý hợp tác với nước ngoài về pháp luật theo quy định của Nghị định số 103/1998/NĐ-CP ngày 26/12/1998 của Chính phủ và từ năm 2003tách mảng pháp luật quốc tế từ Vụ Hợp tác quốc tế để thành lập riêng Vụ Pháp luật quốc tế theo Nghị định số 62/2003/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp. Mặc dù có sự biến động, nhưng mảng công tác thúc đẩy quan hệ hợp tác với các đối tác quốc tế vẫn được Vụ Hợp tác quốc tế quan tâm thực hiện, duy trì và mở rộng hợp tác với nhiều nước và tổ chức quốc tế, quản lý, điều phối chặt chẽ các chương trình, dự án hợp tác pháp luật (với các tổ chức quốc tế như UNDP, ADB và với các quốc gia như Pháp (Nhà Pháp luật Việt - Pháp), Đức, Thụy Điển, Thụy Sỹ, Hà Lan, Canada…; chú trọng nhiệm vụ điều phối hoạt động hợp tác ở cấp vĩ mô nhằm tranh thủ tham khảo một cách có chọn lọc kinh nghiệm của nước ngoài đối với hoạt động xây dựng pháp luật, tăng cường thực thi pháp luật, đào tạo cán bộ pháp luật, thông tin pháp lý. Kết quả thực hiện nhiệm vụ hợp tác quốc tế giai đoạn này đã có đóng góp vào việc nghiên cứu, xây dựng cơ sở pháp lý cho thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, cụ thể như Bộ luật Dân sự năm 1995 (sửa đổi, bổ sung năm 2005), Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng Dân sự, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài năm 1993… Trong giai đoạn này, Vụ cũng đã tham mưu với Bộ trưởng để đề xuất với Chính phủ ký kết 13 Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự, hôn nhân và gia đình và hình sự với các nước nhằm bảo đảm sự bảo hộ pháp lý cho công dân Việt Nam ở các nước đó, ký kết các thỏa thuận hợp tác về pháp luật với các đối tác truyền thống, đặc biệt quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa ở Châu Âu tiếp tục được duy trì và tìm hướng phát triển mới phù hợp với tình hình chung của thế giới sau khi Liên Xô tan rã.
- Giai đoạn 2008-2015: bám sát đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, cùng với những thành tựu mà đất nước đã đạt được trong thời kỳ Đổi mới và hội nhập, Vụ Hợp tác quốc tế đã tham mưu Lãnh đạo Bộ Tư pháp triển khaicác giải pháp nhằm tăng cường và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế với các quốc gia và tổ chức quốc tế về tư pháp và pháp luật trên bình diện toàn cầu, khu vực và song phương.
Về hợp tác song phương, Vụ Hợp tác quốc tế đã tham mưu để thực hiện xây dựng, đàm phán và ký kết tổng cộng 72 thỏa thuận quốc tế, điều ước quốc tế với các quốc gia, lãnh thổ và các tổ chức quốc tế, trong đó có các đối tác quan trọng như CHDCND Lào, Campuchia, Liên bang Nga, Pháp, Cu-Ba, Cộng hòa Liên bang Đức, Úc, Cộng hòa Belarus, Nhật Bản… và 18 hiệp định và thỏa thuận tương trợ tư pháp với các nước.
Về hợp tác đa phương khu vực, các hoạt động hợp tác trong khuôn khổ ASEAN được tiếp tục thúc đẩy, đặc biệt là phát huy các sáng kiến của Việt Nam về tăng cường tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự và thương mại (tháng 11/2012). Ngoài ra, các hoạt động hợp tác với EU cũng được đẩy mạnh thông qua việc đàm phán và triển khai thực hiện hiệu quả các dự án hợp tác có sự tham gia thực hiện của Bộ Tư pháp, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tóa án nhân dân tối cao, Liên đoàn Luật sư Việt Nam và các tổ chức phi chính phủ thông qua Quỹ hỗ trợ các sáng kiến tư pháp.
Về hợp tác đa phương toàn cầu, với vai trò ngày càng tăng của các cơ chế đa phương, các tổ chức quốc tế, Bộ Tư pháp đã thay mặt Chính phủ Việt Nam trình thư của Việt Nam chính thức gia nhập Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế và chính thức trở thành thành viên từ ngày 10/4/2013, đề xuất gia nhập Liên minh Công chứng quốc tế (năm 2013). Ngoài ra, Vụ Hợp tác quốc tế  cũng tham mưu đẩy mạnh hợp tác thông qua việc xây dựng, đàm phán, ký kết và quản lý thực hiện các chương trình, dự án và hoạt động hợp tác về pháp luật với các cơ quan của Liên hợp quốc (UNDP, UNICEF, UNWOMEN, UNODC…), các tổ chức tài chính quốc tế và khu vực (WB, IFC, ADB…); các tổ chức hợp tác toàn cầu như OIF, OECD, APEC, ASEM…
- Giai đoạn 2016 đến nay: Vụ Hợp tác quốc tế đã tham mưu Bộ Tư pháp đàm phán, gia nhập Tổ chức quốc tế về Luật phát triển (IDLO), ký kết 02 Điều ước quốc tế về ODA và 24 thỏa thuận hợp tác (trong đó 12 thỏa thuận hợp tác chung và 12 thỏa thuận về ODA) và gần 40 chương trình, kế hoạch hợp tác hàng năm; tích cực triển khai thực hiện hơn 30 thỏa thuận hợp tác đã ký kết với các đối tác quốc tế. Quan hệ hợp tác quốc tế của Bộ, Ngành Tư pháp trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp được phát triển lên tầm cao mới, góp phần hỗ trợ tích cực việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Bộ, ngành với nhiều điểm nhấn như:
+ Tiếp tục thắt chặt quan hệ hữu nghị đặc biệt với Lào, Cam-pu-chia theo hướng đi vào chiều sâu, hiệu quả và thực chất hơn. Đặc biệt là kỷ niệm Năm đoàn kết hữu nghị Việt Nam - Lào (2017), Bộ Tư pháp Việt Nam đã tích cực phối hợp với Bộ Tư pháp Lào tổ chức nhiều hoạt động ý nghĩa với điểm nhấn là việc tổ chức thành công Lễ Kỷ niệm 35 năm hợp tác tư pháp Việt - Lào tại Viêng Chăn; trình phê duyệt Dự án ODA viện trợ đầu tiên trong lĩnh vực pháp luật của Chính phủ Việt Nam cho Bộ Tư pháp Lào. Các hội nghị tư pháp các tỉnh có chung đường biên giới Việt Nam - Lào do Bộ Tư pháp hai nước chủ trì cùng với nhiều hoạt động hợp tác với các địa phương có chung đường biên giới đã được tổ chức một cách thiết thực, hiệu quả... Với Campuchia, năm 2017 đánh dấu việc hai Bộ Tư pháp tổ chức thành công Hội nghị Tư pháp các tỉnh có chung đường biên giới Việt Nam - Campuchia lần thứ nhất tại Tây Ninh (2017) và lần thứ 2 tại Siêm Riệp (2019) đạt kết quả thiết thực.
+ Tăng cường hợp tác pháp luật và tư pháp với Cu Ba, nhất là sau chuyến thăm Việt Nam của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Cu-Ba vào cuối năm 2019. Hai bên đã thống nhất nhiều định hướng hợp tác về pháp luật giữa Việt Nam - Cu-Ba trong thời gian tới, trong đó có việc triển khai nghiên cứu, xây dựng Dự án hỗ trợ kỹ thuật trong lĩnh vực pháp luật cho Bộ Tư pháp Cu-Ba.
+ Quan hệ hợp tác với các đối tác truyền thống của Bộ, ngành Tư pháp tiếp tục được thúc đẩy với nhiều hoạt động hợp tác hiệu quả:
Với Liên bang Nga:hai bên đã thống nhấtthành lập và duy trì hoạt động của Tổ công tác hỗn hợp Việt Nam - Liên bang Nga, tham gia Diễn đàn pháp luật quốc tế Saint-Peterburg hàng năm do Liên bang Nga tổ chức và triển khai nhiều hoạt động hợp tác, trao đổi kinh nghiệm trong xây dựng và hoàn thiện các lĩnh vực pháp luật và quản lý công tác tư pháp giữa Bộ Tư pháp hai nước; đưa được nội dung hợp tác tư pháp giữa hai nước vào Tuyên bố chung về tầm nhìn chiến lược quan hệ Việt – Nga đến 2030 trong chuyến thăm chính thức LB Nga của Chủ tịch nước NXP vào tháng 12/2021;
Với CHLB Đức: tiếp tục trao đổi, thống nhất và triển khai thực hiện hiệu quả các Chương trình hợp tác 03 năm (giai đoạn 2019-2022 và đang thảo luận để tiếp tục thực hiện giai đoạn 2022-2025)trong khuôn khổ Chương trình đối thoại Nhà nước pháp quyền hỗ trợ cho các cơ quan pháp luật và tư pháp của Việt Nam như Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh…
Với Cộng hòa Pháp: duy trì, thúc đẩy quan hệ hợp tác pháp luật và tư pháp với các cơ quan pháp luật và tổ chức nghề tư pháp của Cộng hòa Pháp, bao gồm Bộ Tư pháp Pháp, Hội đồng công chứng tối cao Pháp và Hội đồng thừa phát lại quốc gia của Pháp, trong đó có việc thúc đẩy, kết nối quan hệ hợp tác giữa các tổ chức hành nghề luật sư, công chứng, thừa phát lại của Việt Nam với các đối tác của Pháp nhằm tranh thủ kinh nghiệm, hỗ trợ cho việc xây dựng và phát triển nghề tư pháp tại Việt Nam. Nói thêm mặc dù Nhà PLVP bị giải thể nhưng không ảnh hưởng…vẫn duy trì rất tốt quan hệ…
Với Nhật Bản: thống nhất và triển khai Dự án hợp tác giai đoạn 2021-2026 với JICA Nhật Bản hỗ trợ cho công tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật của Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ, Ban Nội chính Trung ương, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;
Với Singapore: tiếp tục thực hiện hiệu quả vai trò của cơ quan chủ trì các phiên họp Ủy ban hỗn hợp Việt Nam - Xinh-ga-po về hợp tác trong lĩnh vực tư pháp và pháp luật, trong đó có hỗ trợ cho việc đào tạo, nâng cao năng lực cho cán bộ trong công tác xây dựng pháp luật và tư pháp.
+ Hợp tác đa phương khu vực và toàn cầu tiếp tục được đẩy mạnh theo phương châm chủ động, trách nhiệm và hiệu quả với các hoạt độnghợp tác trong khuôn khổ ASEANthông qua cơ chế Hội nghị Bộ trưởng Tư pháp ASEAN ALAWMM và Hội nghị Quan chức Pháp luật cao cấp ASEAN ASLOM; tham dự các sự kiện được tổ chức trong khuôn khổ hợp tác ASEAN; hoàn thành tốt vai trò Chủ tịch ASEAN của Việt Nam trong năm 2020.Hợp tác với Liên minh châu Âutiếp tục triển khai theo đúng các định hướng, nguyên tắc thông qua dự án Tăng cường pháp luật và tư pháp do EU tài trợ với tổng vốn ODA là 14,7 triệu EURO đã đươc ký kết và chính thức triển khaitừ năm 2018; duy trì hoạt động của Tiểu ban Quản trị tốt, Pháp quyền và Quyền con người trong khuôn khổ Ủy ban Hỗn hợp Việt Nam - Liên minh Châu Âu, tổ chức thành công Phiên họp lần thứ nhất của Tiểu ban trong năm 2020 và đang chuẩn bị cho Phiên họp lần thứ hai tại Bỉ trong cuối quý II/2022.
Mối quan hệ hợp tác với các tổ chức của Liên hợp quốc tiếp tục được tăng cường thông qua các hoạt động hỗ trợ kỹ thuật của các cơ quan của Liên hợp quốc (UNDP, UNICEF, UNWomen, UNODC…) cho các nội dung hợp tác là nhu cầu của các cơ quan pháp luật và tư pháp Việt Nam cũng như là thế mạnh của các đối tác quốc tế. Quan hệ hợp tác với các định chế tài chính quốc tế tiếp tục được duy trì với những kết quả hết sức cụ thể. Năm 2021, Vụ HTQT đã phối hợp với các cơ quan, đơn vị để đàm phán, hoàn thiện thủ tục phê duyệt Văn kiện Dự án “Tăng cường trợ giúp pháp lý cho người nghèo và nhóm yếu thế” do Quỹ phát triển xã hội Nhật Bản (JSDF) tài trợ thông qua Ngân hàng thế giới, ký kết Biên bản ghi nhớ hợp tác với IFC trong lĩnh vực bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và đăng ký biện pháp bảo đảm - Thỏa thuận hợp tác đầu tiên được ký kết trong lĩnh vực này suốt 20 năm hợp tác, mở ra các cơ hội hợp tác tiềm năng trong tương lai với IFC.
Cũng trong giai đoạn này, Vụ Hợp tác quốc tế đã đề xuất gia nhập Tổ chức quốc tế về luật phát triển (IDLO). Lễ gia nhập IDLO của Việt Nam đã được tổ chức tại Hội nghị thường niên các quốc gia thành viên IDLO vào ngày 29/11/2016 tại Roma, I-ta-li-a. Sau đó, Vụ cũng đã tham mưu trình Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện quyền và nghĩa vụ quốc gia thành viên IDLO của Việt Nam; ký ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện quyền và nghĩa vụ quốc gia thành viên IDLO của Bộ Tư pháp, trao đổi và ký Thỏa thuận hợp tác với IDLO năm 2017; ngày càng chủ động, tích cực hơn trong thực hiện quyền và nghĩa vụ thành viên của Việt Nam với IDLO. Đặc biệt, trong năm 2020, Vụ tham mưu Lãnh đạo Bộ Tư pháp cử nhân sự để tham gia ứng cử vị trí thành viên Hội đồng tư vấn của IDLO (kết quả là Tiến sĩ Hoàng Ly Anh -Giảng viên Trường Đại học Luật Hà Nội đã trúng cử vào thành viên của Hội đồng tư vấn của IDLO nhiệm kỳ 2020-2024). Hàng năm, Vụ đều mưu với Lãnh đạo Bộ tổ chức Đoàn của Việt Nam tham gia và có bài phát biểu tại Hội nghị thường niên của IDLO thể hiện rõ quan điểm của Việt Nam đối với định hướng hoạt động của IDLO. Bên cạnh đó, Vụ Hợp tác quốc tế cũng đã nghiên cứu khả năng gia nhập Liên minh Thừa phát lại quốc tế (UIHJ); nghiên cứu đểđề xuất về lộ trình gia nhập UNIDROIT trong tình hình mới.
- Trong bối cảnh Việt Nam đã trở thành quốc gia có mức thu nhập trung bình, Bộ Tư pháp đã tích cực triển khai thực hiện nhiệm vụ tìm kiếm, vận động, thu hút các nguồn hỗ trợ cho các hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật từ các đối tác quốc tế. Trong giai đoạn 2016-2021, Bộ Tư pháp đã hoàn thành đàm phán và thực hiện các thủ tục xin chủ trương tiếp nhận và phê duyệt Văn kiện 04 Dự án “Tăng cường pháp luật và tư pháp tại Việt Nam” (Dự án EU JULE), Dự án “Tăng cường tiếp cận tư pháp và bảo vệ người chưa thành niên có liên quan đến pháp luật” (Dự án UNICEF), Dự án Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật tại Việt Nam” (Dự án JICA), Dự án “Tăng cường trợ giúp pháp lý cho người nghèo và nhóm yếu thế” do Quỹ phát triển xã hội Nhật Bản (JSDF) tài trợ thông qua Ngân hàng thế giới. Các chương trình, dự án này đều có sự tham gia của các cơ quan pháp luật và tư pháp có liên quan (Ban Nội chính Trung ương, Văn phòng Chính phủ, Bộ Công an, Bộ Lao động – Thương binh và xã hội, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao), qua đó góp phần vào việc tăng cường các nguồn hỗ trợ kỹ thuật cho các cơ quan trong thực hiện các nhiệm vụ được giao.
Cùng với đó, trong những năm qua, Vụ HTQT cũng đã phối hợp với các cơ quan có liên quan, đặc biệt là Bộ Công an để thực hiện tốt các nhiệm vụ quản lý thực hiện các chương trình, dự án, phi dự án hợp tác về pháp luật do Bộ Tư pháp là cơ quan chủ quản, bảo đảm hiệu quả, tuân thủ đúng quy định của pháp luật và các nguyên tắc, định hướng của Đảng và Nhà nước trong hợp tác quốc tế trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp.
Về công tác thông tin đối ngoại, từ năm 2016, sau khi Chính phủ ban hành Nghị định số 72/2015/NĐ-CP ngày 07/9/2015 về quản lý hoạt động thông tin đối ngoại, Vụ Hợp tác quốc tế được giao nhiệm vụ đầu mối giúp Bô trưởng quản lý và thực hiện các hoạt động thông tin đối ngoại trong phạm vi Bộ, ngành Tư pháp. Các hoạt động thông tin đối ngoại của Bộ Tư pháp từ đó đến nay được thực hiện ngày càng bài bản và hiệu quả, đặc biệt là sau khi Vụ tham mưu Lãnh đạo Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch hoạt động thông tin đối ngoại của Ngành Tư pháp giai đoạn 2017-2020. Các hoạt động thông tin đối ngoại Bộ Tư pháp đã triển khai góp phần giới thiệu đến bạn bè quốc tế hình ảnh về Bộ Tư pháp cũng như những tiến bộ trong công tác pháp luật và tư pháp nói chung của Việt Nam, đồng thời cung cấp cho cán bộ, công chức, viên chức của Bộ những thông tin quan trọng về tình hình thế giới và công tác đối ngoại của Bộ, ngành Tư pháp. Một số hoạt động thông tin đối ngoại nổi bật đã thực hiện bao gồm: tổ chức buổi gặp mặt đầu xuân hàng năm với đại diện các đối tác phát triển xây dựng (từ 2013-2017), tăng cường trao đổi, chia sẻ thông tin về các kết quả, nỗ lực của Việt Nam trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách pháp luật, cải cách tư pháp thông qua các hoạt động hợp tác quốc tế do Bộ, Ngành chủ trì thực hiện (như các Diễn đàn pháp luật, Phiên thảo luận về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, các hoạt động trao đổi đoàn, tiếp khách quốc tế, cung cấp thông tin đến các đối tác, tổ chức quốc tế...), xây dựng chuyên đề thông tin pháp luật giới thiệu về Bộ luật Dân sự sửa đổi, Luật Trợ giúp pháp lý 2016 gửi Đại sứ quán các nước tại Việt Nam; vận hành, duy trì Trang thông tin về hợp tác pháp luật và phát triển phiên bản tiếng Anh của Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp; phát hành sổ tay giới thiệu về Bộ Tư pháp phiên bản tiếng Anh (đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp);....
3. Kết quả các mặt công tác khác
3.1.Công tác tham mưu, tổng hợp, điều phối hoạt động giúp Lãnh đạo Vụ tổ chức, chỉ đạo và điều hành đơn vị
Vụ luôn chủ động, tích cực trong các công tác đôn đốc, điều phối các hoạt động chung của đơn vị, công tác thi đua khen thưởng, tổ chức cán bộ, công tác thống kê, tổng hợp, văn thư lưu trữ... Vụ thực hiện tốt việc phân công xử lý công việc và theo dõi tiến độ xử lý công việc của từng phòng chuyên môn. Hàng tuần, Vụ tổ chức cuộc họp giao ban của đơn vị để tổng hợp tình hình thực hiện nhiệm vụ tại đơn vị, qua đó thực hiện chỉ đạo, điều hành, đôn đốc sát sao công tác chuyên môn, đảm bảo thực hiện đúng tiến độ các công việc được giao.
3.2. Về công tác tổ chức cán bộ
Với sự điều hành của Lãnh đạo Vụ và nỗ lực của công chức trong đơn vị, công tác này đã được triển khai thực hiện toàn diện, đầy đủ, kịp thời các hoạt động theo quy định, như: làm thủ tục nghỉ chế độ hưu trí; tiếp nhận chuyên viên về công tác tại Vụ, phối hợp với Vụ Tổ chức cán bộ thực hiện quy trình, đề nghị Bộ trưởng bổ nhiệm công chức Lãnh đạo cho Vụ; cử công chức tham gia lớp bồi dưỡng kỹ năng quản lý cấp phòng, lớp bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo quản lý cấp Vụ và tương đương, học thạc sỹ, phối hợp với Vụ Tổ chức cán bộ thực hiện nâng lương thường xuyên, nâng lương cho công chức của Vụ; có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng; kiện toàn tổ chức, bổ nhiệm, luân chuyển, tiếp nhận kịp thời đáp ứng yêu cầu công tác của đơn vị và thực hiện các chế độ chính sách cho cán bộ, công chức. Việc thực hiện tốt công tác này đã giúp ổn định tổ chức đơn vị và triển khai hiệu quả công tác chuyên môn.
3.3. Công tác thi đua, khen thưởng
Hàng năm, VụHợp tác quốc tế đều xây dựng Kế hoạch phát động thi đua và tổ chức thực hiện phong trào thi đua của đơn vị, của Cụm thi đua và cả Ngành.Trên cơ sở đăng ký thi đua từ đầu năm, các cán bộ, công chức đã có ý thức thi đua để đạt được nhiều thành tích, xứng đáng với các danh hiệu thi đua đã đăng ký. Theo kế hoạch chung của Bộ, hàng năm, các đơn vị thuộc Vụ đều tổ chức họp thi đua các phòng, xây dựng hồ sơ, tờ trình, báo cáo lên Hội đồng thi đua khen thưởng Vụ để đề xuất các hình thức thi đua khen thưởng thuộc thẩm quyền của Vụ và đề nghị Vụ đề xuất lên Hội đồng thi đua khen thưởng ngành đối với các hình thức khen thưởng cao hơn. Từ khi thành lập đến nay,tập thể Vụ luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, nhận được Bằng khen của Bộ trưởng (bao gồm cả Bằng khen của các Bộ, ngành có quan hệ phối hợp với Vụ Hợp tác quốc tế), Huân chương lao động hạng ba của Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam (năm 2002), Huân chương Lao động hạng Hai của Chủ tịch nước CHDCND Lào (năm 2017), cờ thi đua của ngành Tư pháp (năm 2018), tập thể điển hình tiên tiến ngành Tư pháp giai đoạn 2015-2020. Đối với các cá nhân, Vụ Hợp tác quốc tế có 01 cá nhân được nêu gương điển hình tiên tiến ngành Tư pháp năm 2015, 01 cá nhân (đồng chí Vụ trưởng) được công nhận Chiến sĩ thi đua ngành Tư pháp giai đoạn 2018-2020.
3.4. Công tác ứng dụng công nghệ thông tin
Việc tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước theo chỉ đạo của Chính phủ và Lãnh đạo Bộ Tư pháp được VụHợp tác quốc tế quán triệt, xây dựng Kế hoạch, triển khai thực hiện thường xuyên, đạt được những kết quả tích cực, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác của đơn vị, cụ thể:
- 100% công chức Vụ thường xuyên sử dụng hộp thư điện tử của Bộ Tư pháp để trao đổi tài liệu, xử lý công việc nội bộ;
- Thực hiện tiếp nhận quản lý văn bản, xử lý công việc trong đơn vị thông qua phần mềm Hệ thống quản lý văn bản và điều hành của Bộ Tư pháp;
- Tăng cường sử dụng chữ ký số và phát hành văn bản điên tử.
3.5. Việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; chăm lo đời sống cán bộ, công chức
Nhìn chung, tất cả cán bộ, công chức, người lao động trong VHQT đều có đủ phẩm chất chính trị, lập trường tư tưởng vững vàng, luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, nghiêm chỉnh chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước, có ý thức tuyên truyền, vận động gia đình, bạn bè chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước. Không những vậy, cán bộ Vụ HTQT còn chủ động tìm tòi nghiên cứu để hiểu hơn về chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm phục vụ tốt hơn cho công tác chuyên môn. Cán bộ, công chức trong Vụ có phong cách đạo đức và lối sống lành mạnh, có ý thức tác phong và lề lối làm việc nghiêm túc, nhanh nhẹn và cẩn thận, chấp hành nghiêm kỷ luật lao động, thực hiện đúng sự phân công của Lãnh đạo Vụ cũng như thực hiện tốt các nội quy, quy chế của cơ quan, đơn vị.
Trong những năm qua, Vụ không để xảy ra trường hợp nào vi phạm pháp luật hay vi phạm nội quy, quy chế cơ quan, đơn vị đến mức độ phải bị xử lý kỷ luật.
Vụ luôn quan tâm chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho công chức trong đơn vị, kịp thời tổ chức các hoạt động sinh hoạt tập thể, tương trợ giúp đỡ, thăm hỏi, động viên cho công chức của đơn vị để cố gắng vượt khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Vụ cũng tham gia đầy đủ các hoạt động phong trào, đền ơn đáp nghĩa, ủng hộ đồng bào lũ lụt, ủng hộ vì người nghèo, nạn nhân bị chất độc da cam…do Bộ phát động.
3.6. Hoạt động của các tổ chức Ðảng, đoàn thể
- Chi bộ Vụ Hợp tác quốc tế hiện có 15 đảng viên (chiếm 88% tổng số công chức của Vụ). Chi bộ bảo đảm duy trì chế độ sinh hoạt, họp chi bộ theo đúng quy định, thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ được giao trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức cán bộ và xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh. Các công việc chuyên môn quan trọng và công tác tổ chức, nhân sự quan trọng trong Vụ đều được Chi ủy, Chi bộ xem xét, thảo luận chỉ đạo, định hướng phương thức thực hiện. Chi bộ Vụ HTQT định kỳ tổ chức sinh hoạt chuyên đề với các chủ đề gắn chặt với công tác chuyên môn của Vụvới sự tham dự của Phó Bí thư thường trực Đảng ủy, đại diện Văn phòng Đảng ủy, đại diện Đảng bộ, Chi bộ có liên quan, tổ chức các chuyến đi thăm quan. Nhiều năm liền, Chi bộ của Vụ Hợp tác quốc tế được xếp loại Chi bộ trong sạch, vững mạnh…..
- Tổ công đoàn và nữ công của Vụ Hợp tác quốc tế hoạt động khá sôi nổi, phát huy vai trò trong tập hợp, vận động công đoàn viên thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, xây dựng Tổ công đoàn; tổ chức các hoạt động chung cho công đoàn viên, nữ cán bộ, công chức của đơn vị và tham gia vào tất cả các hoạt động do công đoàn Bộ phát động. Chi đoàn thanh niên Vụ tiếp tục phát huy được vai trò xung kích, tập hợp đoàn viên, thanh niên là công chức trẻ của Vụ trong thực hiện nhiệm vụ của đơn vị, tham gia các phong trào chung của Đoàn Bộ..
4. Đánh giá chung
Trong những năm qua, với tinh thần nỗ lực, trách nhiệm, chủ động, quyết tâm, VụHợp tác quốc tế đã liên tục hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ đã đề ra tại Kế hoạch công tác năm của đơn vị, tiếp tục tạo được chuyển biến mới, tích cực, hiệu quả trên các lĩnh vực công tác được giao, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của Lãnh đạo Bộ, góp phần tích cực vào việc hoàn thành nhiệm vụ công tác của Bộ, Ngành.
Công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật ngày càng đi vào nền nếp, đảm bảo các hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật, cải cách tư pháp thực hiện đúng chủ trương, nguyên tắc, định hướng của Đảng, pháp luật của Nhà nước; định hướng và tạo điều kiện cho các hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này được tăng cường, mở rộng, đi vào chiều sâu và hiệu quả; các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp đã có bước trưởng thành trong việc tiếp thu có chọn lọc tri thức, tinh hoa và kinh nghiệm quốc tế phù hợp với truyền thống, thực tiễn Việt Nam để hoàn thiện pháp luật, cải cách hành chính, cải cách tư pháp, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới, phát triển và bảo vệ đất nước.
Hoạt động hợp tác quốc tế của Bộ Tư pháp không ngừng được vun đắp và tăng cường. Các hoạt động hợp tác song phương được kế thừa, phát huy kết quả hợp tác đạt được từ các năm trước. Hiện nay, Bộ Tư pháp đã tiếp tục phát triển quan hệ hợp tác đặc biệt trên cơ sở tình đoàn kết, hữu nghị truyền thống với Lào, Cu Ba và Cam-pu-chia; làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác với các nước XHCN trước đây như Nga, Hung-ga-ry, Bun-ga-ri, Bê-la-rút, Ka-dắc-xtan, A-giéc-bai-gian, Ác-mê-ni-a, Ru-ma-ni; thúc đẩy quan hệ hợp tác với các đối tác khác như Pháp, Đức, Anh, Áo, Lúc-xăm-bua, Ai-len, Hoa Kỳ, Ca-na-da, Nhật Bản, Hàn Quốc, Xinh-ga-po, Thái Lan, Úc, Nam Phi, An-giê-ri...Trong bối cảnh Việt Nam đã trở thành nước thu nhập trung bình, bên cạnh việc tiếp tục duy trì được nguồn hỗ trợ thông qua cung cấp ODA của một số đối tác phát triển, các hoạt động hợp tác đã có sự chuyển dần sang hợp tác đối tác theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, thông qua các hình thức hỗ trợ chuyên gia, chia sẻ thông tin, kinh nghiệm, ủng hộ nhau tại các diễn đàn quốc tế và khu vực. Điểm nhấn là lần đầu tiên Bộ Tư pháp đề xuất và triển khai dự án ODA theo chiều ra hỗ trợ cho Bộ Tư pháp CHDCND Lào trong lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp.
Hoạt động hợp tác đa phương được đẩy mạnh phù hợp với yêu cầu chủ động, tích cực tham gia các thiết chế đa phương khu vực và toàn cầu, phù hợp với định hướng của Đảng tại Chỉ thị số 25-CT/TW ngày 8/8/2018 của Ban Bí thư về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030. Ởtầm khu vực, trong khuôn khổ Hội nghị Bộ trưởng Tư pháp các nước ASEAN (ALAWMM) và Hội nghị quan chức pháp luật cao cấp ASEAN (ASLOM), Bộ Tư pháp đã tích cực đưa ra các sáng kiến, thúc đẩy và thực thi các sáng kiến hợp tác trong lĩnh vực pháp luật giữa các nước ASEAN. Ở tầm đa phương toàn cầu, Bộ Tư pháp cũng tham gia tích cực vào hoạt động của Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế (HccH), nhất là đề xuất gia nhập một số Công ước thuộc hệ thống HccH; đề xuất gia nhập Tổ chức quốc tế về luật phát triển (IDLO); tích cực nghiên cứu, đề xuất khả năng Việt Nam gia nhập Viện quốc tế về nhất thể hóa pháp luật tư (UNIDROIT), Liên minh thừa phát lại quốc tế (UIHJ).
Hoạt động chỉ đạo, điều hành của Lãnh đạo Vụ được thực hiện nghiêm túc, đi vào nề nếp thông qua các cuộc họp giao ban hàng tuần, hàng tháng và hàng quý, bảo đảm nắm bắt sâu sát thông tin, chỉ đạo, theo dõi, xử lý kịp thời, hiệu quả việc thực hiện các mặt công tác của đơn vị. Công tác tham mưu, tổng hợp giúp Lãnh đạo Vụ tổ chức, chỉ đạo và điều hành đơn vị ngày càng hiệu quả. Tập thể đơn vị thực hiệntốt đoàn kết nội bộ. Tổ chức Chi bộ Đảng và các đoàn thể (Công đoàn, Đoàn Thanh niên) ngày càng được củng cố, xây dựng trong sạch, vững mạnh, tạo nền tảng về chính trị, tư tưởng, tinh thần để giáo dục, động viên toàn thể đảng viên, công chức của Vụ đoàn kết, nỗ lực, phấn đấu để hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của đơn vị.
IV. Các danh hiệu và hình thức khen thưởng đã được ghi nhận trong những năm gần đây
Các danh hiệu thi đua,                               hình thức khen thưởng của cơ quan/đơn vị trong nước Số hiệu quyết định
Tập thể lao động xuất sắc từ 2011 đến 2020
  • Quyết định số 4524/QĐ-BTP ngày 23/12/2011 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp
  • Quyết định số 05/QĐ-BTP ngày  02/01/2013 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp
  • Quyết định số 3173/QĐ-BTP ngày 31/12/2013 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp
  • Quyết định số 27/QĐ-BTP ngày 07/01/2015 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp
  • Quyết định 39/QĐ-BTP ngày 08/01/2016 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp
  • Quyết định số 2623/QĐ-BTP ngày 22/12/2016 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp
  • Quyết định số 2647/QĐ-BTP ngày 22/12/2017 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp
  • Quyết định số 3159/QĐ-BTP ngày 28/12/2018 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp
  • Quyết định số 30/QĐ-BTP ngày 07/01/2019 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp
  • Quyết định số 3136/QĐ-BTP ngày 23/12/2019 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp
Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Tư pháp vì đã có thành tích xuất sắc trong năm 2013 Quyết định số 3173/QĐ-BTP ngày 31/12/2013 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp
Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Tư pháp vì thành tích xuất sắc, góp phần thúc đẩy mối quan hệ hợp tác tư pháp giữa Việt Nam-Lào Quyết định số 1001/QĐ-BTP ngày 07/5/2018 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp
Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Tư pháp vì thành tích xuất sắc, đóng góp vào quá trình xây dựng và phát triển của Vụ Pháp luật quốc tế Quyết định số 2480/QĐ-BTP ngày 02/10/2018 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp
Cờ thi đua ngành Tư pháp năm 2018 Quyết định số 30/QĐ-BTP ngày 07/01/2019 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp
Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Tư pháp cho tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác năm 2019 Quyết định số 3150/QĐ-BTP ngày 24/12/2019 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp
Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Công an cho tập thể có thành tích xuất sắc trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc năm 2019 Quyết định số 1484/QĐ-BCA ngày 03/3/2020 của Bộ trưởng Bộ Công an
Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện Quyết định 1340/QĐ-BTP về việc phê duyệt quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức, viên chức trẻ có trình độ chuyên môn sâu của Bộ Tư pháp giai đoan 2014-2020 Quyết định số 1277/QĐ-BTP ngày 05/8/2021 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp
Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã có thành tích xuất sắc, góp phần thúc đẩy, nâng cao hiệu quả công tác hợp tác quốc tế về pháp luật của Bộ, ngành Tư pháp giai đoạn 2016-2020 Quyết định số 26/QĐ-BTP ngày 06/01/2021 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp
Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Tư pháp vì đã có thành tích  xuất sắc trong quá trình hoàn thiện thể chế về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Quyết định số 1198/QĐ-BTP ngày 26/7/2021 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp
Các danh hiệu thi đua,                               hình thức khen thưởng của cơ quan/đơn vị nước ngoài Số hiệu quyết định
Huân chương Lao động hạng Hai của Nhà nước CHDCND Lào vì thành tích trong việc thúc đẩy quan hệ tư pháp Việt Nam-Lào năm 2017 Sắc lệnh số 201/CTN ngày 01/9/2017 của Chủ tịch nước CHDCND Lào
 
 
[1]Quyết định số 954/QĐ-BTP ngày 25/4/2016 ban hành Đề án thành lập Nhóm quan hệ đối tác pháp luật.