Thực hiện phương châm "Đoàn kết, kỷ cương, chủ động thích ứng, an toàn hiệu quả, phục hồi phát triển", năm 2022, công tác chỉ đạo, điều hành của Bộ, ngành Tư pháp có nhiều đổi mới, chủ động, kịp thời và linh hoạt hơn. Với tinh thần lấy người dân, doanh nghiệp vừa là trung tâm, là chủ thể, là mục tiêu và là động lực thực hiện, Bộ, ngành Tư pháp đã triển khai đồng bộ công tác cải cách hành chính (CCHC), trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính (TTHC), tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong các lĩnh vực công tác tư pháp, đẩy mạnh cung cấp dịch vụ công trực tuyến và tăng cường đối thoại với người dân, doanh nghiệp và đạt được một số thành tựu nổi bật trong năm 2022.
- Về Công tác xây dựng, thẩm định; kiểm tra, rà soát văn bản quy phạm pháp luật và pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật
Nổi bật trong năm 2022, toàn ngành Tư pháp đã tập trung rà soát một khối lượng rất lớn, gần 28.000 văn bản để từ đó bổ sung, sửa đổi, thay thế, bãi bỏ gần 6.000 văn bản, trong bối cảnh Chính phủ tổ chức triển khai 03 Chương trình mục tiêu quốc gia, Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công.
Công tác kiểm tra văn bản QPPL được Bộ, ngành Tư pháp tập trung thực hiện kịp thời, có trọng tâm, trọng điểm, đảm bảo sự chủ động trong phản ứng chính sách pháp luật, phát hiện, xử lý các văn bản trái pháp luật, không phù hợp với thực tiễn, nhất là các vấn đề pháp lý liên quan đến người dân, doanh nghiệp. Công tác đôn đốc xử lý văn bản được chú trọng thực hiện sâu sát, quyết liệt, đã nâng cao hiệu quả xử lý văn bản trái pháp luật được phát hiện, kết luận, nhất là các văn bản có quy định gây trở ngại, bất lợi cho việc thực hiện các quyền, lợi ích hợp pháp của người dân, tổ chức, hạn chế tối đa số văn bản có quy định trái pháp luật chậm được xử lý. Cùng với việc hoàn thành nhiệm vụ rà soát văn bản thuộc trách nhiệm của Ngành, Bộ Tư pháp đã cùng với các bộ, ngành nỗ lực thực hiện tốt việc tham mưu, thực hiện nhiệm vụ của Tổ công tác của Thủ tướng Chính phủ về rà soát văn bản QPPL, đặc biệt, đã tổ chức rà soát độc lập, chuyên sâu theo một số nhóm văn bản QPPL còn hiệu lực do cơ quan nhà nước ở Trung ương ban hành
[1]; tổ chức rà soát, cho ý kiến độc lập đối với một số nội dung quy định cụ thể liên quan đến một số luật theo tổng hợp tại Báo cáo số 282-BC/ĐĐQH15 ngày 21/10/2021 của Đảng đoàn Quốc hội về kết quả rà soát văn bản QPPL gây vướng mắc, cản trở trong hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh
[2] và tham mưu Ban cán sự đảng Chính phủ có báo cáo gửi Đảng đoàn Quốc hội về rà soát, khắc phục những sơ hở, bất cập trong cơ chế, chính sách, pháp luật liên quan đến đấu thầu, đấu giá, quản lý, sử dụng đất đai, tài sản công, tài chính, chứng khoán
[3].
- Về công tác ứng dụng công nghệ thông tin chuyển đổi số, hướng tới cắt giảm TTHC
Thực hiện quan điểm chung của Chính phủ là lấy người dân, doanh nghiệp vừa là trung tâm, là chủ thể, là mục tiêu và là động lực, Bộ, ngành Tư pháp đã triển khai thực hiện đồng bộ công tác cải cách hành chính, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong các lĩnh vực công tác tư pháp, đẩy mạnh cung cấp dịch vụ công trực tuyến và tăng cường đối thoại với người dân, doanh nghiệp. Theo đó, Bộ Tư pháp đứng đầu trong các Bộ, ban, ngành về cắt giảm TTHC, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho người dân và doanh nghiệp. Theo đánh giá của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới, chỉ số cải thiện chất lượng các quy định của pháp luật thuộc Bộ Chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam tăng 10 bậc so với năm 2021.
Bộ Tư pháp đã hướng dẫn và cùng các bộ, ngành, địa phương thực hiện các giải pháp để nâng cao điểm số và duy trì thứ hạng chỉ số Chi phí tuân thủ pháp luật (Chỉ số B1); theo đó, các bộ, ngành, địa phương cũng đã quan tâm chỉ đạo và triển khai các hoạt động nhằm nâng cao điểm số và duy trì thứ hạng Chỉ số, như: tiếp tục thực hiện nghiêm túc việc rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan đến ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý, đặc biệt là các quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh, thủ tục hành chính. Trong đó, chú trọng tới các giải pháp khắc phục sự chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu tính khả thi, làm tăng chi phí tuân thủ pháp luật trong các lĩnh vực.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tiếp tục được Bộ, ngành Tư pháp coi là nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp chủ yếu để hoàn thành các nhiệm vụ chính trị của Bộ, ngành Tư pháp. Bên cạnh, tiếp tục triển khai thực hiện nhiệm vụ thường xuyên , Bộ, cơ quan tư pháp địa phương đã tập trung, đầu tư nguồn lực triển khai thực hiện Quyết định số 06/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 06/01/2022 phê duyệt Đề án “Phát triển ứng dụng dữ liệu dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030” (sau đây gọi là Quyết định số 06/QĐ-TTg). Để toàn Ngành thực hiện hiệu quả những nhiệm vụ được giao tại Quyết định số 06/QĐ-TTg, Bộ Tư pháp đã có nhiều văn bản hướng dẫn, yêu cầu, đôn đốc các địa phương triển khai thực hiện ; tổ chức khoảng 40 Đoàn Công tác do Lãnh đạo Bộ Tư pháp làm Trưởng Đoàn làm việc với Sở Tư pháp một số tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương để nắm bắt tình hình, hướng dẫn và trao đổi, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc của địa phương trong triển khai thực hiện các nhiệm vụ. Việc thực hiện Quyết định số 06/QĐ-TTg của ngành Tư pháp đạt một số kết quả nổi bật như:
Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử và Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư tiếp tục kết nối, chia sẻ thông tin; đã hoàn thành thử nghiệm dịch vụ khai thác thông tin công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư trên cơ sở số định danh cá nhân/CCCD/Số CMND của công dân; thử nghiệm dịch vụ đồng bộ thông tin giữa 02 Cơ sở dữ liệu và dự kiến sẽ cập nhật các chức năng khai thác trên Hệ thống chính thức để kiểm thử và đưa vào khai thác trong thời gian tới.
Đối với việc số hóa sổ hộ tịch, Đến nay, đã 40/63 tỉnh/thành phố triển khai thực hiện số hóa Sổ hộ tịch, 23/63 tỉnh/thành phố còn lại đều đã có Kế hoạch thực hiện việc số hóa, tuy nhiên, đa số các địa phương này còn chưa được bố trí kinh phí để triển khai thực hiện. Theo thống kê, các địa phương đã tiến hành số hóa 29.393.873 dữ liệu và chuyển vào CSDLHTĐT toàn quốc trên 22.020.938 dữ liệu; hiện còn trên 62.000.000 dữ liệu cần số hóa.
Đối với việc cung cấp dịch vụ công thiết yếu liên quan đến người dân trên môi trường điện tử của ngành Tư pháp, đến nay: (i) 63/63 địa phương đã cung cấp dịch vụ công: Đăng ký khai sinh; Đăng ký khai tử; Đăng ký kết hôn trên Cổng dịch vụ công của tỉnh/thành phố kết nối, tích hợp với Cổng dịch vụ công quốc gia; 63/63 địa phương triển khai kết nối liên thông dữ liệu giữa Cổng dịch vụ công/Hệ thống thông tin một cửa điện tử cấp tỉnh với Hệ thống đăng ký, quản lý hộ tịch điện tử, trong đó có 30 địa phương đã khai thác sử dụng hiệu quả; (ii) đã có 63/63 tỉnh/thành phố đã triển khai cung cấp dịch vụ công trực tuyến trên Cổng dịch vụ công của tỉnh, kết nối, tích hợp với Cổng dịch vụ công quốc gia, đảm bảo tiến độ được giao theo Đề án.
Tại Bộ Tư pháp, trong năm 2022 đã kết nối thêm 30 dịch vụ công của Bộ với Cổng Dịch vụ công quốc gia, nâng tổng số dịch vụ công của Bộ kết nối với Cổng Dịch vụ công quốc gia lên 50 dịch vụ công, hiện đang tiếp tục khai báo để kết nối thêm các dịch vụ công lĩnh vực hộ tịch, luật sư.
Bộ Tư pháp, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bảo hiểm xã hội Việt Nam và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã phối hợp triển khai việc kết nối, chia sẽ dữ liệu khai từ Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử với Cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm để thực hiện liên thông các thủ tục hành chính: Đăng ký khai sinh, cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ dưới 6 tuổi (hoàn toàn trên môi trường điện tử) tại tất cả các địa phương trên toàn quốc. Tính đến hết ngày 02/12/2022 đã có 4.282.428 trường hợp đăng ký khai sinh được chuyển sang các cơ quan bảo hiểm xã hội để cấp thẻ bảo hiểm y tế. Dự kiến trong năm 2023, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục tập trung nguồn lực triển khai Dự án đầu tư công “Xây dựng Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử”; nghiên cứu đề xuất giải pháp phù hợp nhằm đáp ứng yêu cầu giải quyết thủ tục hành chính trong lĩnh vực trên môi trường điện tử phù hợp chủ trương chuyển đổi số, xây dựng Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số; đẩy mạnh thực hiện Chương trình hành động quốc gia về đăng ký, thống kê hộ tịch giai đoạn 2017 - 2024; tiếp tục triển khai Đề án “Thí điểm liên thông dữ liệu cấp Giấy chứng sinh, Giấy báo tử để thực hiện thủ tục đăng ký khai sinh, đăng ký khai tử trên môi trường điện tử”.
- Về công tác tổ chức thi hành pháp luật, theo dõi thi hành pháp luật, xử lý vi phạm hành chính
Năm 2022, thể chế về theo dõi thi hành pháp luật tiếp tục được nghiên cứu để hoàn thiện . Công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật được các bộ, ngành, địa phương thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, bám sát các lĩnh vực trọng tâm, liên ngành năm 2022 về các chính sách hỗ trợ người dân, người lao động, người sử dụng lao động, doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh trong bối cảnh dịch Covid-19; tự chủ đại học thuộc lĩnh vực giáo dục và đào tạo; lập, quản lý hành lang bảo vệ nguồn nước thuộc lĩnh vực tài nguyên và môi trường theo Quyết định số 76/QĐ-TTg ngày 14/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ và chủ động xây dựng, tổ chức thực hiện theo dõi thi hành pháp luật đối với lĩnh vực trọng tâm của bộ, ngành, địa phương mình . Bộ Tư pháp đã tăng cường thực hiện các hoạt động kiểm tra việc thực hiện công tác theo dõi thi hành pháp luật với 07 Đoàn kiểm tra theo dõi tình hình THPL kết hợp khảo sát tình hình thực hiện nhiệm vụ cải thiện điểm số và duy trì thứ hạng chỉ số Chi phí tuân thủ pháp luật tại các Bộ, ngành, địa phương và 03 Đoàn Kiểm tra tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực trọng tâm, liên ngành năm 2022.
- Bộ, ngành Tư pháp tiếp tục triển khai thực hiện hiệu quả Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính và các văn bản hướng dẫn thi hành
[4]; tiếp tục rà soát, sửa đổi nhiều văn bản hướng dẫn thi hành Luật
[5]. Công tác quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành chính được tăng cường thông qua việc tập trung hướng dẫn thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và tiến hành kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính
[6].
- Về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tiếp tục đổi mới, bám sát yêu cầu đời sống thực tiễn, lấy người dân là trung tâm thụ hưởng để tham mưu hoàn thiện thể chế, và coi công tác PBGDPL là giải pháp thúc đẩy việc đưa pháp luật vào cuộc sống, điển hình đã tham mưu trình Thủ tướng Chính phủ ban hành và tổ chức thực hiện ba đề án lớn về PBGDPL, có tác động lớn trên phạm vi toàn quốc gồm: Đề án “Tổ chức truyền thông chính sách có tác động lớn đến xã hội trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật giai đoạn 2022-2027”; Đề án “Thí điểm đổi mới hoạt động đánh giá hiệu quả công tác PBGDPL”; Đề án “Tăng cường năng lực tiếp cận pháp luật của người dân”.
Bên cạnh các hình thức PBGDPL truyền thống, các mô hình mới, cách làm hay hiệu quả về PBGDPL, nhất là việc ứng dụng công nghệ thông tin tiếp tục được các bộ, ngành, địa phương quan tâm, chú trọng triển khai bằng nhiều hình thức hoạt động khác nhau, đạt hiệu quả cao, như: Tổ chức triển khai, phổ biến các văn bản pháp luật mới theo hình thức trực tuyến ; tiếp tục duy trì, triển khai thực hiện các hoạt động PBGDPL Cổng/Trang thông tin điện tử PBGDPL, qua facebook, trang fanpage, youtube, zalo ; mở/duy trì chuyên mục pháp luật trên Báo điện tử, truyền hình trực tuyến . Đặc biệt, nhiều địa phương đã tích cực hướng dẫn, chỉ đạo và tổ chức thực hiện, nhân rộng các mô hình điểm ; chú trọng phát động phong trào thi đua, khen thưởng trong công tác PBGDPL ; tổ chức cuộc thi gương người tốt, việc tốt trong thực hiện, chấp hành pháp luật.
- Về công tác thi hành án dân sự
Năm 2022, thể chế về THADS tiếp tục được hoàn thiện và kịp thời triển khai thực hiện đã góp phần giải quyết một số khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn, nhất là nâng cao hiệu quả thi hành án tín dụng ngân hàng và thu hồi tài sản cho nhà nước trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế. Bộ Tư pháp đã chỉ đạo Hệ thống thi hành án dân sự tiếp tục triển khai thực hiện hiệu quả Chỉ thị số 04-CT/TW ngày 02/6/2021 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế; tổ chức thực hiện các nội dung sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự được thông qua tại kỳ họp bất thường lần thứ nhất, Quốc hội khóa XV.
Công tác thi hành án dân sự (THADS), nhất là trong việc xử lý các vụ việc phức tạp, kéo dài, xử lý thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế và án tín dụng, ngân hàng tiếp tục được Lãnh đạo các cấp, các ngành liên quan quan tâm và tập trung chỉ đạo quyết liệt. Việc phối hợp với các ngành Nội chính, Tòa án, Kiểm sát, Công an, Ngân hàng, Bảo hiểm xã hội trong hoạt động THADS tiếp tục được thực hiện kịp thời, chặt chẽ, góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình thi hành án. Ban chỉ đạo THADS các cấp tiếp tục được rà soát, kiện toàn, kịp thời giải quyết nhiều vụ việc phức tạp, kéo dài.
Kết quả thi hành án đối với các khoản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về kinh tế, tham nhũng đạt kết quả cao, cụ thể: đã thi hành xong 1.895 việc, tương ứng với hơn 15.989 tỷ đồng (tăng hơn 11.895 tỷ đồng 15.989 tỷ 592 triệu 215 nghìn đồng, tăng 11.895 tỷ 033 triệu 873 nghìn đồng (tăng 290,51%) so với cùng kỳ năm 2021; đạt tỉ lệ 36,68% (tăng 24,96%) so với cùng kỳ năm 2021.
- Về công tác hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp
Công tác hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp được thực hiện đảm bảo phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, Đề án định hướng tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế của Bộ Tư pháp giai đoạn 2022-2026, phát huy tích cực vai trò của hợp tác quốc tế trong hỗ trợ thực hiện nhiệm vụ chính trị của Bộ, Ngành trong năm 2022. Hoạt động hợp tác quốc tế được thực hiện trên cả ba bình diện toàn cầu, khu vực và song phương. Đã tham mưu ký kết được 03 thỏa thuận/chương trình hợp tác nhân các chuyến thăm chính thức của Chủ tịch nước, Tổng Bí thư tới Hung-ga-ri, Trung Quốc và chuyến thăm chính thức của Thủ tướng Ma-lay-xi-a đến Việt Nam; tiếp tục đưa quan hệ hợp tác với đối tác đặc biệt Lào đi vào chiều sâu, ngày càng bền chặt; tăng cường và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác với Cu-ba theo hướng thiết thực, hiệu quả; làm sâu sắc quan hệ hợp tác pháp luật và tư pháp với Trung Quốc với việc ký Bản ghi nhớ hợp tác thay thế Nghị định thư hợp tác giữa Bộ Tư pháp nước CHXHCN Việt Nam và Bộ Tư pháp Cộng hòa nhân dân Trung Hoa năm 1997; duy trì quan hệ hợp tác với đối tác Nga trong bối cảnh xung đột Nga – Ucraina vẫn đang phức tạp; tiếp tục đẩy mạnh quan quan hệ hợp tác với các đối tác có nhiều kinh nghiệm hợp tác với Bộ Tư pháp Việt Nam (như Đức, Pháp, Hungary, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore...).
Quan hệ hợp tác đa phương tiếp tục được thúc đẩy, là thành viên tích cực trong các tổ chức khu vực và toàn cầu mà Việt Nam đã tham gia, nổi bật là tích cực tham gia với tinh thần trách nhiệm cao ASLOM 21 và các sự kiện do ASEAN chủ trì tổ chức; tăng cường hợp tác với EU với điểm nhấn tham gia Phiên họp lần thứ hai Tiểu ban Nhân quyền và Quản trị tốt, Pháp quyền và Quyền con người trong khuôn khổ Ủy ban Hỗn hợp Việt Nam – Liên minh Châu Âu, đàm phán, xây dựng dự án hợp tác với EU giai đoạn 2023-2028.
Công tác quản lý hợp tác quốc tế về pháp luật theo quy định của Nghị định 113/2014/NĐ-CP tiếp tục được quan tâm. Ngành Tư pháp tiếp tục chú trọng thực hiện nghiêm các giải pháp đảm bảo an ninh chính trị nội bộ, không để nước ngoài can thiệp vào hoạt động xây dựng pháp luật khi thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước về hợp tác pháp luật trong quá trình thẩm định, góp ý văn kiện chương trình, dự án hợp tác pháp luật, cho ý kiến, cho phép tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế về pháp luật; qua đó góp phần đảm bảo các hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước với phương châm bảo đảm tối đa an ninh quốc gia, lợi ích của quốc gia dân tộc, vừa hợp tác, vừa đấu tranh.
- Một số thành tự nổi bật khác:
Trong năm 2022, lần đầu tiên, Bộ Tư pháp phối hợp cùng các Bộ, ngành tham mưu cho Chính phủ về định hướng xây dựng pháp luật cho giai đoạn 05 năm tới; tham gia với vai trò chính trong việc xây dựng dự thảo Nghị quyết 27 của Trung ương về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
Bộ Tư pháp cũng đã tham gia thẩm định Nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của các Bộ, ngành theo đúng tinh thần của Trung ương là bảo đảm tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Đến nay, Chính phủ đã ban hành hầu hết các nghị định quy định chức năng nhiệm vụ của các Bộ, ngành.
[1] Gồm: Quy định pháp luật về nhà ở, kinh doanh bất động sản, quy hoạch đô thị, đấu giá tài sản.
[2] Gồm các luật, bộ luật: Bộ luật Dân sự, Luật Dầu khí, Luật Thủy lợi; Luật Thuế giá trị gia tăng; Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp; Luật Phí và Lệ phí; Luật Ngân sách nhà nước; Luật Điện lực; Luật Hợp tác xã, Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP); Luật Doanh nghiệp; Luật Quy hoạch).
[3] Báo cáo số 1327/BC-BCSĐCP ngày 15/11/2022 của Ban cán sự đảng Chính phủ gửi Đảng đoàn Quốc hội về kết quả rà soát, khắc phục những sơ hở, bất cập trong cơ chế, chính sách, pháp luật liên quan đến đấu thầu, đấu giá, quản lý, sử dụng đất đai, tài sản công, tài chính, chứng khoán.
[4] Bộ Tư pháp đã tổ chức thành công 02 Hội nghị phổ biến, quán triệt các văn bản quy định chi tiết Luật Xử lý vi phạm hành chính (ngày 12/4/2022 tại Hà Nội và ngày 14/4/2022 tại thành phố Hồ Chí Minh).
[5] Nghị định quy định xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường; Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 97/2015/NĐ-CP quy định xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp; Nghị định xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thủy sản; Nghị định xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh mạng; Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày 15/7/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
[6] Bộ Tư pháp đã tổ chức
07 Đoàn kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính tại các Bộ, ngành, địa phương (Bộ Công an, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam; Nam Định, Bắc Giang, Bắc Ninh, Quảng Ninh).