Báo cáo điều chỉnh bổ sung chính sách đối với trẻ tự kỷ
Sign In

Báo cáo điều chỉnh bổ sung chính sách đối với trẻ tự kỷ

LIÊN HIỆP CÁC HỘI KHOA HỌC
VÀ KỸ THUẬT VIỆT NAM
TT PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG VÀ
TRI THỨC CÔNG TÁC XÃ HỘI
Số:
V/v: điều chỉnh bổ sung chính sách đối với trẻ tự kỷ
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
 
Hà Nội, ngày 26 tháng 11 năm 2021
 
Kính gửi: Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
 
Căn cứ Quyết định số 2218/QĐ-BTP ngày 18/8/2018 của Bộ Tư pháp về việc “Tăng cường pháp luật và tư pháp tại Việt Nam”, Quyết định số 1730/BTP-HTQC ngày 13/5/2020 của Bộ Tư pháp thông báo kết quả phê duyệt các sáng kiến được nhận tài trợ từ Quỹ JIFF-Dự án EU JULE.
      Trung tâm phát triển kỹ năng và tri thức công tác xã hội (CSWD) được Bộ Tư pháp phê duyệt sáng kiến  Đánh giá về tác động của chính sách, pháp luật về người mang khuyết tật ở Việt Nam: Nghiên cứu trường hợp về trẻ/người tự kỷthực hiện tại tỉnh Nghệ An năm 2020-2021. Đề tài đã thực hiện điều tra, khảo sát tại 03 địa bàn là Thành phố Vinh, Huyện Nghĩa Đàn, Huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Nội dung của nghiên cứu đã đánh giá tác động và các rào cản trong thực hiện chính sách, pháp luật dành cho người mang khuyết tật, cụ thể là trẻ/người tự kỷ tại tỉnh Nghệ An hiện nay. Đối tượng được điều tra, khảo sát là: (1) Nhóm trẻ tự kỷ và (2) gia đình trẻ tự kỷ và các giáo viên dạy can thiệp tại các trung tâm chuyên biệt, (3) Nhân viên làm công tác bảo trợ xã hội; (4) Cơ quan Bảo hiểm xã hội; (5) Trường mẫu giáo/mầm non, trường phổ thông (cấp tiểu học); (6) Sở/Phòng giáo dục đào tạo; (7) Sở/Phòng y tế; (8) Sở/Phòng lao động TBXH. Kết quả nghiên cứu đã rà soát các chính sách hiện có đối với trẻ tự kỷ, chỉ ra những khó khăn, rào cản đối với trẻ tự kỷ. Trên cơ sở đó đề xuất các chính sách nhằm hỗ trợ, giúp đỡ cho trẻ tự kỷ có cuộc sống ngày càng tốt hơn.
I. Các chính sách hiện có liên quan đến trẻ tự kỷ
Chính phủ đã ban hành các văn bản pháp luật về vấn đề hỗ trợ cho những cán bộ, giáo viên có tham gia hoạt động giáo dục hòa nhập (Nghị định số 113/2015/NĐ-CP ngày 09 tháng 11 năm 2015). Bộ Giáo dục và Đào tạo xác định tầm quan trọng của công tác giáo dục, chăm sóc trẻ em khuyết tật, trong đó có trẻ rối loạn phổ tự kỷ. Trong thời gian qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành theo thẩm quyền và phối hợp ban hành các văn bản về chính sách giáo dục đối với trẻ khuyết tật, trong đó có trẻ rối loạn phổ tự kỷ, như: Thông tư liên tịch số 58/2012/TTLT-BGDĐT-BLĐTBXH (ngày 28/12/2012) quy định điều kiện và thủ tục thành lập, hoạt động, đình chỉ hoạt động, tổ chức lại, giải thể trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập; Thông tư liên tịch số 42/2013/TTLT-BGDĐT-BLĐTBXH-BTC (ngày 30/12/2013) quy định chính sách về giáo dục đối với người khuyết tật; Thông tư số 03/2018/TT-BGDĐT (ngày 29/1/2018) ban hành quy định về giáo dục hòa nhập đối với người khuyết tật; Quyết định số 338/2018/QĐ-BGDĐT (ngày 30/1/2018) ban hành Kế hoạch giáo dục người khuyết tật giai đoạn 2018 - 2020 của ngành Giáo dục. Về lĩnh vực y tế, có một số văn bản như Luật Bảo hiểm y tế 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014 Số: 46/2014/QH13, đã có một số quy định về thực hiện bảo hiểm y tế cho người khuyết tật và dành cho trẻ dưới 6 tuổi.
Nghị định 20/2021/NĐ-CP (ngày 15/3/2021) nhằm quy định về chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội. Nội dung gồm quy định về chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên tại cộng đồng; nhận chăm sóc, nuôi dưỡng tại cộng đồng; trợ giúp xã hội khẩn cấp và chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở trợ giúp xã hội. Từ ngày 01/7/2021, khi Nghị định 20/2021/NĐ-CP quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội chính thức có hiệu lực, mức hỗ trợ hàng tháng đối với người khuyết tật sẽ tăng. Trong Nghị định này đã qui định rất rõ về chế độ trợ cấp dành cho từng dạng khuyết tật, chế độ dành cho người trong gia đình chăm sóc người khuyết tật, chế độ cấp Bảo hiểm y tế dành cho người khuyết tật, hỗ trợ chi phí mai táng, hỗ trợ giáo dục, đào tạo và việc làm…Vì vậy, những nhóm trẻ/người tự kỷ được xác nhận khuyết tật sẽ nhận được trợ cấp và các chế độ phù hợp. Thêm vào đó, Quyết định Số: 1069/QĐ-LĐTBXH (ngày 27/9/2021) về ban hành kế hoạch thực hiện chương trình trợ giúp xã hội và phục hồi chức năng cho người tâm thần, trẻ em tự kỷ và người rối nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng giai đoạn 2021-2025. Quyết định có kế hoạch thực hiện Chương trình trợ giúp xã hội và phục hồi chức năng cho người tâm thần, trẻ em tự kỷ và người rối nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng giai đoạn 2021-2030.
Đầu năm 2019, Cục Bảo trợ - Bộ Lao động Thương binh Xã hội đã chính thức bổ sung thêm thuật ngữ “tự kỷ” vào Thông tư số 01/2019/TT-BLĐTBXH ngày 2/1/2019 quy định về việc xác định mức độ khuyết tật do Hội đồng xác định mức độ khuyết tật thực hiện đã xác định dạng tật rối loạn phổ tự kỷ và đưa vào trong nhóm dạng tật khuyết tật khác. Theo đó, tại khoản 3 Điều 6 trong các mẫu phiếu xác định mức độ khuyết tật có ghi rõ, người khuyết tật “Có kết luận của cơ sở y tế cấp tỉnh trở lên về rối loạn phổ tự kỷ hoặc các loại bệnh hiếm” đủ điều kiện để tham gia xác định mức độ khuyết tật và hưởng các chính sách dành cho người khuyết tật. Đây có thể coi là dấu hiệu đáng mừng đối với cộng đồng người tự kỷ khi mà quyền lợi của họ được nhìn nhận. Đây là văn bản dưới luật đầu tiên đề cập chính thức đến người tự kỷ và là bước tiến trong thực thi Luật Khuyết tật. 
II. Những khó khăn, rào cản đối với trẻ/ người tự kỷ
Qua nghiên cứu khảo sát tại 03 địa bàn tại tỉnh Nghệ An, chúng tôi nhận thấy vấn đề giáo dục hòa nhập và chăm sóc sức khỏe cho trẻ/người tự kỷ còn gặp phải một số khó khăn, rào cản, như sau:
  1. Rào cản địa lý: do các gia đình ở vùng sâu vùng xa nên việc thăm khám và điều trị thiếu thông tin và cơ sở chữa trị, can thiệp chuyên biệt. Nhiều gia đình trẻ trì hoãn thăm khám, từ bỏ việc điều trị, PHCN cho con khuyết tật vì lý do phải di chuyển quá xa khi thăm khám, điều trị cho trẻ. Việc đi lại xa, ngoại huyện, ngoại tỉnh, làm mất đi một nhân lực lao động của gia đình. Lựa chọn việc phải nuôi sống cả gia đình được đặt lên trên so với với việc thăm khám, điều trị cho trẻ. Đây là lý do khiến trẻ lỡ cơ hội “vàng của điều trị”, khiến nhiều trẻ không được thăm khám dẫn đến tình trạng bệnh ngày càng nặng. Như vậy có thể thấy, bên cạnh nhận thức của gia đình, thiếu hệ thống dịch vụ về chăm sóc y tế và PHCN cho nhiều trẻ ở khu vực miền núi, vùng sâu vùng xa là nguyên nhân cốt lõi dẫn đến sự thiệt thòi của trẻ trong chăm sóc y tế. Cũng do ở vùng sâu vùng xa, thiếu cơ hội tiếp cận thông tin, các dịch vụ, chương trình, chính sách đặc biệt dành cho TEKT mà nhiều cha, mẹ trẻ không được biết, hoặc khó khăn trong việc đi lại, do vậy làm mất cơ hội thăm khám chữa bệnh cho trẻ. Thêm vào đó khu vực vùng sâu, vùng xa, cơ sở y tế (trạm y tế) sẽ không có BS chuyên khoa trong lĩnh vực sức khỏe tâm thần thăm khám, điều trị cho trẻ.
  2.  Rào cản từ kinh tế: Nhiều cha mẹ trong các gia đình khó khăn là trụ cột kinh tế nuôi sống cả nhà. Do vậy, không thể đi cùng trẻ điều trị được. Một số gia đình ở hộ vùng, hoặc khó khăn về kinh tế, không thể đủ tiền trang trải cho việc học can thiệp của trẻ thường xuyên. Việc này dẫn tới trẻ không được can thiệp đều đặn hoặc bị bỏ dở, lỡ mất “giai đoạn vàng” trong điều trị và phục hồi chức năng cho trẻ. Vấn đề này là nguồn cội dẫn đến nhiều trẻ tự kỷ nay đã trưởng thành (16-18 tuổi) nhưng tình trạng bệnh vô cùng nặng nề. Do kinh tế khó khăn có thể trẻ rối loạn phổ tự kỷ trở thành công cụ kiếm sống cho gia đình, trẻ sẽ bị bỏ mặc khi bị tai nạn thương tích, bệnh tật hoặc những vấn đề tổn hại đến sức khỏe thể chất, tinh thần.
  3. Rào cản trong việc sử dụng thẻ BHYT trong khám chữa bệnh:
  • Về lâu dài, để đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe y tế của trẻ/người tự kỷ, thẻ BHYT là rất cần thiết. Tuy nhiên, việc sử dụng thẻ Bảo hiểm y tế đối với người tự kỷ/trẻ tự kỷ còn nhiều bất cập. Trong khi trạm y tế xã chưa có đủ trang thiết bị và nhân lực bảo đảm chất lượng cho công việc này. Trong khi đó, sức khỏe của trẻ tự kỷ yếu hơn trẻ bình thường, chưa kể những lúc ốm đau, rất bất tiện trong việc di chuyển. Ðối với trẻ tự kỷ ở vùng sâu, vùng xa, việc tiếp cận dịch vụ của Bảo hiểm y tế lại càng khó khăn hơn. Việc nhân viên y tế không nhiệt tình hay chất lượng trang thiết bị và loại thuốc được bảo hiểm chi trả nghèo nàn cũng là những nguyên nhân khiến trẻ tự kỷ không sử dụng thẻ bảo hiểm y tế.
  • Thiếu chi phí khám chữa bệnh do BHYT chưa chi trả các khoản khác như các khoản về khám, chữa bệnh, phục hồi chức năng. Ðối với trẻ tự kỷ, luật quy định trẻ em dưới sáu tuổi được Nhà nước cấp thẻ khám, chữa bệnh miễn phí tại các cơ sở y tế công lập thuộc Bộ Y tế. Nhưng việc phục hồi chức năng, tham gia lớp can thiệp đặc biệt, hiện nay, không được Bảo hiểm y tế chi trả, vì có quy định cụ thể của Nhà nước. Nhiều trẻ tự kỷ hoặc trẻ có nhu cầu đặc biệt chi phí khám chữa bệnh thường xuyên chưa được hỗ trợ nên nhiều người không có cơ hội được tham gia.
  • Trẻ rối loạn phổ tự kỷ, rất cần được tiếp cận dịch vụ y tế thường xuyên, vì những lý do bệnh cơ hội rất dễ mắc do những đặc trưng của rối loạn phổ tự kỷ, nên trẻ không thuộc diện hưởng trợ cấp chính sách, trên 6 tuổi gia đình phải tự túc mua thẻ, sẽ dẫn đến việc gia đình sẽ ngưng không tiếp tục cho trẻ, thì cơ hội hòa nhập, cơ hội sống bình thường trong sự khác biệt của trẻ sẽ dần khép lại.
  1. Rào cản hệ thống cơ sở vật chất trong chăm sóc sức khỏe dành riêng cho người/trẻ tự kỷ: Hệ thống mạng lưới phục hồi chức năng mỏng, thiếu cán bộ; mô hình tổ chức các cơ sở phục hồi chức năng còn nhiều hạn chế. Các dịch vụ chăm sóc y tế, nhất là các vùng nông thôn, miền núi còn nhiều hạn chế, gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc phòng ngừa, phát hiện, can thiệp sớm và phục hồi chức năng cho trẻ tự kỷ. Hầu hết các cơ sở y tế cấp xã thiếu người có chuyên môn, kinh nghiệm về khám, chữa bệnh cho trẻ khuyết tật. Các trạm y tế xã cần thực hiện việc lập hồ sơ quản lý sức khỏe đối tượng, theo dõi tình hình sức khỏe của trẻ tự kỷ theo quy định của Luật Người khuyết tật.
  2.   Rào cản trong thiếu cơ hội và khả năng tiếp cận chăm sóc sức khỏe và phục hồi: Các cơ sở y tế phải chịu trách nhiệm đảm bảo khả năng tiếp cận của trẻ tự kỷ đối với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và phục hồi chức năng. Các nguồn lực trợ giúp cơ bản cho trẻ/người tự kỷ nên được bảo hiểm theo chương trình bảo hiểm y tế của nhà nước.
  3.  Rào cản về hệ thống văn bản pháp luật, hệ thống chính sách: Chính sách chủ yếu nhằm vào nhóm người khuyết tật nói chung. Vì vậy, hệ thống chính sách đối với nhóm đặc thù là trẻ tự kỷ và trẻ có nhu cầu đặc biệt chưa có nhiều. Điều này ảnh hưởng tới khung pháp lý và cơ sở pháp lý thực hiện, cho phép các hoạt động giáo dục hòa nhập dành riêng cho nhóm trẻ tự kỷ đó.
  4. Rào cản trong thực hiện chính sách: Ngoài vấn đề cơ sở pháp luật, việc thực hiện hỗ trợ và can thiệp dành cho trẻ tự kỷ còn nhiều hạn chế, chẳng hạn như yêu cầu xét duyệt trợ cấp cho trẻ, đưa trẻ tới các lớp học đặc biệt...; Rà soát, đánh giá tình hình trẻ em tự kỷ tập trung vào nhu cầu chăm sóc y tế để có dữ liệu cho việc phân bổ ngân sách và đề xuất với cấp chính quyền.
  5. Rào cản về thủ tục hồ sơ phức tạp: Một số hộ gia đình có điều kiện để con đi PHCN tại một số cơ sở mà họ lựa chọn, các yêu cầu về thủ tục hồ sơ không được đáp ứng (cơ sở yêu cầu hộ khẩu Hà Nội), cũng làm mất đi cơ hộ chữa trị của trẻ.
  6. Rào cản trong nhận thức của người dân trong cộng đồng: Nhận thức của người dân còn hạn chế, dẫn tới việc có nhiều sự kỳ thị, phân biệt đối xử đối với nhóm trẻ tự kỷ và gia đình họ. Điều này khiến cho nhiều gia đình không dám công khai thông tin và nhận sự hỗ trợ của cộng đồng. Vì vậy, có rất nhiều trẻ tự kỷ không được thăm khám kịp thời.
  7.  Rào cản về sự kỳ thị, phân biệt đối xử: Sự kì thị dẫn tới cản trở việc giáo dục hòa nhập cho trẻ tự kỷ tại các trường lớp chính quy (ví dụ như: cha mẹ các trẻ khác không muốn con em mình học cùng trẻ rối loạn phổ tự kỷ, cô giáo gặp khó khăn trong tương tác với trẻ, trẻ nghịch phá nên không thể học chung với các bạn khác…). Giáo viên dạy trẻ tự kỷ phải chấp nhận sự thua thiệt trong đánh giá hoàn thành nhiệm vụ năm học, vì đối trẻ rối loạn phổ tự kỷ phải đi kèm với giáo dục cá nhân, giáo dục hòa nhập và giáo dục văn hóa, nên rất cần thiết cho những trẻ rối loạn phổ tự kỷ nhẹ, trung bình được học chung với trẻ bình thường, để học dần từng hoạt động của trẻ trong cùng độ tuổi.
  8. Rào cản thiếu thông tin trên truyền thông: Sử dụng hình thức truyền thông phù hợp với đặc điểm văn hóa xã hội ở địa phương về dịch vụ để đảm bảo cho tất cả trẻ em tự kỷ đều có cơ hội tiếp cận thông tin về dịch vụ. Thiếu thông tin về truyền thông giáo dục trong phát hiện sớm trẻ tự kỷ, cách chăm sóc trẻ tại gia đình, cơ sở giáo dục.
III. Khuyến nghị
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu nêu trên, Trung tâm CSWD đưa ra một số khuyến nghị, nhằm tăng cường hệ thống pháp lý, chính sách giúp trẻ tự kỷ hiện nay và người tự kỷ trong tương lai.
  1. Nhóm chính sách hướng tới các bên liên quan
- Bộ Lao động Thương binh Xã hội cần tham mưu với Nhà nước ban hành chủ trương, chính sách, luật pháp dành cho trẻ tự kỷ. Phối hợp với ngành y tế và giáo dục hoạch định chế độ chính sách cho trẻ tự kỷ, hỗ trợ phụ huynh có con bị tự kỷ, tổ chức giáo dục hướng nghiệp cho trẻ tự kỷ.
- Hỗ trợ việc xây dựng các trung tâm, các cơ sở xã hội, các dịch vụ xã hội để hỗ trợ chăm sóc trẻ tự kỷ.
- UBND cấp tỉnh, thành phố cần đầu tư xây dựng thêm các trường, các trung tâm giáo dục, chăm sóc cho trẻ tự kỷ, giúp trẻ tự kỷ được hưởng đầy đủ các quyền của trẻ em.
  1. Nhóm chính sách thúc đẩy quyền của người khuyết tật, cụ thể là quyền của trẻ/người tự kỷ
  • Bộ Lao động Thương binh Xã hội cần kết hợp với Bộ Y tế để ban hành tiêu chuẩn xét nhận mức độ khuyết tật dành cho nhóm trẻ tự kỷ.
  • Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội phối hợp với các bên liên quan cần tăng cường các chính sách về giáo dục hòa nhập, chăm sóc khỏe dành riêng cho trẻ tự kỷ và gia đình.
  • Thực hiện các quyền của người khuyết tật, trong đó có quyền của trẻ tự kỷ về quyền được học nghề và tạo việc làm, quyền được giáo dục hòa nhập, quyền được chăm sóc sức khỏe và phục hồi chức năng.
  • Ban hành các tiêu chuẩn để thành lập thêm các trung tâm can thiệp chuyên biệt cho nhóm trẻ tự kỷ, nhất là ở các vùng sâu vùng sa, nơi hệ thống giao thông và liên lạc còn nhiều hạn chế.
  • Phối hợp với các bên liên quan nhằm xác định chế tài xử phạt hợp lý với những vi phạm trong kỳ thị, phân biệt đối xử với trẻ và gia đình có trẻ tự kỷ (như xa lánh, kỳ thị trẻ, không cho trẻ tham gia vào lớp học hòa nhập, miệt thị trẻ và gia đình trẻ...)
  • Hỗ trợ trẻ tại địa phương, tạo ra được môi trường sống, học tập hòa nhập tốt nhất cho trẻ tự kỷ mầm non, tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ tự kỷ mức độ nhẹ, trung bình được tham gia học cùng trẻ bình thường ở các trường, lớp mầm non.
  • Yêu cầu địa phương tăng cường giáo dục hòa nhập cho trẻ tự kỷ, giúp trẻ tự kỷ được học tại nơi trẻ sinh sống cùng gia đình, không có sự tách biệt môi trường sống. Tạo điều kiện để các trường mầm non có trách nhiệm tiếp nhận toàn bộ trẻ của địa phương không phân biệt trẻ tự kỷ hay trẻ bình thường vào học.
  • Bổ sung việc dạy nghề và định hướng việc làm cho tương lai của trẻ tự kỷ. Những em có khả năng thực hiện một số hoạt động, công việc đơn giản như chẻ tăm, cắt giấy,… cần được dạy bảo, đào tạo thêm.
  • Tăng cường hoạt động giám sát tại địa phương trong thực hiện quyền của người khuyết tật và người tự kỷ. Phát hiện xử lý các vi phạm kịp thời.
  • Tiếp tục tổ chức các hoạt động thường niên như Đêm Hội Trăng Rằm, tổ chức phát quà Trung thu, quà Tết, ngày 1/6 Tết Thiếu Nhi… tại địa phương, nhằm hỗ trợ một phần vật chất và tinh thần cho trẻ đặc biệt và gia đình.
  • Cán bộ ngành Lao động Thương binh Xã hội tại các địa phương cần hướng dẫn phụ huynh có con tự kỷ đến các bệnh viện nhi, trung tâm tâm thần nhi, các chuyên gia tâm lý, các trường sư phạm, trường giáo dục chuyên biệt…để được chẩn đoán và điều trị sớm.
  1. Nhóm chính sách đãi ngộ đối với giáo viên dạy các trường mầm non, tiểu học, trung học cơ sở
  • Tăng cường chính sách đãi ngộ, phụ cấp và hỗ trợ kinh phí dành cho giáo viên dạy hòa nhập cho trẻ tự kỷ tại các trường mầm non, tiểu học, trung học cơ sở.
  • Tập huấn, nâng cao kiến thức và thay đổi nhận thức về trẻ tự kỷ nhận biết dấu hiệu và chăm sóc sức khỏe cho trẻ tự kỷ cho giáo viên mầm non, tiểu học, trung học cơ sở.
  1. Nhóm chính sách đãi ngộ đối với giáo viên can thiệp trực tiếp tại các trung tâm và nhóm cán bộ xã hội hoặc nhân viên công tác xã hội tại địa phương
  • Chế độ đãi ngộ, mức thù lao, phụ cấp tương xứng và phù hợp.
  • Tổ chức tọa đàm, hội thảo, tập huấn nâng cao năng lực, kiến thức, trao đổi kinh nghiệm giữa các giáo viên, và trung tâm can thiệp.
  • Tổ chức tọa đàm, hội thảo, tập huấn kiến thức và năng lực hỗ trợ đối với cán bộ xã hội hoặc nhân viên công tác xã hội tại địa phương
  1. Nhóm chính sách thúc đẩy hoạt động tuyên truyền, nâng cao nhận thức cộng đồng
  • Thúc đẩy thực hiện xác nhận khuyết tật và mức độ khuyết tật cho trẻ tự kỷ.
  • Tạo sự hợp tác giữa gia đình – nhà trường/trung tâm can thiệp – cơ sở y tế  - cộng đồng, để cùng phối hợp giáo dục hòa nhập và chăm sóc sức khỏe dành cho trẻ tự kỷ.
  • Tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức về dấu hiệu nhận biết sớm, các vấn đề sức khỏe và bệnh lý kèm theo, cách thức giáo dục dạy bảo trẻ, phương pháp phục hồi chức năng cho trẻ tự kỷ... để gia đình có thêm nhận thức và ứng phó phù hợp nếu có trẻ tự kỷ.
  • Tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật không chỉ đối với nhóm trẻ khuyết tật/người khuyết tật mà còn cần tuyên truyền về trẻ tự kỷ. Ngoài ra, hoạt động tuyên truyền còn hướng tới người dân, cơ sở giáo dục, cơ sở y tế, gia đình nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết về trẻ tự kỷ, các phương pháp can thiệp sớm và phục hồi chức năng... Các hoạt động tuyên truyền cần đa dạng, kết hợp thúc đẩy hiệu quả như qua các phương tiện truyền thông đại chúng, Ti vi, báo đài, mạng internet, loa phát thanh địa phương, các tọa đàm, hội thảo, tập huấn.
  • Kết hợp các hoạt động tuyền truyền về trẻ tự kỷ cùng với các chiến lược truyền thông về người khuyết tật nói chung trong cả nước. Các sự kiện, hoạt động về người tự kỷ và người khuyết tật cần thường xuyên được các cơ quan truyền thông theo dõi, đăng tin bài, góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng, tuyên truyền về chính sách và Luật NKT (có trẻ tự kỷ) trên các phương tiện thông tin đại chúng.
 
Trân trọng cảm ơn./.
 
Nơi nhận:
  • Như trên,
  • VP Quỹ Jiff
  • Lưu TT CSWD
PHÓ GIÁM ĐỐC
 
 
 
 
 
PGS.TS. Nguyễn Thị Kim Hoa