Đánh giá khả năng đáp ứng nhu cầu của bệnh nhân khiếm thính - Khảo sát trường hợp Bộ tiêu chí chất lượng bệnh viện Việt Nam
Sign In

Đánh giá khả năng đáp ứng nhu cầu của bệnh nhân khiếm thính - Khảo sát trường hợp Bộ tiêu chí chất lượng bệnh viện Việt Nam

Bài nghiên cứu 5: Đánh giá khả năng đáp ứng nhu cầu bệnh nhân khiếm thính: Khảo sát trường hợp “Bộ tiêu chí chất lượng bệnh viện Việt Nam”
 
Khảo sát “Đánh giá khả năng đáp ứng nhu cầu bệnh nhân khiếm thính: Khảo sát trường hợp “Bộ tiêu chí chất lượng bệnh viện Việt Nam”” với số mẫu khảo sát: 226 phụ huynh – người hỗ trợ, 181 NKTh, và 24 BV,  tuy chưa mang tính đại diện hoàn hảo cho từng nhóm đối tượng nhưng phần nào cho thấy có nhu cầu cần hỗ trợ trong thực tế để NKTh tiếp cận được việc khám, chữa bệnh chu đáo và hiệu quả.
Về tiếp cận các văn bản pháp lý:
- Con số đáng báo động có tới 62.67% phụ huynh – người hỗ trợ và 80.56% người khiếm thính không biết đến BTC.
- Các văn bản Pháp lý khác có liên quan tới quyền lợi của NKT nói chung và NKTh nói riêng cũng chưa được tiếp cận.
- 71.82% Phụ huynh – người hỗ trợ, 54.80% người khiếm thính đều có mong muốn và quan tâm đến việc tìm hiểu các văn bản pháp lý và sự quan tâm này tăng lên khi có nhu cầu. Việc đọc hiểu các văn bản Pháp lý hay không biết tìm sự hỗ trợ ở đâu khi tiếp cận các văn bản này là một rào cản. Chính quyền, Các cơ quan hành pháp cần có chiến lược để Luật pháp đi vào lòng người – được thực thi và được hỗ trợ.
- Nhóm khảo sát cũng đã tìm ra công cụ truyền thông mà phụ huynh – người hỗ trợ cũng như NKTh sử dụng nhiều nhất, tiện để phổ biến Pháp luật là Tivi có phụ đề tiếng Việt và phụ đề NNKH.
Về khám chữa bệnh cho NKTh: có nhiều vấn đề liên quan và cần xem xét như sau
Nơi khám chữa bệnh: NKTh và gia đình chọn các BV Quận để được chăm sóc sức khỏe. Điều này dễ hiểu và logic vì đa phần gia đình NKTh thuộc diện khó khăn (hộ nghèo hoặc cận nghèo). Trong khi, dịch vụ PD NNKH chỉ được cung cấp ở các BV đẳng cấp Quốc tế có đăng ký tiêu chí A2.5.
- Để NKTh tiếp cận dược dịch vụ PD NNKH nên chăng yêu cầu về PD NNKH ở mức thấp hơn – bắt buộc các bệnh việc đều có – để NKTh được chăm sóc, được theo dõi bệnh đầy đủ và chính xác, qua đó góp phần thực hiện Mục tiêu thứ 10 của 17 Mục tiêu phát triển bền vững của Liên hiệp quốc là xóa đói giảm nghèo.
- Về cung cấp dịch vụ PD NNKH, các BV cũng có những khó khăn và mong đợi được hỗ trợ để họ có PD NNKH chính thức, không phải là nhân viên công tác xã hội kiêm nhiệm. Sự hỗ trợ bao gồm có ngân sách cho ít nhất 01 PD NNKH (đối với BV tuyến quận), được hỗ trợ kinh phí và kết nối nơi cung cấp PD NNKH giá thấp; tạo điều kiện cho nhân viên đi học chuyên sâu về NNKH, v.v...
Đối với những bệnh nhân là người khuyết tật bạo lực giới, nhất là bị xâm hại tình dục, bệnh viện viện cần bố trí không gian khám bệnh an toàn và riêng tư, giúp bệnh nhân có thể dễ dàng trong việc hợp tác khám bệnh cũng như kể lại câu chuyện của mình (Theo Chuyên gia về giới Lê Xuân Đồng).
Nhận diện người khiếm thính. Yêu cầu khai báo và mang theo thiết bị trợ thính được mong đợi nhất.
- Việc khai báo khuyết tật thì có thể khắc phục dễ dàng nếu BV chủ động lấy thông tin NKTh từ khâu tiếp nhận bệnh.
- Về thiết bị trợ thính, không phải NKTh nào cũng có điều kiện trang bị máy trợ thính và chất lượng hơn (cho trường hợp mất thính lực quá sâu) là trang bị ốc tai điện cực.
- Được biết, tại Việt Nam, gia đình phải chi trả 100% kinh phí cho thiết bị hỗ trợ nghe vốn rất đắt tiền lại có tuổi thọ không quá 05 năm. Trung tâm Nghiên cứu Giáo dục Người khiếm thính (CED) có Quỹ hỗ trợ máy trợ thính cho trẻ khiếm thính gia đình nghèo nhưng sức tặng máy trợ thính cũng không quá 100 máy/năm (50 trẻ khiếm thính). Nếu như trẻ khiếm thính được phát hiện sớm, đeo máy trợ thính sớm thỉ cơ hội để các em nghe – nói, giao tiếp được với NVYT, giúp BV giảm đi áp lực thực thi tiêu chí A2.5, BTC.
Chú trọng nhận diện người khiếm thính bị bạo lực giới và có giải pháp hỗ trợ họ, việc sàng lọc phát hiện nạn nhân bạo lực gia đình được quy định tại khoản Điều 4 Thông tư 24/2017/TT- Bộ Y tế. Việc hỏi người khuyết tật về bạo lực cần đi liền với biện pháp ứng phó hiệu quả, gồm biện pháp ứng phó ban đầu và nếu cần thì chuyển tuyến trong hệ thống y tế hoặc chuyển gửi ra bên ngoài (Theo Chuyên gia về giới Lê Xuân Đồng).
Khó khăn trong việc giao tiếp: Việc nhận diện được NKTh để có hỗ trợ phù hợp chưa hẵn đã là thuận lợi cho cả NKTh, phụ huynh – nhân viên hỗ trợ và với cả BV. Cái khó khăn lớn nhất là NKTh không giao tiếp được với NVYT hay phụ huynh – người hỗ trợ lúng túng trong việc truyền đạt thông tin qua lại giữa con em khiếm thính và NVYT. PD NNKH vẫn là một giải pháp. Vấn đề này lại tạo thành một vòng quanh quẩn: BV nào có PD NNKH, nếu có thì túi tiền phụ huynh có cho phép không?; NKTh (nghe kém, mất thính lực muộn) không biết NNKH thì thế nào …; Chưa kể, NNKH ngành Y vẫn còn rất hạn chế ở Việt Nam. Với khó khăn này, cách giao tiếp hỗ trợ được chọn nhiều nhất là viết ra giấy, cử chỉ điệu bộ, hình ảnh, video, đọc tín hiệu môi, NVYT làm mẫu cho NKTh làm theo, v.v… Do đó, các cách giao tiếp mong đợi này cần được bổ sung vào BTC.
Chứng cứ liên quan với tiêu chí A2.5: “Năm trước (2019) Sở Y tế TP.HCM (gọi tắt là Sở) có chấp nhận chứng chỉ tập huấn Kỹ năng hỗ trợ NKTh của CED. Năm 2020 Sở cũng đồng ý thông qua, không trừ điểm. Năm 2021 phải có hợp đồng phiên dịch NNKH. Sở quan tâm chất lượng giao tiếp với NKTh. Họ muốn người giao tiếp với NKTh phải biết NNKH chứ không chỉ là người hỗ trợ CTXH”. CED bắt đầu ký hợp đồng PD NNKH với BV từ năm 2016 và đã thông dịch cho 1 bệnh nhân người Nhật tại BV Pháp – Việt. Theo thời gian, CED nhìn ra vấn đề là làm sao để NVYT hiểu rõ hơn về NKTh và có những hỗ trợ phù hợp chứ không chỉ ký hợp đồng PD NNKH và thu tiền. CED đã thiết kế chương trình đào tạo 03 ngày học ”Kỹ năng hỗ trợ người khiếm thính ở Bệnh viện” và rất mong muốn được làm việc cùng Sở Y tế để lắng nghe mong đợi nhằm cải tiến chương trình học cả về thời gian và chất lượng. Mong đợi này hoàn toàn chính đáng và tương đồng với ý kiến của một bác sĩ  “Việc hỗ trợ NKTh cần có sự tham gia của ba bên: Sở Y Tế đề ra chủ trương, làm cầu nối với bệnh viện và kết nối với các đơn vị có khả năng đào tạo (người có chuyên môn về ngôn ngữ ký hiệu).”
Về lộ trình hỗ trợ các bệnh viện thực thi Bộ tiêu chí: có ý kiến cho rằng “Nên bổ sung cụ thể các chính sách hỗ trợ người khuyết tật xuyên suốt trong quá trình tiếp cận các khoa, phòng trong bệnh viện và sử dụng các dịch vụ khám, chữa bệnh trong bệnh viện”.
Về phía BV, liên quan tới vấn đề PD NNKH, có hai hình thức: có nhân viên PD NNKH và có ký hợp đồng PD NNKH. Dù với hình thức nào thì BV cũng cần có kinh phí và lộ trình hoàn thiện “Quy trình hỗ trợ người khiếm thính ở BV”. Ngoài ra, bổ sung cho việc thiếu hụt PD NNKH, còn có những hỗ trợ khác, cụ thể như: hình ảnh, giấy viết, sắp xếp nhân viên hướng dẫn đi cùng, hỗ trợ bằng cử chỉ điệu bộ, v.v… Về Quy trình hỗ trợ NKTh ở BV, CED có đủ năng lực cung cấp thông tin và giúp các BV hoàn thiện.
Tóm lại: việc thực thi bất cứ chính sách pháp luật nào, không chỉ riêng với BTC, đều có khó khăn, vướng mắc nhưng vẫn luôn có giải pháp nếu có sự phối hợp giữa các bên: Bên lập pháp/thực thi pháp luật – NKTh và gia đình  - những tổ chức của và vì NKTh như CED.
 
KIẾN NGHỊ
Từ kết quả khảo sát “Đánh giá khả năng đáp ứng nhu cầu bệnh nhân khiếm thính: Khảo sát trường hợp “Bộ tiêu chí chất lượng bệnh viện Việt Nam”” thuộc Dự án “Thúc đẩy việc hỗ trợ pháp lý ban đầu và thực thi chính sách khám, chữa bệnh cho người khiếm thính (Điếc, Nghe kém, Mất thính lực muộn)” của Trung tâm Nghiên cứu Giáo dục Người khiếm thính (CED) thực hiện với sự tài trợ của Liên minh Châu Âu thông qua JIFF và Oxfam, Nhóm dự án xin phép trình bày một số kiến nghị sau:
 
1.       PHIÊN DỊCH NGÔN NGỮ KÝ HIỆU (NNKH): DỊCH VỤ TỐI THIỂU HAY ĐẲNG CẤP QUỐC TẾ?
Kiến nghị 1: Chỉ số 10 và 11, mức 5 của Tiêu chí A2.5 cần được chuyển sang mức 2 hoặc mức 3
Chỉ số 10. Có nhân viên phiên dịch cho người bệnh khiếm thính hoặc có phương án hợp tác, ký hợp đồng với người phiên dịch trong trường hợp có người bệnh khiếm thính đến khám, chữa bệnh.
Chỉ số 11. Bảo đảm đáp ứng được người phiên dịch cho người bệnh khiếm thính trong vòng 90 phút khi được yêu cầu.
 
Kiến nghị 2: Cần có chương trình đào tạo phiên dịch ngôn ngữ ký hiệu chính quy.
Diễn giải:
Các dạng chương trình đào tạo phiên dịch NNKH có thể được xem xét như sau:
- Chương trình đào tạo phiên dịch NNKH chính quy được hiểu là một môn học ngoại ngữ tại các trường có khoa Ngoại ngữ.
- Chương trình đào tạo phiên dịch NNKH cũng có thể xem xét như là chuyên đề đào tạo của Khoa Giáo dục Đặc biệt trong việc đào tạo giáo viên dạy trẻ khiếm thính bằng NNKH (hiện Khoa Giáo dục Đặc biệt đã và đang đào tạo giáo viên dạy ngôn ngữ nói cho trẻ khiếm thính).
- Chương trình đào tạo phiên dịch NNKH cũng có thể được tổ chức bởi các Trung tâm Ngoại ngữ với các khóa học theo cấp độ và cao nhất là Bồi dưỡng phiên dịch NNKH.
 
2.       HỖ TRỢ NGƯỜI KHIẾM THÍNH (điếc, nghe kém, mất thính lực muộn): CÔNG CỤ & KỸ NĂNG
Kiến nghị 3: Bộ tiêu chí cần được bổ sung thêm cách thức hỗ trợ phù hợp cho từng dạng khuyết tật NGHE qua giao tiếp dùng NNKH; nói nghe qua đọc tín hiệu môi; viết ra giấy; hình ảnh; video clip; cử chỉ điệu bộ; ...
Diễn giải:
Theo tổ chức của người khiếm thính (People with hearing loss), người khiếm thính chia thành 3 dạng theo phương thức giao tiếp:
●       Người điếc (deaf people) sử dụng ngôn ngữ ký hiệu (Liên Đoàn Thế Giới Người Điếc - World Federation for the Deaf, WFD);
●       Người nghe kém (hard of hearing people) sử dụng ngôn ngữ nói, nghe bằng đọc tín hiệu môi có hay không có kết hợp với thiết bị hỗ trợ nghe (máy trợ thính/ốc tai điện tử) (Liên Đoàn Quốc Tế Người Nghe Kém - International Federation of Hard of Hearing People, IFHOH)
●       Người mới bị mất thính lực muộn (late-deafened people) hay còn gọi là điếc đột ngột, giao tiếp bằng ghi chép/bút đàm (Hội Người Trưởng Thành Mất Thính Lực Muộn - Association of Late-Deafened Adults, ALDA).
Do bởi các hình thức giao tiếp trên của người khiếm thính mà việc hỗ trợ người khiếm thính cần được tăng cường thêm nhiều hình thức khác nhau như đã trình bày ở kiến nghị 3 bên trên.
 
3.       NHẬN THỨC VỀ KHUYẾT TẬT LÀ QUAN TRỌNG
Kiến nghị 4: Đưa chuyên đề đào tạo “Kỹ năng hỗ trợ người khiếm thính ở bệnh viện” vào chương trình đào tạo Cử nhân các ngành Công tác xã hội, Y tế Cộng đồng.
Diễn giải:
NKTh là một trong các dạng thân chủ của Nhân viên CTXH và YTCĐ. Việc cung cấp kiến thức về NKTh và các cách hỗ trợ ngay từ khi còn học ở trường sẽ giúp nhân viên CTXH và YTCĐ có tâm thế làm việc thuận lợi hơn.
 
4.       CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO KỸ NĂNG HỖ TRỢ NGƯỜI KHIẾM THÍNH Ở BỆNH VIỆN
Kiến nghị 5: Chuyên viên của Bộ Y tế và Sở Y tế TP.HCM cần xây dựng chương trình đào tạo kỹ năng đáp ứng chuẩn đánh giá chất lượng bệnh viện cả về thời gian và chất lượng đào tạo.
 
5.       MÁY TRỢ THÍNH, ỐC TAI ĐIỆN TỬ: cần hay không cần? Đâu là giải pháp về giảm gánh nặng về tài chính cho phụ huynh?
Kiến nghị 6: Máy trợ thính, ốc tai điện tử được đưa vào danh mục hàng hóa tính Bảo hiểm Y tế.
Diễn giải:
Máy trợ thính và ốc tai điện tử rất đắc tiền và toàn bộ chi phí cho các thiết bị này, cho tới thời diểm hiện tại, phụ huynh vẫn phải chi trả toàn bộ. Một đời người thay máy trợ thính ít nhất 15 lần và thay ốc tai điện tử ít nhất 5 lần. Nếu máy trợ thính, ốc tai điện tử được đưa vào danh mục hàng hóa tính Bảo hiểm Y tế thì (1) giảm nhẹ được gánh nặng chi phí cho phụ huynh; (2) giảm nhẹ chi phí hỗ trợ khác liên quan tới giao tiếp, do các em nghe nói tốt khi phụ huynh có điều kiện trang bị máy trợ thính cho con.
 
6.       TIẾP CẬN THÔNG TIN CHO NGƯỜI KHIẾM THÍNH
Kiến nghị 7: Cần có phụ đề ngôn ngữ ký hiệu và phụ đề tiếng Việt trên tất cả các kênh truyền hình thuộc Trung ương và TP.HCM.
Diễn giải:
NKTh gặp khó khăn trong giao tiếp, không chỉ bởi nghe-nói khó khăn mà còn do kỹ năng đọc viết. Nếu các kênh truyền hình có phụ đề giúp NKTh cập nhật thông tin và kiến thức thì việc khắc phục khó khăn trong giao tiếp sẽ thực hiện được.
 
Sau khi CED và nhóm Dự án tổ chức hội thảo Báo cáo kết quả khảo sát ngày 14/11/2021 và hội thào Góp ý chính sách ngày 09/12/2021, với sự tham gia đóng góp ý kiến từ toàn thể người tham dự, nhóm khảo sát đã điều chỉnh các kiến nghị vào các vấn đề chính như sau:
Kiến nghị liên quan tới BTC
1. BTC cần chuyển Chỉ số 10 và 11, mức 5 của Tiêu chí A2.5 cần được sang mức 2 hoặc mức 3.
2. BTC cần được bổ sung thêm cách thức hỗ trợ phù hợp cho từng dạng khuyết tật NGHE qua giao tiếp dùng NNKH; nói nghe qua đọc tín hiệu môi; viết ra giấy; hình ảnh; video clip; cử chỉ điệu bộ; ...
3. BTC cần bổ sung biểu tượng nhận diện NKTh ở BV.
Kiến nghị liên quan tới phiên dịch NNKH/NNKH
4. Cần có chương trình đào tạo phiên dịch ngôn ngữ ký hiệu chính quy và chính sách cho người phiên dịch NNKH
5. Phổ cập NNKH: các trường học dạy NNKH cho học sinh và sinh viên.
Kiến nghị liên quan tới kỹ năng hỗ trợ NKTh ở bệnh viện
6. Đưa chuyên đề đào tạo “Kỹ năng hỗ trợ người khiếm thính ở bệnh viện” vào chương trình đào tạo Cử nhân các ngành Công tác xã hội, Y tế Cộng đồng.
7. Chuyên viên của Bộ Y tế và Sở Y tế TP.HCM cần xây dựng chương trình đào tạo kỹ năng đáp ứng chuẩn đánh giá chất lượng bệnh viện cả về thời gian và chất lượng đào tạo.
Kiến nghị liên quan tới hỗ trợ giao tiếp cho NKTh
8. Máy trợ thính, ốc tai điện tử được đưa vào danh mục hàng hóa tính bảo hiểm y tế.
9. Cần có phụ đề ngôn ngữ ký hiệu và phụ đề tiếng Việt trên tất cả các kênh truyền hình thuộc trung ương và TP.HCM.
10. Phổ biến chương trình tầm soát thính lực cho trẻ sơ sinh, tăng cường việc phát hiện sớm, can thiệp sớm và đeo máy trợ thính sớm.
 
Qua rà soát, đánh giá các văn bản chính sách, pháp luật đối với NKT trong các lĩnh vực lao động, việc làm; y tế và giáo dục cho thấy: Nhìn chung, Nhà nước Việt Nam đã có một hệ thống chính sách, pháp luật đối với người khuyết tật tương đối đầy đủ, toàn diện. Các chính sách, pháp luật đối với NKT hiện nay đã thay đổi từ cách tiếp cận "từ thiện" sang cách tiếp cận dựa trên quyền, coi người khuyết tật là một bộ phận của nguồn nhân lực xã hội, được tạo cơ hội để chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng, học tập, lao động nhằm khắc phục khó khăn, phát huy khả năng vươn lên hòa nhập cộng đồng. Tuy nhiên, các văn bản chính sách, pháp luật vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, cần được bổ sung, sửa đổi cho phù hợp nhằm đảm bảo thực hiện tốt hơn quyền của người khuyết tật.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy: NKT còn gặp nhiều khó khăn, rào cản trong việc đảm bảo thực hiện quyền và thụ hưởng các chính sách hỗ trợ mà Nhà nước đã ban hành. Số NKT được học tập, có việc làm nhìn chung còn thấp. Nhiều NKT còn bị từ chối hoặc gặp vướng mắc khi đi khám chữa bệnh, làm thủ tục xin nhập học, xin việc; bị ngược đãi trong quá trình làm việc... Điều đáng nói là khi bị từ chối hoặc gặp vướng mắc, có đến gần 80% NKT chọn giải pháp im lặng, không lên tiếng vì họ không biết liên hệ với ai để nhận được sự hỗ trợ hoặc không tin rằng vấn đề sẽ được giải quyết.
Để khắc phục tình trạng nói trên, cần tiến hành nhiều giải pháp đồng bộ và hiệu quả; trong đó, việc nâng cao nhận thức cho NKT, gia đình, các bên liên quan và sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật đối với NKT trong các lĩnh vực nêu trên là vô cùng quan trọng. Trong khuôn khổ của khảo sát, xin được đưa ra một số giải pháp, khuyến nghị về hai vấn đề này.
3.1.    Nâng cao nhận thức pháp luật về lao động, việc làm, y tế, giáo dục đối với NKT:
Thứ nhất, cần tăng cường nguồn lực để tổ chức phổ biến, tập huấn chính sách, pháp luật cho người khuyết tật, (chú trọng về quyền và các chính sách đối với người khuyết tật) phù hợp với từng dạng khuyết tật, đặc biệt là người khuyết tật thuộc hộ nghèo, cận nghèo, ở vùng sâu vùng xa. Trong đó, cần quan tâm phương thức phổ biến pháp luật phù hợp với các dạng khuyết tật, nhất là những dạng khuyết tật khó tiếp cận với các tài liệu định dạng thông thường như: người khiếm thính, khiếm thị. Các lớp tập huấn cần kết hợp giữa phương pháp giảng viên thuyết trình với việc thảo luận, phân tích, giải quyết các tình huống cụ thể cũng như dành thời gian giải đáp những câu hỏi, vướng mắc của học viên. Để làm tốt điều này, cần đẩy mạnh các hoạt động cung cấp kiến thức, kĩ năng cho các giảng viên, cán bộ làm công tác liên quan đến người khuyết tật như: kiến thức về tính chất, đặc điểm của dạng tật; kỹ năng tiếp xúc, tư vấn, truyền đạt cho NKT với các dạng khuyết tật khác nhau.
Thứ hai, đẩy mạnh việc tiếp cận, ứng dụng công nghệ thông tin, trong đó, vừa giúp NKT có kiến thức, kỹ năng CNTT và phương tiện, trang thiết bị (máy tính, smartphone, radio, máy nghe MP3…) để người khuyết tật có điều kiện chủ động tìm hiểu thông tin kiến thức về chính sách, pháp luật. Cùng với đó, cần từng bước đảm bảo điều kiện tiếp cận cho NKT trên các phương tiện thông tin đại chúng như: có phiên dịch ngôn ngữ kí hiệu cho người khiếm thính và đảm bảo diễn đạt bằng lời nói những nội dung cơ bản để người khiếm thị tiếp cận được trên các chương trình truyền hình; các trang website tuân thủ chuẩn tiếp cận để người khiếm thị có thể sử dụng phần mềm hỗ trợ tiếng nói tiếp cận được nội dung thông tin.
Thứ ba, tăng cường công tác tuyên truyền và nâng cao nhận thức của gia đình người khuyết tật, người sử dụng lao động, cán bộ, nhân viên trong các ngành y tế, giáo dục, cộng đồng về quyền của người khuyết tật trong các lĩnh vực, chú trọng vấn đề quyền bình đẳng và các chính sách chống kỳ thị, phân biệt đối xử với người khuyết tật.
Thứ tư, cần nâng cao năng lực, vai trò của các hội, nhóm của và vì người khuyết tật trong việc nắm bắt nhu cầu tìm hiểu cũng như tổ chức các hoạt động tuyên truyền về chính sách, pháp luật đối với NKT. Đẩy mạnh sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, trong đó, có Trung tâm Trợ giúp pháp lí nhà nước với các tổ chức của và vì NKT trong việc triển khai các hoạt động phổ biến chính sách, pháp luật và trợ giúp pháp lí cho NKT.
3.2.    Bổ sung, sửa đổi chính sách, pháp luật về lao động, việc làm; y tế và giáo dục
3.2.1. Về lĩnh vực lao động, việc làm
Thứ nhất, đối với việc đào tạo nghề trình độ sơ cấp, đào tạo nghề dưới 3 tháng, chính sách chỉ hỗ trợ tiền ăn cho những ngày thực học, không hỗ trợ cho ngày nghỉ, thứ bảy và chủ nhật; trong khi người khuyết tật do đi lại khó khăn nên phải ăn ở, học tập trung trong suốt thời gian diễn ra khóa học. Bởi vậy, cần điều chỉnh chính sách theo hướng hỗ trợ tiền ăn cho NKT trong suốt khóa học.
Thứ hai, chính sách hỗ trợ học nghề chưa có các quy định cho các khóa đào tạo nghề ở trình độ cao (trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học) mà học viên khuyết tật tham gia các khóa này chỉ được miễn học phí khi thuộc hộ nghèo, cận nghèo theo quy định trong chính sách chung về giáo dục. Cần có chính sách hỗ trợ đào tạo nghề cho NKT ở các trình độ: trung cấp, cao đẳng, đại học. Trong đó, ngoài sự hỗ trợ cho người học khuyết tật, cần có thêm sự hỗ trợ về cơ sở vật chất, trang thiết bị, giáo viên, đảm bảo điều kiện cho việc đào tạo nghề đạt chất lượng và hiệu quả.
Thứ ba, chính sách hỗ trợ cho NKT tự tạo việc làm, hộ gia đình tự tạo việc làm còn mang tính chung chung, đặc biệt, việc hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm cho NKT không có quy định và hướng dẫn cụ thể. Cần có những quy định và hướng dẫn cụ thể để hỗ trợ NKT tự tạo việc làm và tiêu thụ sản phẩm. Trong đó, có chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm cho NKT.
Thứ tư, cần sửa đổi chính sách khuyến khích doanh nghiệp nhận NKT vào làm việc, đặc biệt là chính sách miễn thuế thu nhập doanh nghiệp. Nên bổ sung các quy định rõ ràng về tỉ lệ giảm thuế thu nhập khi doanh nghiệp sử dụng dưới 30% lao động là NKT; đồng thời, bỏ quy định doanh nghiệp phải đáp ứng yêu cầu có số lao động ổn định trong năm là 20 người trở lên mới được miễn thuế.
3.2.2. Về lĩnh vực y tế
Thứ nhất, theo quy định của Luật Bảo hiểm y tế và các văn bản hướng dẫn, đối tượng được cấp thẻ Bảo hiểm y tế với mức chi trả 100% chi phí khám chữa bệnh (trong phạm vi chi trả của BHYT) là NKT được nhận trợ cấp bảo trợ xã hội tức là người khuyết tật nặng và đặc biệt nặng. Nếu NKT nhẹ không thuộc hộ nghèo, cận nghèo để được hưởng chính sách cho các đối tượng này, không có việc làm để tham gia bảo hiểm y tế bắt buộc thì sẽ không được hưởng chính sách nào về bảo hiểm y tế, trong khi NKT nhìn chung có sức khỏe yếu và thường phải tham gia khám, chữa bệnh rất nhiều. Mức chuẩn nghèo, cận nghèo ở nước ta hiện còn khá thấp (hiện nay chuẩn nghèo là thu nhập từ 700.000 Đ/người/tháng trở xuống ở nông thôn và 900.000 Đ/người/tháng ở thành thị; cận nghèo là 1.000.000 Đ/người/tháng ở nông thôn và 1.300.000 Đ/người/tháng ở thành thị; từ năm 2022, chuẩn nghèo là 1.500.000 Đ/người/tháng và cận nghèo là 2.000.000 Đ/người/tháng ở cả hai khu vực), nên dù không thuộc đối tượng này thì nhiều NKT vẫn khó khăn về kinh tế. Bởi vậy, cần có chính sách hỗ trợ BHYT cho NKT nhẹ nhằm tạo điều kiện để họ được chăm sóc sức khỏe tốt hơn.
Thứ hai, phát triển các dịch vụ phục hồi chức năng ở các tuyến tỉnh, huyện và các dịch vụ phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng. Nhìn chung, điều kiện đi lại của NKT rất khó khăn, gia đình NKT thường có mức thu nhập thấp. Do đó, nếu NKT được chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng ngay tại địa phương mình sinh sống sẽ giảm bớt rất nhiều khó khăn cho bản thân NKT và gia đình.
Thứ ba, cần bổ sung dịch vụ phục hồi chức năng tâm lí cho NKT trí tuệ, thần kinh, tâm thần; các dụng cụ phục hồi chức năng như nạng, nẹp, gậy định hướng… vào danh mục vật tư y tế do BHYT chi trả.
3.2.3. Về lĩnh vực giáo dục
Thứ nhất, NKT chỉ được nhập học khi có độ tuổi cao hơn quy định chung là 3 tuổi, trong khi do điều kiện gặp nhiều khó khăn của bản thân và gia đình, một số NKT xin nhập học khi đã quá độ tuổi chênh lệch đó. Như vậy, chính sách này đã ảnh hưởng đến việc tham gia học tập của NKT. Cần xem xét bỏ quy định giới hạn độ tuổi khi nhập học của NKT, giúp NKT có thêm cơ hội bảo đảm thực hiện quyền được học tập, hòa nhập cộng đồng.
Thứ hai, chính sách miễn, giảm học phí chỉ dành cho NKT thuộc hộ nghèo, cận nghèo trong khi chuẩn nghèo ở nước ta là khá thấp. Mặt khác, NKT đi học thường phải chi phí nhiều hơn so với người không khuyết tật như: mua sắm các phương tiện, đồ dùng học tập đặc thù, chi phí đi lại, chuyển đổi tài liệu sang định dạng dễ tiếp cận… nên NKT còn gặp nhiều khó khăn trong học tập. Cần có chính sách miễn, giảm học phí cho NKT không thuộc hộ nghèo và cận nghèo, nhất là NKT nặng và đặc biệt nặng.
Thứ ba, cần bố trí nguồn lực và biện pháp bảo đảm thực hiện việc sản xuất, chuyển đổi, cung cấp sách giáo khoa, tài liệu, đồ dùng học tập đặc thù cho NKT, đặc biệt là cho đối tượng học sinh, sinh viên khó tiếp cận các tài liệu học tập thông thường như người khiếm thính, khiếm thị. Mặt khác, nhà nước cũng cần bổ sung, sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ và gia nhập Hiệp ước Marrakesh về tạo điều kiện cho người khiếm thị và người khuyết tật không có khả năng đọc chữ in khác tiếp cận với các tác phẩm đã công bố nhằm tạo hành lang pháp lí cho việc chuyển đổi sách giáo khoa, tài liệu… sang định dạng dễ tiếp cận cho NKT như: chữ Braille, audio, văn bản điện tử, chữ phóng to, ngôn ngữ kí hiệu…
Thứ tư, cần xem xét thay đổi cơ chế tuyển thẳng vào trung học phổ thông, cao đẳng, đại học mà thay bằng việc tạo điều kiện hỗ trợ tiếp cận (chuyển đổi đề thi sang chữ Braille hoặc file điện tử, cho người khiếm thính sử dụng máy tính làm bài thi…) để NKT tham gia kì thi như các thí sinh khác (có thể ưu tiên cộng điểm nhất định nhưng không miễn thi). Điều này vừa bảo đảm cho NKT thực hiện quyền, vừa khuyến khích NKT nỗ lực vươn lên trong học tập.
3.2.4. Về trợ giúp pháp lí
Thứ nhất, theo Luật Trợ giúp pháp lí 2017, Nghị định số 144/20147/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Trợ giúp pháp lí thì NKT thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo hoặc nhận trợ cấp xã hội hàng tháng được trợ giúp pháp lí miễn phí. Cần xem xét miễn/ giảm phí trợ giúp, tư vấn pháp lí cho NKT không thuộc đối tượng này vì như trên đã nói, mức chuẩn nghèo, cận nghèo của nước ta khá thấp nên nhiều NKT không thuộc các đối tượng này vẫn gặp khó khăn về tài chính.
Thứ hai, tại Luật Trợ giúp pháp lí 2017, Điều 27 quy định: Trợ giúp pháp lí được thực hiện trong các lĩnh vực pháp luật, trừ lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Trong khi đó, chính sách của nhà nước vẫn khuyến khích NKT tự tạo việc làm, hộ gia đình tạo việc làm cho NKT (bao gồm các hoạt động SXKD) hay các doanh nghiệp nhận NKT vào làm việc và nhiều NKT cũng như những đối tượng khó khăn khác vẫn có nhu cầu được tư vấn, trợ giúp pháp lí trong lĩnh vực này.
Cùng với các nội dung nêu trên, khi sửa đổi Luật Người khuyết tật, cần bổ sung, sửa đổi các khái niệm về phân biệt đối xử, giao tiếp, điều chỉnh hợp lí để các khái niệm này bao hàm các nội dung đầy đủ, toàn diện như trong Công ước của Liên hiệp quốc về quyền của người khuyết tật. Mặt khác, cần có các chế tài xử phạt đủ mạnh cho các hành vi vi phạm để các quy định được tuân thủ và thực thi hiệu quả; nâng cao trách nhiệm của mỗi cá nhân, tổ chức, cộng đồng trong việc bảo đảm quyền cho NKT.
Ngoài ra, Nhà nước cần quan tâm cải thiện điều kiện tiếp cận các phương tiện giao thông, công trình công cộng, cơ sở vật chất hạ tầng: trường học, bệnh viện… là những tiền đề quan trọng để NKT được bảo đảm thực hiện quyền, trong đó, có các quyền trong lĩnh vực lao động, việc làm, y tế và giáo dục, giúp họ vươn lên hòa nhập cộng đồng.